Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm cả việc phát triển công nghệ tin học, một ngành mới mẻ ở Việt Nam nhưng không phải là ngành mới mẻ trên thế giới. Để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển chúng ta đã có những khuyến khích đối với nền công nghệ non trẻ này. Là một công ty công nghệ tin học ra đời đầu tiên tại Việt Nam,
110 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1427 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm cả việc phát triển công nghệ tin học, một ngành mới mẻ ở Việt Nam nhưng không phải là ngành mới mẻ trên thế giới. Để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển chúng ta đã có những khuyến khích đối với nền công nghệ non trẻ này. Là một công ty công nghệ tin học ra đời đầu tiên tại Việt Nam, Công ty Phát triển và đầu tư công nghệ (the coporation for Financing and Promoting Technology-FPT) đã nhận được sự cổ vũ từ Trung ương về mọi mặt. Công ty phát triển đầu tư công nghệ -FPT là một đơn vị hoạt động trong lĩnh vực tin học vào loaị lớn nhất nước ta hiện nay.Với chưa đầy 13 năm kinh nghiệm hoạt động nhưng công ty FPT đã kịp vươn ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tuy tuổi đời còn non trẻ nhưng hiện nay công ty FPT với đội ngũ cán bộ đầy tài năng và nhiệt huyết đã trở thành một cánh tay đắc lực của Đảng và Nhà nước trong công cuộc cải tổ, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công ty FPT đã trở thành lá cờ đầu trong phong trào phổ cập tin học cho mọi tầng lớp nhân dân và sớm phát hiện, nuôi dưỡng khích lệ những mầm non tài năng cho đất nước. Hệ thống phân phối của công ty phát triển rộng rãi trên khắp cả nước với doanh thu ngày càng cao.
Xây dựng Kế hoạch kinh doanh là một vấn đề hết sức phức tạp, đòi hỏi phải tính đến các vấn đề thuận lợi và khó khăn bên trong và bên ngoài trên cơ sở chiến lược kinh doanh đã đề ra của công ty sao cho hoạt động kinh doanh của công ty đạt hiệu quả cao nhất. Trong nền kinh tế thị trường, để thích ứng với môi trường luôn thay đổi, công ty FPT muốn thành công cần phải có khả năng ứng phó với mọi tình huống. Điều này đòi hỏi nhà quản trị phải nắm được những xu thế đang thay đổi, tìm ra những yếu tố then chốt đảm bảo thành công, biết khai thác những ưu thế tương đối, hiểu được những điểm mạnh, điểm yếu của mình và của các đối thủ cạnh tranh, hiểu được mong muốn của khách hàng và khả năng đáp ứng của công ty, biết cách tiếp cận thị trường nhằm tìm ra các cơ hội kinh doanh, từ đó vạch ra kế hoạch kinh doanh đúng đắn.
Với mục tiêu nghiên cứu những vấn đề lý luận, phương pháp luận và phương pháp cụ thể để xây dựng kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại, nghiên cứu cơ sở hình thành các chính sách, biện pháp về chỉ đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT; Bên cạnh đó, để phân tích thực trạng tình hình xây dựng và thực hiện kế hoạch kinh doanh của công ty FPT trong thời gian từ năm 1997 đến nay, nhận thức được mặt mạnh cũng như mặt yếu cần khắc phục trong vấn đề này, qua đó đề ra những giải pháp giúp công ty xây dựng được Kế hoạch kinh doanh đúng đắn, thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty hiệu quả hơn; tôi đi sâu vào nghiên cứu đề tài:
"Một số vấn đề về xây dựng và thực hiện Kế hoạch kinh doanh máy tính và các thiết bị tin học của công ty FPT".
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là Kế hoạch kinh doanh cụ thể là kế hoạch lưu chuyển mặt hàng máy tính và các thiết bị tin học cuả công ty FPT và phạm vi nghiên cứu của đề tài là:
- Về mặt không gian: Tổng công ty Phát triển và Đầu tư công nghệ- FPT
- Về mặt thời gian: Từ năm 1997 đến nay
Trong đó tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp khác nhau như: phương pháp duy vật biện chứng, phương pháp duy vật lịch sử, phương pháp phân tích phương pháp tổng hợp, tiếp cận hệ thống, phương pháp thống kê, toán học, dự báo.
Chương I
Vai trò, nội dung của công tác xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
I. Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong hoạt động của doanh nghiệp thương mại
1. Tính tất yếu và bản chất của kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp thương mại
Kế hoạch kinh doanh được coi là một văn bản trong đó phác thảo ra những gì sẽ làm trong thời gian tới: đó là những gì mua vào, sản xuất, bán ra và bán cho ai, cần nguồn nhân lực vật lực như thế nào để công ty tồn tại và phát triển.
Sự chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang xây dựng cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải nghiên cứu và giải quyết. Một trong những vấn đề đó là lĩnh vực kế hoạch hóa. Trong những năm chuyển đổi vừa qua có không ít những ý kiến bàn luận về vai trò và sự tồn tại khách quan của công tác này. Những ý kiến không hoàn toàn thống nhất với nhau mà còn thậm chí trái ngược nhau. Một số ý kiến cho rằng: trong nền kinh tế thị trường, trong cơ chế quản lý mới này không có chỗ cho công tác kế hoạch hóa, tức là kế hoạch hóa không thể tồn tại trong kinh tế thị trường, công tác này chỉ thích hợp trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp. Một số ý kiến khác lại cho rằng: giờ đây khi thị trường trực tiếp điều tiết và chỉ dẫn cho các doanh nghiệp trong các hoạt động nhằm giải quyết những vấn đề kinh tế cơ bản, dù trong điều kiện nào công tác kế hoạch hóa nói chung và công tác kế hoạch hóa trong doanh nghiệp nói riêng vẫn tồn tại như một khâu, một bộ phận của hoạt động quản lý và là một trong những yếu tố cấu thành của cơ chế quản lý. Khi môi trường và điều kiện hoạt động thay đổi, cùng với các bộ phận khác của cơ chế quản lý mới, công tác kế hoạch hóa cũng cần được nghiên cứu và đổi mới.
Những bài học thực tiễn trong cơ chế cũ không phải ít, với cơ chế điều hành cứng nhắc từ trên xuống dưới thể hiện ở các chỉ tiêu pháp lệnh thông qua hệ thống kế hoạch pháp lệnh đã để lại một sự ăn mòn trong công tác xây dựng kế hoạch kinh doanh của các công ty mà cho đến nay vẫn còn chưa xoá nhòa được. Hậu quả của cơ chế cũ đã làm cho các doanh nghiệp không biết đến thị trường, đi ngược lại với các quy luật của thị trường như: quy luật cung cầu, quy luật giá cả…và do đó điều hành hoạt động sản xuất kinh doanh thiếu linh hoạt, nhà sản xuất không biết đến nhu cầu của người tiêu dùng, sản xuất và kinh doanh không gắn liền với hiệu quả kinh tế. Trong giai đoạn này các doanh nghiệp chỉ quan tâm đến việc có hoàn thành kế hoạch được giao hay không. Trong khi đó cơ chế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị kinh tế thì hiệu quả kinh tế là mục tiêu hàng đầu, mục tiêu bao trùm lên tất cả các mục tiêu khác. Kế hoạch cho phép các doanh nghiệp biết đến hướng đi trong thời gian sắp tới, nó không chỉ quan tâm đến vấn đề tài chính mà còn phải xem xét đến các hoạt động khác của công ty: thị trường, khách hàng, sự biến động của môi trường kinh doanh…và những thay đổi có thể xảy ra, công ty có cách ứng phó như thế nào trước sự thay đổi đó. Ngoài ra kế hoạch còn là cơ sở để ngân hàng xem xét có nên cho công ty vay vốn để sản xuất kinh doanh hay không, vì qua bản kế hoạch kinh doanh công ty sẽ cho ngân hàng thấy được tương lai của công ty mở mang phát triển đến đâu. Trong trường hợp đó kế hoạch kinh doanh thực sự có ý nghĩa đối với các doanh nghiệp.
Thực tế hoạt động quản lý của doanh nghiệp trong những năm vừa qua đã đem lại những bài học kinh nghiệm quý giá rằng nếu coi thường các yêu cầu của công tác kế hoạch, của phương thức hạch toán kinh doanh, đúng nguyên tắc tập trung dân chủ sẽ dẫn đến cách làm tuỳ tiện, thiếu kỷ cương, mạnh ai nấy làm, không thể kiểm soát hết được. Thực tế này đã dẫn đến một thực trạng thiếu ổn định trong công tác quản lý và kế hoạch hóa doanh nghiệp: khi thì quá dân chủ dẫn đến “dân chủ quá trớn” khi thì quá gò bó cứng nhắc, nguyên tắc làm cho các hoạt động kém linh hoạt.
Những bài học kinh nghiệm thực tế từ những nước có nền kinh tế thị trường phát triển cùng với những kết quả ban đầu trong những năm đổi mới đã phần nào khẳng định rằng: Sự tồn tại của công tác kế hoạch hóa trong cơ chế mới này là một tất yếu khách quan cần phải được tăng cường và đổi mới bởi lẽ: Xét về mặt bản chất thì kế hoạch hóa là một hoạt động chủ quan, có ý thức có tổ chức của con người nhằm xác định mục tiêu, phương án, bước đi, trình tự và cách thức tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh. Do đó kế hoạch hóa là yêu cầu của bản thân quá trình lao động của con người và gắn liền với quá trình đó. Thực chất của kế hoạch hóa là quá trình định hướng và điều khiển các định hướng đối với sự phát triển sản xuất theo quy luật tái sản xuất mở rộng ở mọi cấp độ của nền kinh tế.
Trong thực tế ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển họ đều rất quan tâm đến công tác kế hoạch ở cấp công ty. Họ đánh giá đúng vai trò, vị trí, xác định rõ chức năng và tổ chức nghiên cứu, thực thi nhiều giải pháp nhằm thực hiện hoàn chỉnh công tác này. Qua những thử nghiệm và đánh giá các nhà kinh tế học nhận định rằng: hoạt động kế hoạch hóa công ty là sự cần thiết nhằm thực hiện hai mục đích là tận dụng các cơ hội để tăng khả năng thành công trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và tránh các rủi ro, đe doạ của môi trường đến các doanh nghiệp. Và thực tế ngày nay trong các doanh nghiệp công tác kế hoạch hoá đã được quan tâm hàng đầu bởi lẽ hoạt động này giúp cho các đơn vị kinh tế hoạch định các mục tiêu hoạt động, dự báo các khả năng và nguồn lực của doanh nghiệp, xây dựng và đánh giá các phương án, hoạt động nhằm thực hiện các mục tiêu sản xuất kinh doanh đã dặt ra cho năm kế hoạch.
Ra đời từ sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, doanh nghiệp thương mại trở thành một bộ phận trung gian độc lập giữa sản xuất và tiêu dùng, thực hiện chức năng phục vụ nhu cầu của sản xuất, tiêu dùng về các loại hàng hóa trong nền kinh tế quốc dân, phát hiện nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ trên thị trường và tìm mọi cách để thỏa mãn các nhu cầu đó. Không ngừng nâng cao trình độ thỏa mãn nhu cầu của các khách hàng để nâng cao hiệu quả kinh doanh; giải quyết tốt các mối quan hệ nội bộ doanh nghiệp và quan hệ giữa doanh nghiệp với bên ngoài. Sự thành công trong kinh doanh chỉ đến với doanh nghiệp khi doanh nghiệp biết phối hợp tốt nhất các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Kế hoạch kinh doanh là một công cụ, một yếu tố để tổ chức và quản trị các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho có hiệu quả. Kế hoạch kinh doanh có chức năng chủ yếu là tính toán các nguồn tiềm năng, dự kiến khai thác các khả năng có thể huy động và phối hợp các nguồn tiềm năng ấy theo những định hướng chiến lược đã định để tạo ra một cơ cấu hợp lý thúc đẩy tăng trưởng nhanh và giữ cân bằng các yếu tố trên tổng thể.
* Khái niệm kế hoạch kinh doanh trong doanh nghiệp thương mại
Doanh nghiệp thương mại khi tiến hành kinh doanh thường phải lập nhiều kế hoạch hoạt động kinh doanh trong đó cơ bản nhất là kế hoạch lưu chuyển hàng hoá. Kế hoạch lưu chuyển hàng hoá của doanh nghiệp thương mại là bảng tính tổng hợp những chỉ tiêu bán ra, mua vào và dự trữ hàng hoá đáp ứng nhu cầu khách hàn, trên cơ sở khai thác tối đa khả năng có thể có của doanh nghiệp trong kỳ kế hoạch.
2. Các bộ phận cấu thành kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp
Với vai trò là công cụ quản trị quan trọng nhằm đạt được các mục tiêu đề ra của doanh nghiệp, kế hoạch ngày nay bao gồm 3 bộ phận cơ bản: kế hoạch hoá mục tiêu phát triển, kế hoạch hoá nguồn lực và cách đạt được mục tiêu, kế hoạch hoá chính sách xã hội và phân phối các kết quả đạt được.
2.2.1 Kế hoạch hoá mục tiêu của doanh nghiệp là việc doanh nghiệp đề ra các kết quả kinh doanh cần phấn đấu để đạt được trong thời gian kế hoạch.
- Các chỉ tiêu của kế hoạch mục tiêu: là các kết quả kinh doanh tổng hợp của doanh nghiệp như sản lượng, doanh thu lợi nhuận, các khoản nộp ngân sách Nhà nước đối với các doanh nghiệp Nhà nước.
- Yêu cầu đối với các chỉ tiêu nói trên được căn cứ vào mối quan hệ tác động giữa chúng, xuất phát từ tình hình thực tế các năm trước, tháng trước xuất phát từ nhu cầu thị trường qua kết quả nghiên cứu thị trường, từ kế hoạch của Nhà nước giao (đối với các doanh nghiệp Nhà nước).
- Quá trình xây dựng mục tiêu là tính toán và phân tích chỉ số tuyệt đối, tương đối của từng chỉ tiêu tổng quát và các bộ phận cấu thành chỉ tiêu (như tổng doanh thu, doanh thu sản phẩm, doanh thu từ các dịch vụ…) đồng thời phân tích tỉ trọng các bộ phận cấu thành nhằm rút ra các giải pháp, chính xác đúng đắn nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Xác định tỉ xuất lợi nhuận theo doanh thu, chi phí...nhằm so sánh hiệu quả sản xuất kinh doanh của đơn vị qua các năm.
2.2.2 Kế hoạch các nguồn lực và cách (chủ trương, biện pháp) để đạt được mục tiêu. Để đạt được mục tiêu đề ra, doanh nghiệp cần phải có các nguồn lực (con người, vốn, công nghệ, đất đai) làm giàu cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn lực này không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có sẵn mà phải huy động. Chính vì vậy mà ngay từ khi triển khai thực hiện kế hoạch doanh nghiệp cần phải có chính sách từng bước huy động các nguồn lực với chất lượng cần thiết cho việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
- Các bộ phận của kế hoạch nguồn nhân lực là kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch trang thiết bị cơ sở vật chất phục vụ sản xuất và quản lý, kế hoạch nguồn vốn, kế hoạch phát triển nguồn nhân lực (kế hoạch đào tạo, kế hoạch lao động tiền lương). Bên cạnh đó là việc hệ thống hoá các chính sách Marketing, chính sách tiêu thụ sản phẩm, chính sách phát triển các dịch vụ trong và sau khâu bán hàng…nhằm đẩy nhanh tốc độ hoàn thành kế hoạch.
- Yêu cầu của kế hoạch nguồn lực là phải xuất phát từ kế hoạch mục tiêu (có cả sự kết hợp các mục tiêu dài hạn), lấy kế hoạch làm cơ sở cho các quá trình tính toán, xây dựng kế hoạch.
Giữa kế hoạch mục tiêu và kế hoạch nguồn nhân lực cho sự phát triển có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Kế hoạch mục tiêu là cơ sở cho kế hoạch nguồn nhân lực lại là điều kiện để có thể đạt được kế hoạch mục tiêu. Nếu các nguồn lực không cho phép thì các chỉ số của kế hoạch mục tiêu bắt buộc phải giảm bớt. Ngược lại nếu nguồn lực huy động được vượt qua sự cần thiết để hoàn thành kế hoạch có thể dẫn đến sự lãng phí nguồn lực, đặc biệt là yếu tố con người.
Xây dựng các chỉ tiêu kế hoạch trong kế hoạch nguồn nhân lực: là việc xác định các thông số kỹ thuật, kinh tế hay các thông số về nguồn lực cần đạt được trong thời gian tới, với tiến độ kịp thời, có lợi nhất cho việc thực hiện kế hoạch mục tiêu. Kế hoạch đầu tư cần có sự chi tiêu, cụ thể tránh sự chồng chéo, chậm trễ hay lãng phí.
2.2.3 Kế hoạch các chính sách xã hội và phân phối kết quả kinh doanh là việc hoàn thành các nghĩa vụ đối với Nhà nước (nếu là doanh nghiệp Nhà nước), việc thực hiện các hoạt động mang tính chất tích cực nâng cao phúc lợi cho người lao động trong đó chủ yếu là chính sách an toàn lao động, thưởng, trợ cấp, giúp đỡ người lao động lúc khó khăn…Việc thực hiện các chính sách này được thực hiện bằng cách trích lập các quỹ dành cho người lao động. Các quỹ này được tài trợ bởi kết quả tài chính mà doanh nghiệp đạt được. Các kết quả tài chính này có thể biến động của môi trường kinh doanh. Tuy nhiên cần có sự phân chia theo đúng tỷ lệ nhất định nhằm đạt được những mục tiêu nhất định. Đó có thể là những mục tiêu phát triển dài hạn đòi hỏi sự tích luỹ tài chính lâu dài, hay dùng để trả nợ vay dài hạn…
Yêu cầu của kế hoạch phân phối kết quả kinh doanh là phải sử lý thoả đáng các mối quan hệ giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Trong nội bộ doanh nghiệp, khi phân bổ vào các quỹ cũng cần có sự tương xứng thích đáng với vai trò và tầm quan trọng của mỗi quỹ. Việc sử lý thoả đáng các mối quan hệ bên ngoài và bên trong doanh nghiệp có tác dụng rất lớn đối với sự phát triển bền vững của doanh nghiệp.
3. Các loại kế hoạch kinh doanh ở doanh nghiệp và mối quan hệ giữa các loại kế hoạch kinh doanh đó
* Căn cứ vào tiêu thức thời gian, kế hoạch kinh doanh bao gồm:
- Kế hoạch chiến lược (thường được gọi là chiến lược) nhằm xác định các lĩnh vực mà công ty sẽ tham gia, đa dạng hóa hoặc cải thiện hoạt động trên các lĩnh vực hiện tại, xác định các mục tiêu và các giải pháp dài hạn cho các vấn đề chính, đầu tư nghiên cứu phát triển, con người…
- Kế hoạch trung hạn: thường là 2,3 năm nhằm phác thảo chương trình trung hạn để thực hiện kế hoạch hóa dài hạn, tức là để đảm bảo tính khả thi lĩnh vực mục tiêu, chính sách và giải pháp được hoạch định trong chiến lược đã chọn.
- Chương trình kế hoạch hàng năm : tuỳ theo cách tiếp cận của kế hoạch chiến lược và kế hoạch trung hạn; cách cụ thể hoá các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh hàng năm có thể được xác định theo chương trình hoặc các phương án kế hoạch năm. Cho dù kế hoạch năm được xác định như thế nào thì bản chất của nó là sự cụ thể hóa nhiệm vụ sản xuất kinh doanh căn cứ vaò định hướng mục tiêu chiến lược và các kế hoạch trung hạn, căn cứ vào kết quả nghiên cứu điều tra các căn cứ, xây dựng kế hoạch phù hợp với điều kiện của kế hoạch năm.
- Kế hoạch tác nghiệp và các dự án: để triển khai các mục tiêu và hoạt động sản xuất kinh doanh các công ty cần hoạch định kế hoạch tác nghiệp và các phương án. Các kế hoạch tác nghiệp (có thể theo sản phẩm, theo lĩnh vực, theo bộ phận sản xuất hoặc theo tiến độ thời gian…) gắn liền với việc triển khai các phương án kế hoạch còn các dự án về cải tạo hiện đại hoá dây chuyền công nghệ, đào tạo nghiên cứu phát triển…lại gắn liền với việc thực thi các chương trình hoặc các chương trình đồng bộ có mục tiêu.
* Căn cứ vào mối quan hệ giữa các loại hoạt động kế hoạch hóa phạm vi doanh nghiệp có:
- Bộ phận kế hoạch mục tiêu: đây là bộ phận kế hoạch quan trọng nhất của doanh nghiệp, có nhiệm vụ hoạch định các mục tiêu về sản xuất, thị trường quy mô và cơ cấu các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó bộ phận kế hoạch mục tiêu cũng xác định các mục tiêu tài chính cơ bản nhằm xác định hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với từng phương án được hoạch định.
- Các kế hoạch điều kiện, hỗ trợ về vốn, vật tư, nhân lực, tiền lương…xác định chính sách giải pháp, phương hướng huy động khai thác các khả năng nguồn lực nhằm thực hiện có hiệu quả các phương án kế hoạch mục tiêu và gắn liền với kế hoạch mục tiêu. Việc xác định các kế hoạch này nhằm đảm bảo tính đồng thời trong mục tiêu, giải pháp và điều kiện thực hiện các kế hoạch quản lý. Độ dài thời gian và các yêu cầu của kế hoạch mục tiêu sẽ quyết định cá vấn đề tương lai của các kế hoạch điều kiện. Cuối cùng việc xây dựng và thực hiệc các kế hoạch điều kiện là nhằm đảm bảo và nâng cao tính khả thi của các phương án và các chương trình kế hoạch của các doanh nghiệp.
4. Vai trò của kế hoạch kinh doanh trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thương mại
Trong phạm vi doanh nghiệp, kế hoạch là chức năng đầu tiên và quan trọng của quản lý doanh nghiệp. Theo Henry Foyol “Doanh nghiệp chỉ thu được kết quả khi nó được hướng dẫn bởi một chương trình hoạt động, một kế hoạch nhất định nhằm xác định rõ: Sản xuất cái gì? Sản xuất bằng cách nào? Bán cho ai? Với nguồn tài chính nào?”
Trước kia, trong cơ chế bao cấp, các chỉ tiêu kế hoạch được các cơ quan cấp trên giao xuống theo nhiệm vụ của từng ngành, do đó thường không sát với thực tế của doanh nghiệp, trong quá trình thực hiện phải có sự điều chỉnh mới có thể thực hiện được, làm cho vai trò của kế hoạch bị hạ thấp trong quản lý doanh nghiệp. Từ khi nền kinh tế nước chuyển sang “Cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN“ (Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI - năm 1986) mới thực sự tạo ra môi trường cho kế hoạch hoạt động, nghĩa là kế hoạch phải xuất phát từ nhu cầu thị trường, khả năng thực tế của doanh nghiệp và trong điều kiện pháp luật cho phép. Xuất phát từ nhũng cơ sở này, kế hoạch thực sự trở thành công cự quản lý quan trọng nhằm xác định nhiệm vụ và mối quan hệ giữa các bộ phận và các cá nhân trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
Xét một cách cụ thể, vai trò là công cụ quản lý của kế hoạch được thể hiện trên các mặt cơ bản sau:
- Thứ nhất: Trong lĩnh vực kinh doanh, kế hoạch tạo ra thế chủ động (tức là tạo ra một sự định hướng). Chủ động khai thác mọi nguồn khả năng tiềm tàng về vốn, vật tư, máy móc thiết bị, lao động hiện có, chủ động trong việc mua sắm hàng hoá, trong việc đổi mới thiết bị và công nghệ, chủ động trong việc liên doanh và hợp tác kinh doanh với các đối tác khác, chủ động trong việc tìm thị trường tiêu thụ, thị trường nguyên vật liệu đầu vào…
- Thứ hai: Kế hoạch là cô