Văn học Việt Nam từ 1986 trở đi đã có nhiều thành tựu to lớn. Một trong những thành tựu đó phải kể đến là sự chuyển đổi theo hướng hiện đại hóa về phương thức sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ.
Trong số các thể loại của văn học đương đại, “tiểu thuyết được coi là cỗ máy cái”, “là sử thi về đời tư” (Bê-lin-xki); là nơi mà cuộc đời được phơi trên trang giấy một cách chân thực nhất, sâu sắc nhất; là “giá trị không thể thay thế được”. Một tiểu thuyết hay không phụ thuộc độ dài, ngắn, số lượng trang, mà ở chỗ nó khám phá và lý giải ra sao về một lĩnh vực nào đó của đời sống, “đặt ra những câu hỏi” nhân sinh và tìm cách “trả lời những câu hỏi đó” như thế nào.
Tiểu thuyết đương đại thể hiện một bước đột phá mạnh mẽ về “kỹ thuật tự sự”, tiết tấu trần thuật nhanh hơn; kết cấu phức tạp, biến hoá, đan xen nhiều tầng bậc; phương thức xây dựng nhân vật cũng hoàn toàn khác trước.
Văn học đương đại nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng không quan tâm quá mức đến việc nhà văn viết về đề tài gì: thành thị, nông thôn, “hướng ra công trường, hướng về ruộng đồng” nữa mà chủ yếu là xem nhà văn đó viết như thế nào về cùng một đề tài với những người khác; xem “kỹ thuật” của anh ta có những nét gì mới và khác lạ. Trong cùng công việc là “cày xới mảnh đất hiện thực”, ai “trồng được cây” tốt hơn có nghĩa là người đó phải có một kỹ thuật riêng, ở đó phát huy đầy đủ và hiệu quả nhất toàn bộ bí quyết, “kỹ năng, kỹ xảo” và sở trường của anh ta.
47 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một vài phương diện về kỹ thuật tự sự, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cảm ơn!
Em xin chân thành bày tỏ lòng biết ơn tới PGS.TS Lý Hoài Thu, người đã trực tiếp hướng dẫn và giúp đỡ em viết bản Báo cáo Khoa học này!
Em cũng xin chân thành cám ơn các Thầy Cô giáo Khoa Văn học, Trường Đại học KHXH & NV, Đại học Quốc gia Hà Nội, đã dạy dỗ, động viên và khích lệ em tham gia hoạt động khoa học!
Chân thành cám ơn bạn bè đã giúp đỡ và góp ý cho Báo cáo!
Hà Nội, 24/03/2005
Tác giả
Đinh Việt Hà
MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài
Văn học Việt Nam từ 1986 trở đi đã có nhiều thành tựu to lớn. Một trong những thành tựu đó phải kể đến là sự chuyển đổi theo hướng hiện đại hóa về phương thức sáng tạo nghệ thuật của các nhà văn, nhà thơ.
Trong số các thể loại của văn học đương đại, “tiểu thuyết được coi là cỗ máy cái”, “là sử thi về đời tư” (Bê-lin-xki); là nơi mà cuộc đời được phơi trên trang giấy một cách chân thực nhất, sâu sắc nhất; là “giá trị không thể thay thế được”. Một tiểu thuyết hay không phụ thuộc độ dài, ngắn, số lượng trang, mà ở chỗ nó khám phá và lý giải ra sao về một lĩnh vực nào đó của đời sống, “đặt ra những câu hỏi” nhân sinh và tìm cách “trả lời những câu hỏi đó” như thế nào.
Tiểu thuyết đương đại thể hiện một bước đột phá mạnh mẽ về “kỹ thuật tự sự”, tiết tấu trần thuật nhanh hơn; kết cấu phức tạp, biến hoá, đan xen nhiều tầng bậc; phương thức xây dựng nhân vật cũng hoàn toàn khác trước.
Văn học đương đại nói chung và tiểu thuyết đương đại nói riêng không quan tâm quá mức đến việc nhà văn viết về đề tài gì: thành thị, nông thôn, “hướng ra công trường, hướng về ruộng đồng” nữa mà chủ yếu là xem nhà văn đó viết như thế nào về cùng một đề tài với những người khác; xem “kỹ thuật” của anh ta có những nét gì mới và khác lạ. Trong cùng công việc là “cày xới mảnh đất hiện thực”, ai “trồng được cây” tốt hơn có nghĩa là người đó phải có một kỹ thuật riêng, ở đó phát huy đầy đủ và hiệu quả nhất toàn bộ bí quyết, “kỹ năng, kỹ xảo” và sở trường của anh ta.
Từ 1986 trở đi, ta đã thấy có rất nhiều đổi mới trong phương thức sáng tạo ở các tác phẩm tự sự của các nhà văn: Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Dương Hướng, Bảo Ninh... Trong các gương mặt tiểu thuyết trẻ hiện nay, chúng tôi quan tâm đến Tạ Duy Anh và các tác phẩm của ông. Tuy nhiên chúng tôi mới chỉ thấy một số bài báo viết giới thiệu về tác giả này và bình luận về những tác phẩm mới đây của ông; chưa thấy có ai nghiên cứu chuyên sâu về nghệ thuật tiểu thuyết của nhà văn trẻ này. Nhận thấy tiểu thuyết của Tạ Duy Anh có nhiều nét mới mẻ về nghệ thuật, chúng tôi quyết định lựa chọn “một vài phương diện về kỹ thuật tự sự” trong tiểu thuyết Lão Khổ của ông làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Mục đích, ý nghĩa của đề tài:
Chọn đề tài nghiên cứu trên, chúng tôi muốn nắm bắt những đặc điểm nghệ thuật tiểu thuyết của Tạ Duy Anh thông qua kỹ thuật tự sự của ông, từ đó phát hiện những nét sáng tạo mà ông đóng góp cho thể loại này, cũng như tạo nên diện mạo mới mẻ cho văn đàn đương đại
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Nhằm phát hiện những nét sáng tạo và cống hiến của Tạ Duy Anh trong tiểu thuyết Lão Khổ, chúng tôi đã chọn một vài khía cạnh về kỹ thuật tự sự làm đối tượng và phạm vi nghiên cứu cho đề tài của mình, đó là cách thức tổ chức điểm nhìn trần thuật, các phương thức kết cấu tác phẩm, nghệ thuật phân tích tâm lý v.v. Thời gian có hạn, cũng như mục đích mà đề tài hướng tới đã không cho phép chúng tôi khảo sát tất cả mọi phương diện về kỹ thuật tự sự của Tạ Duy Anh trong Lão Khổ. Tuy nhiên, qua việc tìm hiểu những khía cạnh được coi là tiêu biểu trong cách thức tự sự của ông, chúng tôi mong rằng, sẽ chỉ ra được những điểm cơ bản làm nên sức hấp dẫn của ngòi bút tiểu thuyết Tạ Duy Anh.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Nhằm tiếp cận kỹ thuật tự sự trong tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy Anh từ góc độ tự sự học (thi pháp học cấu trúc), chúng tôi đã lựa chọn các phương pháp và thao tác khoa học như phân loại, thống kê, mô tả, phân tích; tuy còn chưa được đúng mức, nhưng phương pháp đối chiếu - so sánh cũng được chúng tôi sử dụng để xem xét đối tượng trên bình diện lịch sử.
5. Bố cục Báo cáo:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Báo cáo chia Nội dung chính làm ba phần, tương ứng với ba phương diện về kỹ thuật tự sự trong tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy Anh:
I. Điểm nhìn trần thuật
II. Kết cấu tác phẩm
III. Mô tả, phân tích tâm lý nhân vật
6. Quy cách trình bày:
1. Tên các loại tác phẩm: in nghiêng, không đậm.
2. Thông tin trong ngoặc vuông thứ tự là: tài liệu dẫn, ở trang thứ...
3. Viết tắt: Nxb = Nhà xuất bản; tr. = trang v.v.
NỘI DUNG CHÍNH
I. TỔ CHỨC ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT
Chúng tôi xin bắt đầu công việc khảo sát kỹ thuật tự sự của Tạ Duy Anh trong tiểu thuyết Lão Khổ từ nghệ thuật tổ chức điểm nhìn trần thuật. Điểm nhìn trần thuật là một yếu tố không thể thiếu được trong nghệ thuật tiểu thuyết. “Trần thuật bao gồm kể và miêu tả các hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung, hoàn cảnh hành động, tả ngoại cảnh, tả nội thất..., bàn luận, lời nói bán trực tiếp của các nhân vật. Do vậy, trần thuật là phương thức chủ yếu để cấu tạo tác phẩm tự sự. Tính chất của trần thuật tùy thuộc vào điểm nhìn mà từ đó nó được dẫn dắt, tùy thuộc vào tương quan giữa tác giả và người trần thuật hoặc người kể chuyện, tùy thuộc vào sự đánh giá của tác giả đối với sự kiện được miêu tả...” [7, 324].
Một đặc điểm nổi bật về tổ chức điểm nhìn trần thuật trong tiểu thuyết Lão Khổ là sự biến đổi linh hoạt chủ thể kể và sự dịch chuyển tinh tế điểm nhìn trần thuật. Chủ thể kể chuyện và điểm nhìn trần thuật thực chất là đồng nhất với nhau. Ở tác phẩm này, có thể khái quát những nét độc đáo của ngòi bút Tạ Duy Anh về tổ chức điểm nhìn trần thuật như sau:
- Từ hiện tại nhìn về quá khứ và hướng đến tương lai;
- Dịch chuyển tinh tế, linh hoạt giữa các ngôi kể, chẳng hạn:
+ Kể chuyện ở ngôi thứ nhất,
+ Kể chuyện ở ngôi thứ ba,
+ Chủ thể kể vô hình.
1. Từ hiện tại tới quá khứ và tương lai:
Đọc Lão Khổ, chúng ta thấy, nhân vật không chỉ được nhìn từ bình diện hiện tại, tức là ở những khoảnh khắc hiện thời, cái đang xảy ra, mà còn được soi chiếu từ quá khứ, chẳng hạn: về lai lịch, tên tuổi, thân phận và các thời điểm khác nhau của cuộc đời; đồng thời còn được nhìn dưới con mắt phán đoán, suy xét tương lai qua điểm nhìn của chính nhân vật, của chủ thể kể vô hình (như một nhân vật đứng đằng sau, biết hết mọi chuyện chỉ có điều nó đóng vai trò kể lại mọi chuyện đã xảy ra), của chủ thể nhân vật xưng “Tôi” cũng như các nhân vật khác trong truyện. Vì thế có thể thấy mạch trần thuật trong tác phẩm là mạch trần thuật có chiều sâu, trong đó dòng sự kiện hồi cố, hoài niệm lấn át cả dòng sự kiện diễn tiến của cốt truyện; bên cạnh đó là mạch suy tưởng, triết lý khá mạnh và thường xuyên. Điểm nhìn trần thuật đảo lộn từ hiện tại về quá khứ rồi ngược về hiện tại - là một hệ quả tất yếu của cách tạo dựng lối dẫn truyện (trần thuật) bằng đường dây tâm lý. Trong một tác phẩm có cốt truyện tâm lý thì điểm mốc tự sự của tác phẩm cũng phải là sự kiện tâm lý trong điểm nhìn của chính nhân vật có tâm lý được kể lại. Ngay đầu tiểu thuyết là đoạn kể về tâm lý nhân vật Lão Khổ và liền sau đó là tình tiết lá đơn mà Lão Khổ viết. Trong tiểu thuyết này, ngoài Lão Khổ là nhân vật trung tâm xuất hiện từ đầu đến cuối và được mô tả về tâm lý sâu sắc nhất, còn có những nhân vật khác cũng được nhà văn khắc họa tâm lý như: Tư Vọc, ông Năm, Hai Duy... “Để tạo dựng một truyện tâm lý đa tuyến, tác giả phải dùng đến thủ pháp để nhân lên những điểm nhìn khác nhau từ một điểm nhìn cơ sở chi phối các sự kiện”. [9, 164]
2. Dịch chuyển tinh tế điểm nhìn trần thuật:
Lão Khổ là một truyện đa tuyến không phải bởi hệ thống nhân vật phong phú được nêu ra trong tác phẩm (về điều này thì phải kể đến một tiểu thuyết khác là Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường), mà trước hết bởi một loạt các giọng kể, các điểm nhìn độc lập nhau: giọng kể của nhiều nhân vật kể chuyện khác nhau, từ nhiều vị trí và quan điểm khác nhau. Về điều này ta nhận thấy, Tạ Duy Anh đã khá sắc sảo khi tạo ra những tình huống hợp lý để các nhân vật bị cuốn hút vào, xoay quanh nó, từ đó cùng lúc xuất hiện nhiều giọng kể, nhiều điểm nhìn của các nhân vật khác nhau mà vẫn không có sự trùng lặp hoặc loại trừ nhau. Ngược lại, các điểm nhìn có thể còn soi rọi cho nhau như một sự lý giải. Đó là tình huống Lão Khổ viết lá đơn kiện dày mười bảy trang, rùm beng cả trên báo chí lẫn dư luận, là tình huống ông Tư giết em trai… và ngay cả những tình huống đã xảy ra trong quá khứ .Chuyển dịch xen kẽ các điểm nhìn từ người kể chuyện này sang người kể chuyện khác sẽ khiến cho các sự kiện được kể từ nhiều góc độ, nhiều mặt khác nhau, trở nên chân thực, đa dạng, sống động lên rất nhiều. Bằng cách ấy, tác giả đã tạo cho tác phẩm một hiệu quả thẩm mỹ đáng kể.
2.1. Tổ chức các ngôi trần thuật:
Ngôi thứ nhất - nhân vật xưng “Tôi” là người tìm hiểu câu chuyện nhân đọc bài báo của cô bạn về việc Lão Khổ vác đơn kiện. Nhân vật này có thể coi là nhân chứng của sự việc mới xảy ra. Trong khi đó những suy nghĩ, trạng thái tình cảm, cảm xúc, lại chủ yếu thuộc về nhân vật trung tâm của mọi sự kiện là Lão Khổ - do chính nhân vật này kể hoặc do chủ thể kể vô hình thuật lại. Sự “kể lại” này về thực chất, phần lớn là những dòng hồi tưởng quá khứ hoặc độc thoại nội tâm nhân vật.
Đi sâu vào kết cấu nội tại tác phẩm, ta thấy câu chuyện không chỉ được trần thuật từ điểm nhìn của người kể chuyện “toàn thông” tức người kể chuyện “biết hết”; mà một cách rất tự nhiên, điểm nhìn trần thuật đã được dịch chuyển vào nhân vật, đặc biệt là thế giới nội tâm với một quá trình vận động tâm lý tinh tế. Đây không chỉ là một truyện kể về Lão Khổ do một người ở ngôi thứ ba kể lại, mà còn là truyện do chính Lão Khổ tự kể, tự giãi bày về mình. Đó là các đoạn đối thoại, các đoạn có ngôn ngữ nửa trực tiếp. Hiệu quả nghệ thuật mà nó tạo ra là: “ý nghĩa trực tiếp và đầy sức nặng của tiếng nói nhân vật đã phá vỡ cái mặt bằng độc thoại của tiểu thuyết và khêu gợi sự trả lời trực tiếp, y như nhân vật không phải là khách thể của tác giả, mà là chủ thể có đầy đủ giá trị và quyền hạn của lời nói của chính nó” [3, 260]. Chẳng hạn: “...Lão lục lọi, lôi ra hơn chục kiểu chết: uống rượu cho đứt mạch máu? Lão gạt phăng. Thiên hạ sẽ bảo lão cuồng rượu mà chết, tiếng xấu để đời. Nhảy tùm xuống giếng cho hồn mát mẻ? Thế thì hại quá bởi vì sẽ mất toi cái giếng. Lão không muốn hành động cuối cùng cũng lại có kết quả ngược với ý định. Treo ngược xà nhà? Xem ra có vẻ “gợi” đấy, bọn người sống sẽ phải day dứt... Nhưng lão lắc đầu: Không được! Không được tí nào. Chết như thế sẽ rất nguy hiểm cho bà Khổ, người đang phải tránh những xúc động mạnh vì bệnh huyết áp cao. Lão mường tượng vợ lão bỗng ngước mắt lên thấy xác chồng bung bênh, mặt to như cái mâm. Vợ lão sẽ ngã vật xuống đất... Không, bà ấy chưa đáng phải chết!”. Hay là đoạn văn thuật lại cuộc nói chuyện - đụng độ của lão với ông Bông - kẻ thù mấy mươi năm trước của lão giờ đã trở về... Chủ thể kể vô hình nhiều lúc hòa nhập làm một với nhân vật, rất khó tách rời bởi những bình luận miêu tả... xuất phát từ giọng đang nói mang tính chất của độc thoại nội tâm. Những miêu tả qua điểm nhìn chủ quan của nhân vật như thế không chỉ xuất hiện một lần trong tác phẩm. Những câu đầy tính triết lý như: “Cũng bây giờ mới biết kiếp người còn có thêm một nỗi khổ nữa, nỗi khổ của sự nhận ra mình là người”, “đời lão xét đến cùng, là hiện thân cho sự đổ vỡ thảm hại”, “lần đầu tiên trong đời, lão Khổ cảm thấy rất rõ lão thất bại ê chề”, “khủng khiếp nhất là sự vô nghĩa. Nó không cho người ta cơ hội tái sinh vào những kiếp sống tương lai. Liệu lão có chịu nổi là người cuối cùng nằm xuống sau khi lần lượt đưa những người lớp tuổi lão về lòng đất? Lão sẽ chịu đựng toàn bộ gánh nặng như một sự trừng phạt. Vậy thì cuộc tranh đua của lão cuối cùng để làm gì? Để lão còn lại lang thang, lạc lõng, cô độc ngay giữa đồng loại. Ngày ấy chắc phải tối tăm, lạnh lùng lắm”. Chỉ có nhân vật ngôi thứ ba tiềm ẩn, có thể xuất hiện mọi lúc, mọi nơi, gọi tên và biết rõ mọi ngóc ngách trong tâm hồn Lão Khổ. Nếu như trong tự sự truyền thống, chủ thể kể vô hình thường giấu kín mình, ẩn vào rất sâu trong truyện thì rõ ràng tiểu thuyết hiện đại có nét khác hẳn, đó là việc chủ thể kể vô hình ẩn hiện trong tác phẩm, lúc ẩn rất kín - không để lộ ra các việc đã “biết hết” của mình, lúc lại trực tiếp bộc lộ quan điểm qua việc gửi gắm vào lời tả, kể các nhân vật. Điều này có tác dụng rất lớn trong việc rút ngắn khoảng cách giữa chủ thể kể với câu chuyện được kể. Có lúc chủ thể kể vô hình không tham gia vào việc phát triển câu chuyện mà trao việc dẫn dắt mạch tự sự cho nhân vật. Bộc lộ rõ nhất điểm này là dòng hồi tưởng của các nhân vật, trong đó có nhân vật trung tâm. Chẳng hạn như việc nhớ lại quá khứ hồi trẻ, rồi việc lấy bà Khổ như thế nào, việc lão làm Bí thư xã Hoàng ra sao, rồi ngay trong phần X: Những bà con của Xa Tăng và phần XI: Sa lưới đàn bà là cả những trang dài kế tiếp nhau, mạch tự sự gắn liền với dòng ký ức. Tất nhiên chủ thể kể vô hình vẫn bám sát các sự kiện của cốt truyện tâm lý, thỉnh thoảng xuất hiện để miêu tả nhân vật trong thời khắc hiện tại.
2.2. Thủ pháp “Tấm gương”:
Tạ Duy Anh đã rất tinh tế và đảm bảo tính khách quan của việc khắc họa nhân vật khi ông trao điểm nhìn lúc cho nhân vật này, lúc lại nhân vật kia với mục đích nhìn nhận, đánh giá, suy nghĩ về nhân vật. Suy cho cùng thì nhân vật trung tâm được soi chiếu dưới nhiều điểm nhìn khác nhau nhất. Điểm nhìn không chỉ dịch chuyển từ người này sang người khác, mà còn có cái đặc sắc là di động từ lúc này sang lúc khác, từ xa đến gần một cách khá linh hoạt. Trong suốt câu chuyện, ta thấy chân dung tính cách và cuộc đời Lão Khổ hiện lên qua điểm nhìn, lời phát ngôn hay độc thoại của các nhân vật khác ở các thời điểm khác nhau, chẳng hạn qua lời kể của “gã xe bò” một cách khái quát: “Đời ông Khổ là một bằng chứng cho sự long đong của kiếp người. Mười sáu tuổi đi ở chăn trâu cho địa chủ, đói rét đòn roi nhục quá kiếp chó. Lúc đi theo cách mạng thì đúng vào thời kỳ đen tối. Ăn hầm, ngủ hố, chỉ cứ trốn mấy thằng con cháu chánh tổng cũng đủ nhược vảy. Vừa mới có quyền trong tay thì cải cách ruộng đất, thành ngay thằng Quốc dân đảng. Sau tám tháng cùm chuồng trâu lại thành chiến sĩ cách mạng. Ngót mười năm lặn lội thân cò, hiến cho sự nghiệp đến cả giọt nước đái.... để bị quy là ‘chui vào tổ chức với dụng ý phá hoại ngầm’. Về nghỉ chúng nó cũng không cho yên...”. Điểm nhìn này vừa khái quát toàn bộ quãng đời đầy thăng trầm của Lão Khổ, lại vừa bộc lộ được quan điểm về nhân vật này. Vậy là ý tứ của nhà văn đã được ký thác. Tuy nhiên, mọi cái nhìn của các nhân vật về lão Khổ là cả một sự phức tạp, không ai giống ai: bênh vực có mà thù hằn, khinh bỉ cũng có. Điều này phụ thuộc vào các tuyến nhân vật trong tác phẩm.
Sự dịch chuyển điểm nhìn từ nhân vật “Tôi” đến chủ thể kể vô hình rồi lại chuyển sang nhân vật, vừa góp phần tạo nên giọng đối thoại nhiều chiều, tính chất đa thanh, phức điệu cho trần thuật, vừa tăng cường tính chủ thể cho nhân vật. Theo đó, nhân vật là sản phẩm tinh thần và tài năng nhà văn, nhưng mặt khác nó có đời sống riêng, cách vận động riêng của nó. Nhân vật dường như có lập trường độc lập riêng của mình, bằng chứng là cách nghĩ, cách nói, cách hành động của Lão Khổ hoàn toàn là đứng trên mọi dư luận, đối lập với dư luận. Xu hướng của tiểu thuyết nói riêng và văn học đương đại nói chung, không phải là việc bắt buộc phải xây dựng bằng được nhân vật điển hình, mà ở chỗ nhà văn có tạo được sắc thái riêng cho ngòi bút của mình hay không. Về điểm này thì ta thấy, Tạ Duy Anh khá thành công trong việc tôn trọng tính khách quan, lại vừa tạo được tính chủ quan rất cao cho ngòi bút của mình. Văn học có sự chuyển dần từ hành vi mang tính xã hội sang hành vi có tính cá nhân. Cái “Tôi” của nhà văn hiện nay đã ý thức rất rõ việc tự chịu trách nhiệm về quyền tự do, dân chủ trong sáng tác của mình. Ta nhận thấy hướng chung của tự sự hiện nay là chuyển giao quyền trần thuật ở ngôi thứ ba sang ngôi thứ nhất để tăng cường tính chủ thể. Hãy đưa ra câu hỏi: tại sao Tạ Duy Anh không đặt nhân vật trung tâm trùng khớp với ngôi thứ nhất, mà nhân vật xưng “Tôi” lại chỉ là người dẫn dắt, làm chứng cho câu chuyện, chứ không phải là chính nhân vật ấy? Từ việc phân tích để chỉ ra tác dụng của sự di chuyển điểm nhìn qua nhiều nhân vật trong tiểu thuyết Lão Khổ, ta thấy, nếu đặt ở ngôi thứ nhất, chắc hẳn cái nhìn về Lão Khổ sẽ không được khách quan như những gì tác giả đã viết. Bởi vì khác với các truyện khác, Lão Khổ kể về cuộc đời, tính cách, số phận một nhân vật tương ứng với những thời kỳ lịch sử nhất định và ngay cả bản thân nhân vật cũng có nhiều thăng trầm, mâu thuẫn mà nếu như để nhân vật tự xưng “Tôi” tự kể về mình thì rõ ràng sẽ mất tính khách quan và đầy đủ về cuộc đời nhân vật. Và như Todorov nói: “Bản thân biến cố thì không thể tự kể về mình”. Do vậy nhân vật xưng “Tôi” trong tiểu thuyết này chỉ cần đóng vai trò người dẫn dắt truyện là hợp lý. Sự vận dụng trần thuật từ ngôi thứ ba và từ chủ thể kể vô hình đã tạo ra sự dịch chuyển linh hoạt điểm nhìn từ người này sang người khác, từ lúc này sang lúc khác một cách dễ dàng. Cách lựa chọn chủ thể kể và điểm nhìn của Tạ Duy Anh trong Lão Khổ có điểm khác hẳn với tiểu thuyết mới nhất của ông là Thiên thần sám hối. Ở đó, do câu chuyện kể về những mặt tiêu cực, phi nhân tính của hiện thực, của nhiều lớp người mà tác giả quan sát được, cho nên điểm nhìn trần thuật và phát ngôn được nhà văn trao cho nhân vật “Tôi” cũng là đứa trẻ - hài nhi còn chưa ra đời trong bụng mẹ nhận thức về thế giới... Còn ở Lão Khổ, nhân vật được soi sáng bằng thủ pháp “tấm gương” qua ý thức các nhân vật khác.
Điểm nữa cần chú ý trong việc tổ chức điểm nhìn trần thuật của nhà văn là, việc nhân vật này được “khúc xạ” qua một loạt điểm nhìn của nhiều “người kể chuyện” nối tiếp nhau là một chủ ý của tác giả. Cách thức tự sự này đã làm nổi bật nét độc đáo, mới mẻ của nhân vật Lão Khổ so với các nhân vật nông dân cùng thời hoặc khác thời. Đây là một nhân vật nông dân đầy cá tính, có tính cách mạnh mẽ nổi bật.
3. Tiểu kết:
Có thể thấy rằng, tác giả đã tổ chức điểm nhìn trần thuật một cách đa dạng, biến hoá trong toàn bộ tác phẩm, có mặt của cả chủ thể kể ngôi thứ nhất lẫn ngôi thứ ba và cả chủ thể kể vô hình, khiến cho tự sự vừa đảm bảo tính khách quan, đồng thời lại in đậm dấu ấn chủ quan của tác giả. Các hình thức xuất hiện của chủ thể kể trong tác phẩm tuy biến hóa linh hoạt nhưng đã rất thống nhất với nhau trong tổ chức điểm nhìn trần thuật. Dù ở chủ thể kể nào thì tác giả vẫn tạo điểm nhìn sâu vào tận ngõ ngách, để nhân vật tự bộc lộ tính cách, nội tâm, nhưng đồng thời vẫn tạo ra sức hấp dẫn, bởi người đọc cứ cảm thấy như là mình chưa hiểu hết, chưa nhìn thấu và nắm bắt được hết thế giới tâm linh, những trạng thái tâm lý nhân vật cũng như bí mật cuộc đời họ. Như thế có nghĩa là vẫn chưa “vén” được toàn bộ “màn sương khói” vây quanh nhân vật. Và cái nhìn còn bí ẩn tức là còn kêu gọi sự tò mò, khám phá. Hiệu quả nghệ thuật mà nó tạo ra là, nhân vật được khúc xạ, soi chiếu từ nhiều chiều, tính chủ thể được tăng cường trong tương quan với hiện thực và với hệ thống các nhân vật trong tác phẩm. Khi tiếp cận Lão Khổ, người đọc có cảm giác như nhà văn còn dành hẳn “một điểm nhìn” riêng cho mình. Có lúc tác giả kể về nhân vật như một người thứ ba nào đó, có lúc lại để cho các nhân vật bình giá hành động của nhau, phải nghĩ về nhau. Lời và suy nghĩ của người kể chuyện, lời và suy nghĩ của nhân vật, cũng như của người khác nghĩ về họ cứ đan cài, xen lẫn vào nhau tạo ra các cách đánh giá khác nhau, lôi cuốn người đọc nhận xét về nhân vật trung tâm; đồng thời còn tạo nên tính chất đa âm, đa giọng điệu cho tác phẩm. Không độc tôn, không áp đặt một kiểu tư duy, một giọng điệu nào dù là của người kể, dù là của nhân vật - đó chính là một trong những biểu hiện của tính dân chủ trong tiểu thuyết hiện nay.
*
* *
II. TỔ CHỨC KẾT CẤU TÁC PHẨM
Xu hướng chung của tiểu thuyết đương đại là có dung lượng vừa phải hoặc ngắn. Nhưng điều đó không có ng