Sau một năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta có dịp nhìn lại và phân tích ,đánh giá thực trạng nền kinh tế đất nước, nhằm tìm ra đối sách quản lý, điều hành và xây dựng một chiến lược phát triển quốc gia dựa trên một tầm nhìn theo xu thế phát triển của thời đại và theo qui luật phát triển kinh tế.
89 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn tỉnh Nam Định, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Trang
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
TCDA: Tài chính dự án.
NHTM: Ngân hàng thương mại.
NHNo&PTNT: Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn.
DANH MỤC BẢNG BIỂU
BẢNG
Bảng 1: Phân tích độ nhạy của dự án.
Bảng 2: Công tác huy động vốn.
Bảng 3: Cho vay qua các năm.
Bảng 4: Bảng cân đối kế toán.
Bảng 5: Kết quả sản xuất kinh doanh qua các năm.
Bảng 6: Kế hoạch trả nợ.
Bảng 7: Sản lượng dự kiến qua các năm.
Bảng 8: Tính toán giá thành in trên 1m2 vải, 1 màu, 1 lượt in.
Bảng 9: Tính toán giá thành in 1 kg nilon, giấy bạc, giấy màu.
Bảng 10: Tính toán giá thành in 10.000 biểu mẫu, tờ quảng cáo B2.
Bảng 11: Gía thành lắp ráp 01 bộ máy vi tính.
Bảng 12: Tính toán giá thành cho 1 năm sản xuất.
Bảng 13: Tổng hợp doanh thu qua các năm.
Bảng 14: Kết quả sản xuất kinh doanh.
Bảng 15: Dòng tiền.
Bảng 16: Báo cáo dư nợ cho vay đối với dự án đến ngày 31 tháng 12 năm 2007.
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 1: Tỷ trọng hoạt động huy động vốn trên địa bàn Tỉnh.
Biểu đồ 2: Tỷ trọng hoạt động cấp tín dụng trên địa bàn Tỉnh.
Biểu đồ 3: Huy động vốn qua các năm của NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Biều đồ 4: Hoạt động cấp tín dụng qua các năm của NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
LỜI NÓI ĐẦU
Sau một năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), chúng ta có dịp nhìn lại và phân tích ,đánh giá thực trạng nền kinh tế đất nước, nhằm tìm ra đối sách quản lý, điều hành và xây dựng một chiến lược phát triển quốc gia dựa trên một tầm nhìn theo xu thế phát triển của thời đại và theo qui luật phát triển kinh tế.
Gia nhập WTO là hòa vào xu thế chung của thời đại, đối với ngành Tài chính – Ngân hàng cũng vậy. Đặc biệt đối với ngành Tài chính – Ngân hàng này là một ngành khá nhạy cảm trong nền kinh tế, nên đây là một ngành cần được sự quan tâm của Chính Phủ các nước, cũng như của các nhà làm quản lý. Do vậy ngành Tài chính – Ngân hàng cũng được sự quan tâm của các Sinh Viên ngành kinh tế nói chung và đặc biệt là sự quan tâm của các Sinh Viên chuyên ngành Tài chính –Ngân hàng. Tôi là một Sinh Viên chuyên ngành Tài chính doanh nghiệp cũng không bỏ qua sự quan tâm đó đối thị trường tài chính đầy biến động như hiện nay. Được sự đồng ý của Nhà trường và của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định, Tôi được phân công về chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định để thực tập một thời gian, Tôi đã lựa chọn được chuyên đề tốt nghiệp thích hợp với mình, đó là chuyên đề “Nâng cao chất lượng thẩm định tài chính dự án tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định”. Chuyên đề tốt nghiệp này bao gồm những phần sau:
Chương I: Lý luận chung về chất lượng thẩm định tài chính dự án của Ngân hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng về chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Chương III: Một số giải pháp nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định.
Chuyên đề tốt nghiệp là một bài viết khá rõ về tình hình thực trạng về thẩm định TCDA của chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định. Bài viết này giúp cho các nhà quản lý và các đọc giả hiểu thêm về thẩm định tài chính dự án một cách khách quan nhất. Để hoàn thành được chuyên đề tốt nghiệp Tôi đã được sự giúp đỡ của giáo viên hướng dẫn: THS. Lê Hương Lan, và cùng toàn thể các cán bộ của phòng tín dụng thuộc chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định. Tôi xin cảm ơn mọi người đã giúp tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Chuyên đề tốt nghiệp “Nâng cao chất lượng thẩm định TCDA tại chi nhánh NHNo&PTNT tỉnh Nam Định” không thể tránh khỏi những khiếm khuyết, vậy mong được sự góp ý của mọi người để Chuyên đề tốt nghiệp được hoàn chỉnh hơn.
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG THẨM ĐỊNH TÀI CHÍNH DỰ ÁN (TCDA) CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
Khái quát chung về Ngân hàng thương mại.
Khái niệm về Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
Chức năng của Ngân hàng.
Trung gian tài chính.
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi phải tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt qua thu nhập và vì thế họ là những người cần bổ sung vốn;(2) các cá nhân và tổ chức khẳng định trong chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hóa, dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm.
Tạo phương tiện thanh toán.
Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng và dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1).
Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo ra khoản thu (tức làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ dư thừa toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra khối lượng tiền gửi (tạo phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng)
Trung gian thanh toán.
Ngân hàng trở thành trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng, nhà nước, ngân hàng thực hiện thanh toán giá trị hàng hóa dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán bằng séc, ủy nhiệm chi nhờ thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ với nhau thông qua ngân hàng trung ương hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu quả cao khi quy mô sử dụng công nghệ đó càng được mở rộng. Vì vậy công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi.
Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Hoạt dộng mua bán ngoại tệ.
Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán) ngoại tế - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao.
Nhận tiền gửi.
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và dành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đã trả lãi cho tiền gửi như phần thưởng cho khách hàng về việc sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng trước mắt và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. Trong lịch sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn ngân hàng Hy Lạp đã trả lãi suất 16%năm để thu hút các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay lãi suất gấp 3 lãi suất tiết kiệm.
Cho vay.
-Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó là bước chuyển từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh.
-Cho vay tiêu dùng: trong giai đoạn đầu các ngân hàng không tích cự cho vay đối với các cá nhân và hộ gia đình vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, tín dụng tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển.
-Tài trợ cho dự án bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao, song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất.
Bảo quản vật có giá.
Các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận được sử dụng như tiền – dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành.
Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán.
Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác, tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi ngân hàng mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng được mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. Như vậy, một dịch vụ mới, quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit), cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hóa và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng. Cùng vói sự phát triển của công nghệ thông tin, nhiều thể thức thanh toán được phát triển như ủy nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng điện, thẻ, L/C…
Quản lý ngân quỹ.
Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do có kinh nghiệm trong quản lý ngân quỹ và khả năng trong việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
Tài trợ các hoạt động của Chính phủ.
Chính phủ thường dùng một số đặc quyền trao đổi lấy khoản vay của những ngân hàng lớn. Khi ngân hàng trung ương thành lập, Chính phủ đều tìm cách tham dự, hoặc trực tiếp can thiệp để có được các khoản tín dụng lớn. Ngày nay, Chính phủ giành quyền cấp phép hoạt động và kiểm soát các ngân hàng. Các ngân hàng được cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải cam kết thực hiện với mức độ nào đó các chính sách của Chính phủ và tài trợ cho Chính phủ. Các ngân hàng phải mua trái phiếu Chính phủ theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động được, hoặc phải cho vay với các điều kiện ưu đãi cho các doanh nghiệp của Chính phủ.
Bảo lãnh.
Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của các khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hóa và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác …
Cho thuê thiết bị trung và dài hạn (leasing).
Nhằm để bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn, nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán) các thiết bị. Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do vậy còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Hợp đồng cho thuê thường phải đảm bảo yêu cầu khách hàng phải trả tới hơn 2/3 giá trị của tài sản cho thuê. Do vậy, cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào tín dụng trung và dài hạn
Cung cấp dịch vụ ủy thác và tư vấn.
Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính các ngân hàng có rất nhiều chuyên gia về quản lý tài chính. Vì vậy, nhiều cá nhân và doanh nghiệp đã nhờ ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính hộ. Dịch vụ ủy thác phát triển sang cả ủy thác vay hộ, ủy thác cho vay hộ, ủy thác phát hành, ủy thác đầu tư… Thậm chí các ngân hàng đóng vai trò là người được ủy thác trong di chúc, quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá.
Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán.
Nhiều ngân hàng đang phấn đấu cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu. Đây là một trong những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Trong một vài trường hợp, các ngân hàng tổ chức ra công ty chứng khoán hoặc công ty môi giới chứng khoán.
Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng, điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, bị tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động, mất khả năng thanh toán.
Cung cấp các dịch vụ đại lý.
Nhiều ngân hàng trong quá trình hoạt động không thể thiết lập chi nhánh hoặc văn phòng ở khắp mọi nơi. Nhiều ngân hàng (thường ngân hàng lớn) cung cấp dịch vụ ngân hàng đại lý cho các ngân hàng khác như thanh toán hộ, phát hành hộ chứng chỉ tiền gửi, làm ngân hàng đầu mối trong đồng tài trợ.
Thẩm định tài chính dự án của NHTM.
Khái niệm thẩm định dự án và thẩm định TCDA.
Khá niệm thẩm định dự án:
Vấn đề về rủi ro đạo đức và thông tin không cân xứng thường xuyên xảy ra trước, trong và sau khi dự án đươc hoàn thành. Vì vậy để khẳng định một cách chắc chắn mức độ hợp lý và hiệu quả, tính khả thi của dự án cũng như quyết định đầu tư thực hiện dự án, cần phải xem xét, kiểm tra lại dự án một cách độc lập với quá trình chuẩn bị, soạn thảo dự án, hay nói cách khác là cần phải thẩm định dự án. Trên phương diện tài trợ vốn cho dự án, các Ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tài chính – tín dụng cũng đặc biệt quan tâm đến vấn đề này, qua thẩm định dự án sẽ khẳng định được tính hiệu quả và tính an toàn của công cuộc đầu tư. Nhờ đó mà các tổ chức tài chính – tín dụng có được cơ sở vững chắc trong quá trình ra quyết định tài trợ vốn.
Nói tóm lại: Thẩm định dự án là rà soát, kiểm tra lại một cách khoa học khách quan và toàn diện mọi nội dung của dự án và liên quan đế dự án nhằm khẳng định tính hiệu quả cũng như tính khả thi của dự án trước khi quyết định đầu tư. Trong quá trình thẩm định dự án, nhiều khi phải tính toán, phân tích lại dự án.
Khái niệm thẩm định TCDA:
Thẩm định tài chính dự án là rà soát, đánh giá một cách khoa học và toàn diện mọi khía cạnh tài chính của dự án trên giác độ của nhà đầu tư: doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế khác, các cá nhân. Thẩm định dự án là nội dung quan trọng trong thẩm định dự án. Cùng với thẩm định kinh tế, thẩm định tài chính giúp các nhà đầu tư có những thông tin cần thiết để đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
Cơ sở của việc thẩm định TCDA.
Ngân hàng là nhà tài trợ cho dự án, nên để thẩm định tốt và hiệu quả thì quá trình tiến hành dự án dựa trên các cơ sở nhất định đó là thu thập số liệu và xử lý thông tin.
Trong quá trình thu thập số liệu, những tài liệu cần quan tâm gồm:
-Hồ sơ đơn vị.
-Hồ sơ dự án.
-Tài liệu tham khảo.
Các văn bản luật đầu tư, luật công ty, luật đất đai…. Và các tài liệu liên quan đến dự án.
Trong quá trình xử lý thông tin cần làm những bước tiếp theo:
Sau khi thu thập thông tin, tiến hành xắp xếp lại các loại thông tin, áp dụng các phương pháp đối chiếu so sánh để xử lý.
Nội dung thẩm định TCDA.
Thẩm định TCDA, đối với NHTM, ngoài mục tiêu đánh giá hiệu quả của dự án còn nhằm đảm bảo sự an toàn cho các nguồn vốn mà Ngân hàng tài trợ cho dự án. Đó là việc phân tích, xem xét, đánh giá về mặt tài chính của dự án đầu tư bao gồm một loạt các phương pháp đánh giá hiệu quả tài chính và các chỉ tiêu phân tích dự án đầu tư. Qua đó đi đến kết luận có đầu tư cho dự án hay không.
Trong công tác thẩm định TCDA, giá trị thời gian của tiền là một trong các nguyên tắc cơ bản của việc tính toán các chỉ tiêu khác, việc thẩm định chi phí và lợi ích của dự án phải được quy về thời điểm gốc để tiện cho việc so sánh. Thẩm định TCDA ở các NHTM thường tiến hành với các nội dung sau:
Thẩm định vốn đầu tư cho dự án.
Khi một dự án đầu tư mang đến Ngân hàng vay vốn thì dự án đầu tư đó đã được nhiều cấp ngành phê duyệt. Tổng vốn đầu tư được xác định. Tuy nhiên, Ngân hàng vẫn tiến hành xem xét lại trên cơ sở những kết quả thẩm định khác của Ngân hàng. Điều này rất quan trọng vì vốn đầu tư sẽ giúp cho các dự án thực hiện một cách thuận lợi, nâng cao hiệu quả dự án đầu tư. Vốn đầu tư thiếu sẽ gây khó khăn cho hoạt động đầu tư. Ngược lại thừa vốn đầu tư sẽ gây lãng phí vốn làm giảm hiệu quả của dự án. Tổng vốn đầu tư được xác định trên tổng các chi phí.
Hiện nay, tổng mức vốn đầu tư cho một dự án được chia thành ba thành phần: là vốn cố định, vốn lưu động ban đầu cho dự án và vốn đầu tư dự phòng.
Tính toán về vốn cố định:
Vốn cố định bao gồm toàn bộ chi phí có liên quan đến việc hình thành tài sản cố định từ giai đoạn chuẩn bị đầu tư đến giai đoạn thực hiện đầu tư và giai đoạn kết thúc xây dựng dự án vào sử dụng, cụ thể:
-Chi phí chuẩn bị: Những chi phí dùng để soạn thảo nghiên cứu lập hồ sơ dự án đầu tư, chi phí ban đầu về mặt đất, mặt nước. Đối với loại chi phí này cần phải có sự xác nhận của cơ quan có thẩm quyền và phải lập bằng văn bản cụ thể. Các chi phí này phải phù hợp với quy định của Bộ tài chính về tiền thu mặt đất, mặt nước để có được khoản chi hợp lý.
-Gía trị nhà xưởng và kết cấu hạ tầng sẵn có được sử dụng cho dự án.
-Chi phí xây dựng mới hoặc cải tạo nhà xươởn cũng như các kết cấu hạ tầng.
-Chi phí mua máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất, phương tiện vận tải.
-Chi phí chuyển giao công nghệ.
-Chi phí đào tạo cán bộ.
-Các chi phí khác.
Tính toán vốn lưu động:
Vốn lưu động là số vốn tối thiểu cần thiết để đảm bảo cho việc dự trữ các tài sản lưu động nhằm đáp ứng cho nhu cầu hoạt động của dự án. Chỉ có vốn lưu động ban đầu mới được quyền tính vào vốn đầu tư gồm:
-Vốn sản xuất: Chi phí nguyên vật liệu, điện, nước, phụ tùng, bao, bì, tiền lương…
-Vốn lưu thông: Sản phẩm dở dang, tồn kho, thành phẩm tồn kho, hàng hoá bán chịu, vốn bằng tiền, chi phí tiếp thị…
Dự phòng vốn đầu tư:
Với nền kinh tế thị trường như hiện nay thì nhân tố giá cả nguyên vật liệu xây dựng, giá thuê nhân công, máy thi công thường xuyên có sự biến động mạnh cùng với những biến động trên thị trường thế giới. Bên cạnh đó, trong quá trình thi công công trình có thể gặp phải những rủi ro về kỹ thuật hoặc nảy sinh các chi phí bất thường… Chính vì vậy, cần phải dự trù một khoản dự phòng vốn đầu tư sẵn sàng ứng phó với những bất trắc có thể xảy ra.
Khi thẩm định về tổng vốn đầu tư cho dự án, ngân hàng cần xem xét:
-Đối với vốn xây lắp: Khi tính toán thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp. Khi kiểm tra cần lưu ý:
*Kiểm tra những công việc có tính chất trùng lắp.
*Những khối lượng công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp.
*Kiểm tra sự đúng đắn và tính hiện hành của các định mức, đơn giá sử dụng trong dự án.
-Đối với vốn thiết bị: Đây là loại vốn chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong các công trình sản xuất công nghiệp. Thông thường phải chiếm tới 60-70% tổng mức vốn đầu tư.
*Kiểm tra lại danh mục thiết bị, số lượng, chủng loại, công suất và các chỉ tiêu kỹ thuật đảm bảo đúng nội dung đầu tư cho thiết bị đã được tính toán trong phần kỹ th