Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Nhưng đối với các doanh nghiêp việc tiếp cận các nguồn tài chính từ ngân hàng không phải là dễ dàng.
82 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1465 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả cho vay đối với Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn chi nhánh Hà nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
SCB : Ngân hàng TMCP Sài Gòn
SCB Hà Nội : Ngân hàng TMCP Sài Gòn Chi nhánh Hà Nội
DNVVN : Doanh nghiệp vừa và nhỏ
NHTM : Ngân hàng thương mại
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU VÀ SƠ ĐỒ
Bảng 1: Số liệu về tình hình huy động vốn 51
Bảng 2: Tình hình sử dụng vốn trong 03 năm qua như sau: 55
Bảng 3: Chất lượng nợ cho vay 55
Bảng 4: Kết quả hoạt động kinh doanh 56
Bảng 5: Dư nợ DNVVN trên tổng dư nợ 57
Bảng 6: Dư nợ DNVVN phân theo thời hạn tín dụng 58
Bảng 7: Nợ quá hạn DNVVN 59
Bảng 8: Nợ quá hạn cho vay DNVVN theo thời hạn tín dụng 60
MỞ ĐẦU
Ngày nay hoạt động ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển đó co thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ mới cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu được tạo ra từ làn sóng sáp nhập, hợp nhất. Tất cả nhưng diễn biến đó xảy ra nhanh hơn nhưng gì mà chúng ta biết. Nhưng đối với các doanh nghiêp việc tiếp cận các nguồn tài chính từ ngân hàng không phải là dễ dàng. Đặc biệt đó là một trở ngại lớn cho các DNVVN hiện nay bởi các DNVVN có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, thiếu tài sản thế chấp, khả năng xây dựng các dự án có tính khả thi còn yếu, số liệu thông tin kế toán chưa đáng tin cậy…nên dưới con mắt của các nhà Ngân hàng, các DNVVN là những khách hàng có độ rủi ro cao. Tuy nhiên, các DNVVN lại được đánh giá là đối tượng khách hàng có tiềm năng lớn, trong những năm gần đây nhiều Ngân hàng thương mại (NHTM) đã không ngừng hoàn thiện và cung ứng nhiều sản phẩm dịch vụ dành riêng cho đối tượng khách hàng này. Việc hướng các sản phẩm dịch vụ vào DNVVN đặc biệt là các sản phẩm cho vay doanh nghiệp đã đem lại cho các NHTM doanh số hoạt động không nhỏ, góp phần nâng cao vị thế cạnh tranh của hệ thống NHTM trên thị trường tài chính. Do vậy vấn đề: “Nâng cao hiệu quả cho vay đối với DNVVN tại Ngân hàng TMCP Sài gòn chi nhánh Hà nội ”đã được em chọn làm chuyên đề tốt nghiệp. Với kiến thức và nghiên cứu có hạn nên không thể tránh khỏi thiếu sót, em mong muốn nhận được những ý kiến phê bình, đóng góp quý báu của các thầy cô nhằm giúp em nâng cao trình độ hiểu biết về lý luận cũng như thực tiễn tốt hơn.
Kết cấu của đề tài:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
Chương II: Thực trạng hiệu quả cho vay đối với các DNVVN tại SCB Hà Nội.
Chương III: Các giải pháp nâng cao hiệu quả cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại SCB Hà Nội
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình, chu đáo của Ths. Lê Hương Lan – là người trực tiếp hướng dẫn cũng như các cán bộ tín dụng tại Ngân hàng TMCP Sài Gòn chi nhánh Hà Nội đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Chương I: Những vấn đề cơ bản về hiệu quả cho vay đối với DNVVN của NHTM
1.1 NHTM và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường
1.1.1. Khái niệm NHTM
Có nhiều quan điểm về ngân hàng thương mại.
Theo quan điểm của K. Marx, ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ.
Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thì quy định rằng: Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán.
Ở Mỹ, ngân hàng thương mại được coi là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính.
Ở Pháp, ngân hàng thương mại được quan niệm là xí nghiệp thường xuyên nhận tiền gửi của công chúng và sử dụng số tiền đó vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài chính.
Ở Ấn Độ, thì ngân hàng thương mại được định nghĩa là: cơ sở nhận các khoản tiền ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư.
Tóm lại có thể nói rằng: Ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng- đặc biệt là tiết kiệm, tín dụng, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của NHTM
1.1.2.1 Hoạt động huy động vốn
Ngân hàng kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho ngân hàng thương mại- đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Nguồn vốn của ngân hàng bao gồm vốn chủ sở hữu và vốn nợ:
a) Vốn chủ sở hữu
Để bắt đầu hoạt động ngân hàng chủ ngân hàng phải có một khối lượng vốn nhất định. Đây là loại vốn ngân hàng có thể sử dụng lâu dài, hình thành nên trang thiết bị, nhà cửa cho ngân hàng. Nguồn hình thành và nghiệp vụ hình thành loại vốn này rất đa dạng tuỳ theo tính chất sở hữu, năng lực tài chính của chủ ngân hàng, yêu cầu và sự phát triển của thị trường. Vốn chủ sở hữu có thể được hình thành từ các nguồn như nguồn vốn hình thành ban đầu, nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động, các quỹ, nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành cổ phần.
b) Vốn nợ
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Khi một ngân hàng bắt đầu hoạt động, nghiệp vụ đầu tiên là mở các tài khoản tiền gửi để giữ hộ và thanh toán hộ cho khách hàng, bằng cách đó ngân hàng huy động tiền của các doanh nghiệp, các tổ chức và của dân cư.
Tiền gửi là nguồn tiền quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân hàng. Nguồn tiền gửi bao gồm có tiền gửi thanh toán; tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội; tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi của các ngân hàng khác. Để gia tăng tiền gửi trong môi trường cạnh tranh và để có được nguồn tiền có chất lượng ngày càng cao, các ngân hàng đã đưa ra và thực hiện nhiều hình thức huy động khác nhau.
Tiền vay
Tiền gửi là nguồn quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Tuy nhiên, khi cần, ngân hàng thường vay mượn thêm để đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế. Ngân hàng có thể huy động bằng cách vay ngân hàng nhà nước, vay các tổ chức tín dụng khác, vay trên thị trường vốn.
c) Vốn nợ khác
Loại này bao gồm nguồn vốn uỷ thác, nguồn trong thanh toán, các nguồn khác.
1.1.2.2 Hoạt động sử dụng vốn
Là tổ chức kinh doanh tiền tệ nên NHTM không chỉ huy động vốn mà còn phải sử dụng nguồn vốn đó sao cho có mức sinh lời lớn nhất. Sử dụng vốn như thế nào không chỉ có ý nghĩa với ngân hàng mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế. Các hoạt động sử dụng vốn của NHTM chủ yếu bao gồm: dự trữ, cho vay, đầu tư.
Dự trữ
Dự trữ hay còn gọi là ngân quỹ. Dự trữ của NHTM là những tài khoản có tính thanh khoản cao, được thiết lập nhằm duy trì khả năng chi trả và các yêu cầu khác của NHTM; bao gồm tiền mặt trong két, tiền gửi tại NHTW và tiền gửi tại các tổ chức tài chính khác. Dự trữ của NHTM là tài sản không sinh lời, song lại có tính thanh khoản cao, đáp ứng nhu cầu chi trả thường xuyên của NHTM, đồng thời giúp cho nền kinh tế ổn định, tránh cho nền kinh tế không bị rối loạn khi mà các NHTM không đáp ứng được yêu cầu chi trả.
Cho vay
Cho vay là việc mà ngân hàng sẽ đưa cho khách hàng một khoản tiền với cam kết hoàn trả gốc và lãi trong khoảng thời gian xác định. Cho vay là một hoạt động rất quan trọng của tín dụng. Ngân hàng không thể huy động vốn rồi để yên đó mà phải làm cho số vốn đó sinh lãi. NHTM có nhiều hoạt động để tạo ra lợi nhuận nhưng cho vay vẫn là hoạt động chủ yếu nhất. Trong hoạt động cho vay bao gồm các phương thức cho vay như: thấu chi, cho vay trực tiếp từng lần, cho vay theo hạn mức, cho vay luân chuyển, cho vay trả góp, cho vay gián tiếp.
Đầu tư
Là một đơn vị kinh doanh tiền tệ cho nên NHTM là người nắm vững những thông tin cũng như tình hình kinh tế rõ nhất nên có thể nói các NHTM là người đầu tư có hiệu quả nhất. Các NHTM thường dùng vốn sở hữu của ngân hàng và các vốn dài hạn để đầu tư vào các công ty liên doanh, các dự án…; trở thành cổ đông của công ty cổ phần. Ở Việt Nam thì các NHTM chỉ được nắm giữ dưới 10% cổ phiếu của công ty.
1.1.2.3 Hoạt động trung gian
Ngoài hoạt động cho vay các NHTM còn thực hiện một số nghiệp vụ trung gian nhằm tối đa hóa lợi nhuận cho ngân hàng. Các nghiệp vụ trung gian như chuyển tiền, tư vấn đầu tư, môi giới đầu tư, uỷ thác, giải ngân…
1.2.3 Vai trò của NHTM
Hoạt động của ngân hàng thương mại có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định và phát triển của nền kinh tế.
1.2.3.1 Tích tụ, tập trung vốn và phân phối vốn hiệu quả
Các ngân hàng thương mại thông qua chức năng trung gian tài chính của mình tích tụ, tập trung vốn, phân phối vốn có hiệu quả cho nền kinh tế, nâng cao đời sống xã hội, góp phần làm cho quá trình sản xuất kinh doanh diễn ra liên tục và ổn định. Đặc biệt đối với các nước mà thị trường chứng khoán chưa phát triển thì vai trò này của ngân hàng thương mại là rất quan trọng. Ngân hàng tham gia vào sự ổn định và phát triển của thị trường tài chính. Ngay cả những nước có thị trường chứng khoán phát triển, thì của ngân hàng cũng góp phần vào sự phát triển của thị trường tài chính thông qua các dịch vụ tư vấn đầu tư, cung cấp thông tin.
1.2.3.2 Chuyển thời hạn vốn
NHTM có vai trò chuyển thời hạn vốn. Ngân hàng huy động vốn trong nền kinh tế, bao gồm nhiều loại vốn có thời hạn khác nhau như vốn ngắn hạn, trung và dài hạn. Sau đó khi cho vay trong nền kinh tế ngân hàng sẽ có những điều chỉnh linh hoạt về thời hạn để cho vay theo nhu cầu của nền kinh tế. Đây là một vai trò quan trọng của ngân hàng trong việc giải quyết sự lệch pha về các nguồn vốn trong nền kinh tế.
1.2.3.3. Cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng
NHTM cung cấp các dịch vụ tài chính đa dạng. Các dịch vụ tài chính mà NHTM thực hiện bao gồm dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, các dịch vụ bảo hiểm, dịch vụ đại lý. Đó là những dịch vụ đem lại rất nhiều lợi ích và giúp cho nền kinh tế năng động hơn.
1.2.3.4. Nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hóa
NHTM nâng cao hiệu quả sản xuất và lưu thông hàng hoá. Thông qua các hoạt động của mình như nhận gửi, cho vay, thanh toán ... ngân hàng cung cấp toàn bộ thông tin cho nền kinh tế. Thông tin từ phía ngân hàng là những thông tin chính xác nhất. Do đó, ngân hàng đã tham gia vào việc kiểm soát các hoạt động của nền kinh tế. Từ đó làm cho quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá đươc nâng cao.
1.2 Khái niệm, đặc điểm, vai trò DNVVN trong nền kinh tế quốc dân
1.2.1 Khái niệm DNVVN
- Khái niệm doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh (Theo Luật Doanh Nghiệp Việt Nam năm 2005)
- Khái niệm DNVVN:
Có thể nói, DNVVN là bộ phận doanh nghiệp rất quan trọng trong nền kinh tế Việt nam, đóng góp một phần đáng kể vào Ngân sách Nhà nước, giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu lao động, tạo tốc độ tăng trưởng kinh tế…Các DNVVN là một bộ phận doanh nghiệp phong phú với đủ mọi loại hình doanh nghiệp từ Hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác xã đến các Doanh nghiệp tư nhân, Công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần…kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Ở nước ta DNVVN chiếm tỷ trọng tương đối cao, chiếm hơn 90% tổng số Doanh nghiệp của cả nước. Mặc dù chiếm tỷ trọng ưu thế nhưng hầu hết các DNVVN đều có quy mô nhỏ cả về vốn và lao động. Việc xác định quy mô DNVVN chỉ mang tính chất tương đối vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của một nước, tính chất ngành nghề và điều kiện phát triển của một vùng lãnh thổ nhất định hay mục đích phân loại doanh nghiệp trong từng thời kì nhát định. Tuy nhiên, DNVVN được định nghĩa một cách chung nhất là: DNVVN là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, kinh doanh vì mục tiêu lợi nhuận, có quy mô doanh nghiệp trong những giới hạn nhất định tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được trong từng thời kỳ quy định của từng quốc gia.
Ví dụ như Đài Loan, các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất, chế tạo có từ 1 tới 200 lao động được coi là DNVVN, trong khi các doanh nghiệp trong ngành thương mại- dich vụ có từ 1-50 lao động. Ở Nhật Bản, các DNVVN trong ngành sản xuất chế tạo có từ 1-300 lao động và số vốn kinh doanh không vượt quá 300 triệu Yên, còn các DNVVN trong ngành thương mại - dịch vụ có số lao động không quá 100 người với số vốn kinh doanh không quá 100 triệu Yên. Ngược lại ở Mỹ chỉ có một tiêu chí xác định chung cho các DNVVN là số lao động không quá 500 người
DNVVN ở Việt Nam là những cơ sở sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn hoặc lao động tuỳ theo quy định của Chính Phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 23/11/2001: DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, có đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người.
1.2.2 Đặc điểm của DNVVN ở Việt Nam
Các DNNVV là các DN có quy mô vốn nhỏ và hầu hết hoạt động trong các ngành thương mại, dịch vụ sử dụng nhiều lao động. Cũng như các loại hình DN khác, DNNVV có những đặc điểm nhất định trong quá trình hình thành và phát triển. Có thể nhận thấy DNNVV có một số đặc điểm cơ bản sau:
* Về các điểm mạnh:
- DNNVV dễ khởi sự. Các DNNVV thường chỉ cần một lượng vốn ít, số lao động không nhiều, diện tích mặt bằng nhỏ với các điều kiện làm việc giản đơn đã có thể bắt đầu kinh doanh ngay sau khi có ý tưởng kinh doanh. DNVVN gần như không đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn ngay trong giai đoạn đầu. Khó khăn lớn đối với các DN là làm sao tạo được nguồn vốn kinh doanh, nhưng do tốc độ quay vòng vốn nhanh nên DNNVV có thể huy động vốn từ nhiều nguồn không chính thức khác nhau như bạn bè, người thân để đáp ưng cho nhu cầu vốn của mình.
- Tính linh hoạt cao. Do hoạt động với quy mô nhỏ cho nên hầu hết các DNNVV đều rất năng động và dễ thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng của môi trường. Trong một số trường hợp các DNNVV còn năng động trong việc đón đầu những biến động đột ngột của thể chế, chính sách quản lý kinh tế xã hội cũng như các biến động trên thị trường. Nhờ tính năng động này mà các DNNVV dễ dàng tìm kiếm và gia nhập thị trừơng khi nhận thấy việc kinh doanh có thể thu nhiều lợi nhuận hoặc rút khỏi các thị trường khi công việc kinh doanh trở nên khó khăn và kém hiệu quả. Điều này đặc biệt quan trong đối với các nền kinh tế đang chuyển đổi hoặc các nền kinh tế đang phát triển như nước ta.
- Có lợi thế trong việc duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống.
So sánh hai loại hình doanh nghiệp lớn và DNVVN thì DNNVV có lợi thế hơn trong việc khai thác, duy trì và phát triển các ngành nghề truyền thống, khả năng khai thác và sử dụng có hiệu quả những nguồn lực đầu vào như lao động, tài nguyên hay vốn tại chỗ của từng địa phương. Từ đó DNVVN từng bước trưởng thành và lớn mạnh. Mặt khác các DNVVN còn có nhiều lợi thế hơn các DN lớn trong việc nắm bắt kịp thời nhu cầu và thị hiếu thường xuyên thay đổi của người tiêu dùng, kết hợp với phương châm đa dạng hóa sản phẩm đã tạo ra nhiều loại hàng hóa và dịch vụ mới đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng.
- DNVVN có lợi thế về sử dụng lao động. Quan hệ lao động trong các DNVVN thường có tính chất thân thiện, gần gũi hơn so với các doanh nghiệp lớn. Do đó người lao động thường dễ dàng được quan tâm, động viên, khuyến khích hơn trong công việc. Đặc biệt là mối quan hệ gần gũi, thân thiện đó rất phù hợp với văn hóa của người Việt Nam.
Với lợi thế trong việc khai thác các nguồn lực sẵn có của địa phương, DNVVN có những tác động tích cực trong việc tạo ra việc làm cũng như nâng cao đời sống vật chất và tình thần cho dân cư tại địa phương hoặc duy trì và bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống. Bên cạnh đó, việc phát triển các DNVVN còn có lợi ích như giảm khoảng cách giữa người giàu và người nghèo, giảm sự các biệt giữa thành thị và nông thôn, qua đó cũng góp phần làm giảm tệ nạn trong xã hội.
* Về các điểm yếu:
_ Các DNVVN ở Việt Nam thường có công nghệ lạc hậu, thủ công.
Hầu hểt các DNVVN ở Việt Nam đều sử dụng công nghệ lạc hậu từ 15-20 năm nên sản phẩm làm ra thường có giá trị công nghệ thấp, hàm lượng chất xám ít, giá trị thương mại và sức cạnh tranh kém so với sản phẩm cùng loại của các quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Tình trạng máy móc thiết bị, công nghệ lạc hậu đã và đang là nguyên nhân chính của tình trạng lãng phí trong sử dụng nguyên nhiên vật liệu và ô nhiễm môi trường…
Do chủ yếu tận dụng nguồn lao động tại địa phương với trình độ kỹ thuật tay nghề thấp nên khả năng tiếp cận với những công nghệ máy móc hiện đại là rất khó. Hơn nữa các doanh nghiệp vừa và nhỏ có quy mô vốn nhỏ, khả năng huy động vốn lại ít nên thường gặp khó khăn trong việc đầu tư đổi mới công nghệ và cũng hiếm có các chương trình đào tạo giúp nâng cao tay nghề cho lao động của doanh nghiệp.
_Trình độ quản lý của chủ DNVVN bị hạn chế, thiếu thông tin trong khi đó lại khó có khả năng thu hút các nhà quản lý và lao động giỏi. Do khả năng tài chính có hạn, DNVVN thường gặp thường gặp khó khăn trong việc tiếp cận thông tin thị trường, công nghệ sản xuất và công nghệ quản lý tiên tiến cũng như ít có khả năng mua sắm những thiết bị hiện đại. Mặt khác phần lớn các DNVVN được thành lập do sự góp vốn của những người có vốn, khả năng quản lý của họ có hạn nên thường gặp lúng túng khi có biến động lớn trên thị trường. Các nhà quản lý doanh nghiệp chưa được đào tạo, thiếu sự hiểu biết đầy đủ về quản lý doanh nghiệp trong khi điều kiện hội nhập và cạnh tranh. Hơn nữa do quy mô sản xuất nhỏ, sản phẩm tiêu thụ không nhiều, các DNVVN khó có thể trả lương cao cho người lao động nên khó có khả năng thu hút được những người lao động có trình độ cao trong sản xuất kinh doanh và quản lý điều hành doanh nghiệp.
_ Các DNVVN có năng lực tài chính thấp
Vốn luôn là khó khăn lớn nhất đối với sự tăng trưởng của DNVVN. Khi mới thành lập, phần lớn các DNVVN thường gặp phải vấn đề về vốn. Các nhà đầu tư, các tổ chức tài chính thường e ngại khi tài trợ cho các doanh nghiệp này bởi các DNVVN chưa có uy tín trên thị trường cạnh tranh, chưa tạo lập được khả năng trả nợ. Vốn chủ sở hữu thấp, năng lực tài chính chưa cao, nếu chưa tạo dựng được uy tín bằng năng lực kinh doanh và hiệu quả sử dụng vốn thì doanh nghiệp rất khó tìm được người bảo lãnh cho mình trong quan hệ tín dụng. Vì thế DNVVN khó tiếp cận được vốn tín dụng của các Ngân hàng thương mại. Muốn vay vốn được từ nguồn tín dụng của các ngân hàng thương mại thì các DNVVN phải tạo lập được dự án đầu tư có tính khả thi nhưng do trình độ, khả năng quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp thấp, khả năng dự báo trước những biến động của ngành, của nền kinh tế kém nên việc xây dựng các kế hoạch tài chính, phương án sản xuất kinh doanh khả thi của không ít DNVVN còn yếu trong khi dịch vụ tư vấn hỗ trợ doanh nghiệp lại chưa phát triển. Mặt khác không ít các DNVVN lập báo cáo tài chính chưa rõ ràng, không minh bạch do yếu kém về quản trị doanh nghiệp nên các báo cáo tài chính không đáp ứng được yêu cầu. Bên cạnh đó vẫn còn những doanh nghiệp lập báo cáo chỉ để đối phó với cơ quan Thuế nên đã cố tình làm giảm khấu hao tài sản, tăng nợ…Một số doanh nghiệp còn làm trái chức năng, trái pháp luật, sử dụng giấy tờ giả để lừa cơ quan quản lý Nhà nước trong việc xin hoàn thuế hoặc góp vốn liên doanh, liên kết…Do nguồn tài chính hạn hẹp, quá trình tích tụ và tập trung vốn thấp, khả năng xây dựng các dự án khả thi yếu, nhiều doanh nghiệp còn hoạt động kinh doanh theo thương vụ, không có chiến lược phát triển cụ thể nên mức độ rủi ro cao, trong khi các báo cáo tài chính không đủ sức thuyết phục do chưa chấp hành tốt công tác kế toán thống kê, một số doanh nghiệp chưa nhận thức đúng, đầy đủ nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý trong việc đăng ký kinh doanh nên việc tiếp cận vốn tín dụng từ các kênh thương mại cũng như ưu đãi đều rất hạn chế. Như vậy với quy mô vốn nhỏ, khả năng tiếp cận với các nguồn tài chính lại khó khăn nên