Đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng của mỗi quốc gia trên thế giới. Khái niệm đầu tư tuy đã được các nhà kinh tế học đề cập từ rất lâu ở Việt nam. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được chú ý từ khi Nhà nước ta chuyển hướng phát triển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
104 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại tổng công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đầu tư là chìa khoá cho sự tăng trưởng của mỗi quốc gia trên thế giới. Khái niệm đầu tư tuy đã được các nhà kinh tế học đề cập từ rất lâu ở Việt nam. Tuy nhiên, nó chỉ thực sự được chú ý từ khi Nhà nước ta chuyển hướng phát triển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN.
Đối với nhiều doanh nghiệp lớn hiện nay, luôn xác định đầu tư là ưu tiên số một, là nhiệm vụ quan trọng chiến lược hàng đầu, để nâng cao năng lực và hiệu quả sản xuất kinh doanh, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Như chúng ta đã biết khâu lập dự án rất quan trọng trong hoạt động đầu tư. Nó quyết định sự thành công hay thất bại của một dự án đầu tư. Thấy rõ được tầm quan trọng của dự án đầu tư, ngay từ khi mở rộng lĩnh vực hoạt động của mình sang đầu tư theo dự án từ năm 1996, Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam rất quan tâm đến các quá trình nghiên cứu, đào tạo phát triển kiến thức chuyên môn về công tác lập dự án đầu tư. Từ những kiến thức được học trong Nhà trường và qua thời gian thực tập tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam, trong Luận văn này em xin đề cập đến vấn đề "Nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam - Thực trạng và giải pháp"
Kết cấu của Luận văn gồm 3 chương:
Chương I. Những vấn đề lý luận chung
Chương II. Thực trạng công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam
Chương III. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác lập dự án tại Tổng Công ty xuất nhập khẩu xây dựng Việt Nam
Để hoàn thành tốt bài viết này rất mong được sự góp ý của quý thầy cô và các bạn để có thể hoàn chỉnh hơn về các góc độ nghiên cứu đề tài trong phạm vi kiến thức đã học trong nhà trường và những hiểu biết thực tế nhất định.
Chương I
Những vấn đề lý luận chung
I. Lý luận chung về đầu tư
1. Khái niệm đầu tư
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu tư chúng ta có thể có những cách hiểu khác nhau về đầu tư.
Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về cho nhà đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được kết quả đó. Nguồn lực có thể là tiền, tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động, là trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính, các tài sản vật chất, các tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực có điều kiện và đủ khả năng làm việc với năng suất cao hơn trong nền văn hoá xã hội.
2. Phân loại hoạt động đầu tư
Tuỳ từng góc độ nghiên cứu khác nhau mà hoạt động đầu tư được phân loại thành nhiều dạng khác nhau, nhưng tựu chung lại thì nó bao gồm 3 loại chính như sau:
a) Đầu tư tài chính
Đầu tư vào hoạt động tài chính là hoạt động dùng tiền đầu tư vào việc mua các chứng chỉ có giá như cổ phần, cổ phiéu, các loại chứng khoán khác hay đơn thuần là việc gửi tiền vào Ngân hàng để được hưởng lãi suất… Như vậy việc đầu tư tài chính có kết quả là số tiền đầu tư không cao, độ rủi ro không lớn, độ mạo hiểm không cao, mà lãi suất hay cổ tức thu được là tương đối ổn định. Tuy không đóng vai trò quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế song nó rất quan trọng trong việc kích thích nền kinh tế phát triển, tạo ra một nền kinh tế năng động, nhất là các kênh lưu thông tiền tệ được linh hoạt hơn.
b) Đầu tư thương mại
Đầu tư thương mại là hoạt động đầu tư mà thời gian thực hiện đầu tư và hoạt động của các kết quả đầu tư để thu hồi đủ vốn đầu tư là tương đối ngắn, vốn vận động nhanh, độ mạo hiểm thấp trong một thời gian ngắn tính bất định không cao, lại dễ dự đoán và dễ đạt độ chính xác cao. Trong thực tế, những người có tiền thường thích đầu tư thương mại (kinh doanh hàng hoá). Tuy nhiên trong giác độ xã hội, hoạt động này không tạo ra của cải xã hội một cách trực tiếp, nhưng giá trị tăng do hoạt động đầu tư đem lại chỉ là sự phân phối thu nhập giữa các ngành, các địa phương, các tầng lớp dân cư trong xã hội.
c) Đầu tư phát triển
Đây là hoạt động đầu tư có tính chất quyết định đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế, trực tiếp tạo ra các tài sản cho đất nước. Các tài sản tăng thêm có thể là tài sản hữu hình như nhà cửa, các công trình, các máy móc trang thiết bị, các vật dụng khác. Các tài sản vô hình như đầu tư vào phát triển giáo dục, nghiên cứu khoa học, sự tăng thêm về trình độ quản lí... Đặc điểm của hoạt động đầu tư này là thời gian đầu tư thường kéo dài, số tiền đầu tư lớn, độ mạo hiểm cao. Đây là cái giá của hoạt động đầu tư phát triển. Mặt khác trong quá trình đầu tư thì luôn phải có một quá trình nghiên cứu kĩ càng được ghi trong một tập tài liệu gọi là dự án đầu tư. Khi thực hiện quá trình đầu tư (bao gồm khâu lập dự án cho tới khâu thực hiện dự án) thì có nhiều bộ phận cơ quan tham gia với các chức năng khác nhau như lập và quản lí dự án, thẩm định dự án, quản lí Nhà nước về đầu tư nhằm tạo ra tính chính xác và hiệu quả cho công cuộc đầu tư. Ngày nay đầu tư phát triển được quan tâm rộng rãi giữa các quốc gia, các ngành, các vùng, các địa phương.
3. Vai trò của hoạt động đầu tư phát triển
Nói về vai trò của hoạt động đầu tư tác động đến quá trình tăng trưởng và phát triển kinh tế, các lí thuyết kinh tế đều coi đầu tư là nhân tố quan trọng để phát triển kinh tế, là chìa khoá cho sự tăng trưởng.
a) Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế
v Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu của nền kinh tế:
* Về mặt cầu: Đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của toàn bộ nền kinh tế.Theo số liệu của ngân hàng thế giới, đầu tư thường chiếm 20-28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động vào tổng cầu ngắn hạn.
*Về mặt cung: Khi thành quả của đầu tư phát huy tác dụng, các năng lực mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên kéo theo sản lượng tiềm năng tăng lên trong khi giá cả giảm cho phép khả năng tiêu dùng tăng. Tăng tiêu dùng đến lượt mình lại kích thích sản xuất phát triển hơn, tăng thu nhập cho người lao động, nâng cao đời sống cho mọi thành viên trong xã hội. Đây là tác động có tính chất dài hạn của đầu tư.
v Đầu tư tác động hai mặt tới sự ổn định của nền kinh tế:
Do sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu tư đối với tổng cầu và tổng cung nên mỗi sự thay đổi trong đầu tư dù là tăng hay giảm đều phá vỡ sự ổn định của nền kinh tế.
Chẳng hạn khi tăng đầu tư, cầu đối với yếu tố đầu tư tăng làm cho giá cả hàng hoá có liên quan tăng (coi phí tổn, giá công nghệ, lao động, vật tư) đến một mức nào đó dẫn đến tình trạng lạm phát. Đến lượt mình lạm phát làm cho sản xuất bị đình trệ, đời sống của người lao động gặp nhiều khó khăn do sản lượng thực tế ngày càng thấp, thâm hụt ngân sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác tăng đầu tư làm cho cầu các các yếu tố liên quan tăng, sản xuất ở các ngành này phát triển, thu hút thêm lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống và giảm tệ nạn xã hội. Tất cả tác động này tạo điều kiện cho phát triển kinh tế.
Khi giảm đầu tư cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhưng theo chiều hướng ngược lại so với tác động trên đây. Vì vậy trong điều hành kinh tế vĩ mô, các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đưa ra các chính sách nhằm hạn chế các tác động xấu, phát huy tác động tích cực, duy trì được sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
v Đầu tư tác động đến sự tăng trưởng và phát triển kinh tế:
Vốn là một yếu tố quan trọng đối với quá trình sản xuất, là đông lực thúc đẩy tăng trưởng phát triển của mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ. Giữa tăng trưởng và đầu tư là những nhân tố trực tiếp làm tăng nhanh GDP. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy muốn giữ tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình từ 8%-10% thì tỷ lệ đầu tư so với GDP phải đạt từ 15%-20% tuỳ vào hệ số ICOR của mỗi nước. Ta có:
Với I là vốn đầu tư còn g là mức tăng GDP.
Như vậy nếu ICOR không đổi thì tốc độ tăng GDP chỉ phụ thuộc vào mức tăng đầu tư.
ICOR của mỗi nước khác nhau thì khác nhau tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước đó. ở các nước phát triển ICOR thường lớn (5"7) vì họ thừa vốn thiếu lao động và sử dụng những công nghệ đắt tiền hiện đại nên để tăng 1%GDP cần tăng nhiều vốn, ngược lại đối với những nước chậm phát triển thì ICOR thấp (2"3). Như vậy đầu tư đóng vai trò như một cái kích ban đầu tạo đà cho sự cất cánh của nền kinh tế.
v Đầu tư tác động đến sự chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế:
Kinh nghiệm của các nước trên thế giới cho thấy con đường tất yếu để có thể tăng trưởng nhanh với tốc độ mong muốn (từ 9%-10%/năm) là tăng cường đầu tư cho các ngành Công nghiệp và Dịch vụ. Do những hạn chế về đất đai và khả năng sinh học của ngành Nông lâm ngư nghiệp nên để đạt tới tốc độ tăng trưởng từ 5%-6% là rất khó khăn. Như vậy chính đầu tư quyết định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các quốc gia, nhằm đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế. Về cơ cấu lãnh thổ, đầu tư có tác dụng giải quyết những mất cân đối về phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đưa vùng kém phát triển thoát khỏi tình trạng đói nghèo, đồng thời phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế, kinh tế xã hội... của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn đạp thúc đẩy các ngành khác phát triển.
b) Đối với những cơ sở sản xuất kinh doanh và dịch vụ:
Đầu tư quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xưởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt máy móc thiết bị trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở vật chất kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu tư đối với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại; sau một thời gian hoạt động, các cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở này hao mòn, hư hỏng. Để duy trì hoạt động bình thường cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay mới các cơ sở vật chất kỹ thuật đã hư hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học kỹ thuật và nhu cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay thế cho các trang thiết bị cũ, lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu tư.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thường xuyên. Tất cả các hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu tư.
II. Lý luận chung về dự án đầu tư
1. Khái niệm dự án đầu tư
Dự án đầu tư là một tập hồ sơ tài liệu trình bày một cách chi tiết và có hệ thống các hoạt động và các chi phí theo một kế hoạch của một công cuộc đầu tư phát triển kinh tế xã hội hoặc phát triển sản xuất kinh doanh nhằm đạt được những kết quản nhất định và thực hiện những mục tiêu xác định trong tương lai.
2. Chu kỳ dự án đầu tư
Chu kỳ dự án đầu tư là các bước hoặc các giai đoạn mà một dự án phải trải qua bắt đầu từ khi dự án mới chỉ là ý đồ đến khi dự án hoàn thành, chấm dứt hoạt động.
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Sx
KDDV
ý đồ về dự án mới
ý đồ về dự án
Ta có thể minh hoạ chu kỳ dự án theo sơ đồ sau đây:
3. Phân loại Dự án đầu tư
Trên giác độ quản lý nền kinh tế vĩ mô, dự án đầu tư được phân thành 3 nhóm: A, B, C. Tuỳ thuộc vào từng loại dự án và số tiền đầu tư vào dự án mà phân loại dự án đầu tư như sau:
- Công nghiệp điện, khai thác dầu khí, hoá chất, phân bón, chế tạo máy, xi măng… cầu, cảng biển, cảng sông, sân bay, đường sắt, đường quốc lộ
B
C
A
30 tỷ 600 tỷ
- Thuỷ lợi, giao thông (không thuộc nhóm 1), cấp thoát nước,… kỹ thuật điện, sản xuất thiết bị thông tin, điện tử, tin học, hoá dược, thiết bị y tế…bưu chính viễn thông, BOT trong nước…
B
C
A
20 tỷ 400 tỷ
A
B
C
- Hạ tầng kỹ thuật đô thị mới, công nghiệp nhẹ, sành sứ thuỷ tinh, in, vườn quốc gia… mua sắm thiết bị xây dựng, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản…
15 tỷ 300 tỷ
A
B
C
- Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng, kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học…
7 tỷ 200 tỷ
- Các dự án thuộc phạm vi bảo vệ an ninh, quốc phòng có tính chất bảo mật quốc gia, có ý nghĩa chính trị - xã hội quan trọng, thành lập và xây dựng hạ tầng khu công nghiệp mới: đều là dự án nhóm A (không kể mức vốn).
- Các Dự án sản xuất chất độc hại, chất nổ không phụ thuộc và quy mô đầu tư: đều là dự án nhóm A (không kể mức vốn).
4. Sự cần thiết phải đầu tư theo dự án
Xuất phát từ những đặc điểm đặc trưng của công cuộc đầu tư phát triển thì việc đầu tư theo dự án là cần thiết.
Hoạt động đầu tư là một hoạt động kinh tế nhằm tái sản xuất cho nền kinh tế xã hội, đây là một hoạt động phức tạp và có những đặc điểm nổi bật sau đây:
+ Nguồn lực huy động cho một công cuộc đầu tư là rất lớn trong một thời gian khá dài. Đây là cái giá khá lớn cho hoạt động đầu tư. Trong quá trình này thì nguồn vốn nằm khê đọng không sinh lời.
+ Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cho đến khi thu hồi vốn đã bỏ ra hay cho đến khi thanh lí tài sản do vốn tạo ra có thể cần một thời gian dài, thường là vài năm, có khi hàng chục năm hay lớn hơn.
+ Các thành quả của quá trình đầu tư có thể được sử dụng trong nhiều năm đủ để các lợi ích thu được tương ứng và lớn hơn những chi phí đã bỏ ra trong suốt quá trình thực hiện đầu tư.
+ Các kết quả đầu tư chịu ảnh hưởng nhiều bởi các yếu tố bất định về tự nhiên, các điều kiện về kinh tế xã hội pháp luật, chính trị, nhu cầu thị trường và các quan hệ quốc tế khác... Do đó hoạt động đầu tư có độ mạo hiểm cao.
Vì vậy để đảm bảo cho mọi công cuộc đầu tư phát triển được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu mong muốn, đem lại hiệu quả kinh tế xã hội cao thì trước khi bỏ vốn phải làm tốt công tác chuẩn bị. Có nghĩa là khi xem xét, tính toán toàn diện các khía cạnh có liên quan đến quá trình thực hiện đầu tư, đến sự phát huy tác dụng và hiệu quả đạt được của công cuộc đầu tư phải dự đoán các yếu tố bất định (sẽ xảy ra trong suốt quá trình kể từ khi thực hiện đầu tư cho tới khi thành quả của nó phát huy tác dụng) có ảnh hưởng tới sự thành bại của công cuộc đầu tư thực chất của sự xem xét chuẩn bị này là là phải chuẩn bị nó trong một dự án đầu tư. Có thể nói dự án đầu tư được soạn thảo tốt là kim chỉ nam, là sự vững chắc, là tiền đề cho các công cuộc đầu tư đạt hiệu quả kinh tế xã hội như mong muốn.
5. Công của dự án đầu tư
Công dụng của dự án đầu tư thể hiện ở 2 góc độ: Đối với sự phát triển kinh tế, đối với các chủ thể. Trong đó Các chủ thể bao gồm: Chủ đầu tư, Nhà nước và các định chế tài chính. Cụ thể công dụng của dự án đầu tư được thể hiện như sau:
a) Đối với sự phát triển kinh tế
Đầu tư theo dự án sẽ tạo ra cho nền kinh tế xã hội với những tài sản cố định có chất lượng cao, chi phí hợp lí, tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường. Dự án đầu tư sẽ làm cho công cuộc đầu tư phát triển đúng hướng, phù hợp với xu thế phát triển và điều kiện phát triển kinh tế mỗi nước.
b) Đối với các chủ thể
- Chủ đầu tư: Dự án là một cách để thực hiện đầu tư với phương án tối ưu về mặt kinh tế kĩ thuật làm sao cho công cuộc đầu tư mang lại lợi nhuận cao nhất, chi phí tối thiểu và giảm thiểu rủi ro gây ra. Lập dự án đầu tư còn là điều kiện đảm bảo tính hợp pháp và tính khả thi của công cuộc đầu tư giúp cho nó nhanh được đi vào thực hiện (chẳng hạn liên quan đến việc được cấp giấy phép đầu tư, hay được giải ngân vốn, giải phóng mặt bằng).
- Đối với Nhà nước: Dự án là cơ sở để kiểm tra tính hợp pháp, tính khả thi, tính định hướng của công cuộc đầu tư. Từ đó là cơ sở để thẩm định và cấp giấy phép đầu tư (mà cơ quan đại diện quản lí Nhà nước về đầu tư là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, các Bộ và cơ quan ngang bộ khác, Uỷ Ban Nhân dân). Dự án đầu tư giúp cho Nhà nước thực hiện được mục tiêu quản lí của mình là phù hợp với các chính sách, chiến lược đầu tư mà tiêu chuẩn đánh giá chính là hiệu quả kinh tế xã hội mà dự án mang lại.
- Đối với các định chế tài chính (Ngân hàng, các tổ chức tài chính): Dự án là cơ sở để các tổ chức này thẩm định để đứng ra cho vay hay tài trợ. Bởi lẽ khi dự án đi vào hoạt động thì số tiền cần huy động là rất lớn mà khi vận hành các kết quả đầu tư thường mất nhiều năm tháng mới có thể trả được hết nợ. Do vậy để an toàn cho nguồn vốn của mình thì đòi hỏi các định chế tài chính dựa vào dự án để ra quyết định cho vay hoặc tài trợ vốn. (Loan and finance).
6. Các giai đoạn hình thành và thực hiện một dự án đầu tư
Quá trình hình thành và thực hiện một dự án đầu tư trải qua 3 giai đoạn: Chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư và vận hành các kết quả đầu tư.
Bảng 1: Các giai đoạn của chu kỳ dự án đầu tư
Chuẩn bị đầu tư
Thực hiện đầu tư
Vận hành kết quả đầu tư
(sản xuất, K D,DV)
Nghiên cứu phát hiện các cơ hội đầu tư
Nghiên cứu tiền khả thi sơ bộ lựa chọn dự án
Nghiên cứu khả thi (lập dự án LCKTKT)
Đánh giá và quyết định (thẩm định dự án)
Đàm phán và ký kết các hợp đồng
Thiết kế và lập dự toán thi công
Thi công xây lắp công trình
Chạy thử và nghiệm thu sử dụng
Sử dụng chưa hết công suất
Sử dụng công suất ở mức cao nhất
Công suất giảm dần và thanh lý
Các bước công việc, các nội dung nghiên cứu ở các giai đoạn được tiến hành tuần tự nhưng không biệt lập mà đan xen gối đầu cho nhau, bổ sung cho nhau nhằm nâng cao dần mức độ chính xác của các kết quả nghiên cứu và tạo thuận lợi cho việc tiến hành nghiên cứu ở các bước kế tiếp.
Trong 3 giai đoạn trên, giai đoạn chuẩn bị đầu tư tạo tiền đề và quyết định sự thành công hay thất bại ở 2 giai đoạn sau, đặc biệt đối với giai đoạn vận hành kết quả đầu tư. Tổng phí cho giai đoạn này chiếm 0,5-15% vốn đầu tư của dự án làm tốt công tác chuẩn bị đầu tư sẽ tạo điều kiện cho việc sử dụng tốt 85-99,5% vốn đầu tư ở giai đoạn thực hiện đầu tư đảm bảo đúng tiến độ, không phải phá đi làm lại, tránh được những chi phí không cần thiết khác;
Trong giai đoạn 2, 85-99,5% vốn đầu tư của dự án được chia ra và nằm khê đọng trong suốt thời gian thực hiện đầu tư. Đây là những năm lương vốn lớn không sinh lời. Thời gian thực hiện đầu tư càng kéo dài, vốn ứ đọng càng nhiều, tổn thất càng lớn, lại thêm những tổn thất do thời tiết gây ra đối với vật tư, thiết bị chưa hoặc đang thi công, đối với công trình đang được xây dựng dở dang. Vì vậy phải tuân thủ theo đúng tiến độ và các bước vạch ra trong hồ sơ dự án.
ở giai đoạn 3, nếu kết quả do đầu tư do giai đoạn thực hiện đầu tư đảm bảo tính đồng bộ, giá thành thấp, chất lượng tốt, địa điểm tiêu thụ thích hợp và với quy mô tối ưu thì dự án chắc chắn sẽ có lãi. Ngược lại, có thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của doanh nghiệp cũng như lãng phí tiền của công sức của toàn xã hội, lúc đó sẽ tạo ra ảnh hưởng tiêu cực trong đầu tư.
7. Nội dung của dự án đầu tư
Nội dung chủ yếu của dự án đầu tư bao gồm các khía cạnh kinh tế vi mô và vĩ mô, quản lí và kĩ thuật. Những khía cạnh này ở các dự án của các ngành khác nhau đều có những nét đặc thù riêng. Tuy nhiên việc xem xét các khía cạnh này đối với dự án công nghiệp và xây dựng là phức tạp hơn cả. Nội dung chủ yếu của một dự án đầu tư xem xét các vấn đề sau đây:
1. Nghiên cứu khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát và thị trường của dự án
1.1. Xem xét các khía cạnh kinh tế xã hội tổng quát liên quan đến dự án
Có thể coi tình hình kinh tế tổng quát là nền tảng của dự án đầu tư. Nó thể hiện khung cảnh đầu tư, có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hiệu quả kinh tế tài chính của dự án đầu tư. Tình hình kinh tế tổng quát được đề cập trong dự án bao gồm:
ữ Điều kiện về địa lí tự nhiên (địa hình, khí hậu, địa chất...) có liên quan đến việc lựa chọn, thực hiện và phát huy hiệu quả dự án sau này.
ữ Điều kiện về dân số và lao động có liên quan đến nhu cầu và khuynh hướng tiêu thụ sản phẩm, đến nguồn lao động cung cấp cho dự án.
ữ Tình hình chính trị, các chính sách và luật lệ có ảnh hưởng đến sự an tâm của nhà đầu tư.
ữ Tình hình phát triển kinh tế của đất nước, địa phương và tình hình phát triển