Lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải vật chất, văn hoá tinh thần, là một trong ba yếu tố không thể thiếu được của bất kì quá trình sản xuất nào, nó là yếu tố năng động và cách mạng nhất quyết định quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
87 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1446 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng lao động ở công ty tư vấn đầu tư và xây dựng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Lao động là nguồn gốc tạo ra mọi của cải vật chất, văn hoá tinh thần, là một trong ba yếu tố không thể thiếu được của bất kì quá trình sản xuất nào, nó là yếu tố năng động và cách mạng nhất quyết định quá trình phát triển của nền sản xuất xã hội nói chung và của doanh nghiệp nói riêng.
Trong hoạt động kinh tế, người ta thấy có một sự chuyển từ những thông số vật chất bên ngoài con người sang những vấn đề bên trong con người liên quan đến những hiểu biết và hoạt động sáng tạo của con người: không ngừng nâng cao chất lượng sức lao động; những hình thức sử dụng linh hoạt "nguồn lực tiềm năng" của con người; kết hợp sự nỗ lực chung của tập thể quần chúng công nhân; quan tâm đến các yếu tố văn minh thẩm mỹ của sản xuất và chất lượng công việc, là những vấn đề quan tâm của nhà sản xuất-kinh doanh hiện nay. Chính những vấn đề này đòi hỏi công tác tổ chức quản lí và sử dụng lao động phải luôn có sự thay đổi trong tư duy, tìm những hình thức, phương pháp, cơ chế quản lí mới, nhằm đem lại hiệu quả cao. Tức là, các doanh nghiệp phải có sự đổi mới cải tiến công tác quản lí lao động trong doanh nghiệp mình. Với nhận định như trên, sau thời gian học tập nghiên cứu tại trường và thực tập tại Công ty Tư vấn Đầu tư & Xây dựng, em đã chọn đề tài:
nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng lao động ở công ty tư vấn đầu tư và xây dựng.
Nội dung của chuyên đề bao gồm ba phần:
Chương I: Lí luận chung về quản lí và sử dụng lao động.
Chương II: Thực trạng công tác quản lí và sử dụng lao động ở
công ty tư vấn đầu tư và xây dựng.
Chương III: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lí và sử dụng lao động ở công ty Tư vấn Đầu tư và Xây dựng.
Trong quá trình thực tập tại công ty, nhờ sự giúp đỡ của cán bộ công nhân viên của công ty và sự chỉ bảo hướng dẫn tận tình của GSTS Đỗ Hoàng Toàn, em đã hoàn thành bài chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
Do trình độ và năng lực bản thân còn hạn chế nên bài chuyên đề của em không tránh khỏi thiếu sót cả về nội dung và hình thức.Vì vậy, em mong nhận được ý kiến đánh giá, phê bình của thầy cô giáo và các bạn trong khoa.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 2 tháng 5 năm 2002
Sinh viên: Nguyễn Thị Ngọc Châu
Chương I
Lí luận chung về quản lí và sử dụng lao động
I. Một số khái niệm:
1. Lao động:
Lao động là hoạt động chỉ có ở con người, là hoạt động quan trọng nhất của con người, tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước nói chung và của mỗi doanh nghiệp- đơn vị kinh tế nói riêng. Do đó, khi nói đến quản lí và sử dụng lao động cũng chính là nói đến quản lí và sử dụng con người trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Lao động luôn được diễn ra theo một quá trình. Quá trình lao động là tổng thể những hành động của con người để hoàn thành một công việc nhất định.
Quá trình lao động là hiện tượng kinh tế xã hội vì thế, nó luôn được xem xét trên hai mặt vật chất và xã hội.
+ Về mặt vật chất: Quá trình lao động dưới bất kì hình thái kinh tế xã hội nào muốn tiến hành được đều phải gồm ba yếu tố: Bản thân lao động-Đối tượng lao động-Công cụ lao động.
+ Về mặt xã hội: Quá trình lao động được thể hiện ở sự phát sinh những mối quan hệ qua lại giữa những người lao động với nhau.
Trong quá trình lao động tập thể, con người không những tác động vào giới tự nhiên mà còn tác động lẫn nhau, trao đổi hoạt động với
nhau, ràng buộc nhau bởi rất nhiều những mối quan hệ mang tính chất xã hội. Chính nhờ những mối quan hệ đó, con người đã lao động cải tạo giới tự nhiên một cách có hiệu quả, đồng thời có điều kiện ngày càng thoả mãn đầy đủ các nhu cầu khác nhau của mình.
Trong xã hội hiện đại, các mối quan hệ lao động được hình thành giữa chủ tư liệu sản xuất với người lao động, giữa chủ quản lí điều hành cấp trên với quản lí điều hành cấp dưới và giữa những người lao động với nhau. Những mối quan hệ phức tạp, đan xen, bện quyện vào nhau đó hình thành tính tập thể, tính xã hội của lao động.
2. Tổ chức lao động:
Ngày nay, lao động sản xuất đã trở thành những hoạt động của tập thể con người, là quá trình kết hợp giữa con người với công cụ lao động và đối tượng lao động, nhằm cải biến đối tượng lao động thành vật phẩm tiêu dùng, thoả mãn nhu cầu của con người. Nói cách khác, có lao động sản xuất thì có tổ chức lao động sản xuất.
Vậy, tổ chức lao động sản xuất là tổ chức quá trình hoạt động của con người, dùng công cụ lao động tác động lên đối tượng lao động nhằm đạt được mục đích của sản xuất.
Trong các hình thái kinh tế xã hội khác nhau thì trình độ tổ chức lao động cũng khác nhau. Tổ chức lao động ở hình thái kinh tế xã hội sau bao giờ cũng cao hơn trình độ tổ chức lao động ở hình thái kinh tế xã hội trước đó.
Tổ chức lao động là một bộ phận không thể tách rời của tổ chức sản xuất. Tổ chức sản xuất trong các doanh nghiệp là tổng thể những biện pháp nhằm kết hợp một cách có hiệu quả nhất con người với tư liệu sản xuất, không chỉ trong các quá trình lao động mà cả trong các quá trình tự nhiên.
Tổ chức lao động giữ vị trí quan trọng trong tổ chức sản xuất là
do vai trò của con người quyết định. Vai trò tích cực sáng tạo của con người không chỉ ở điều khiển máy móc, thiết bị, các loại công cụ mà còn sáng tạo ra dụng cụ hiện đại hơn, chinh phục tự nhiên, tạo điều kiện phát triển hơn nữa cá nhân con người nhằm tăng năng suất lao động.
Tổ chức lao động trong các doanh nghiệp bao gồm những nội dung sau:
+ Xây dựng qui chế phân công lao động hợp lí sao cho sự phân công đó phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trình độ văn hoá, trình độ chuyên môn của người lao động, tạo điều kiện không ngừng tăng năng suất lao động.
+ Chú ý hoàn thiện và tổ chức phục vụ môi trường làm việc như trang bị đầy đủ thiết bị, phù hợp với các yêu cầu của động tác lao động, đảm bảo vệ sinh an toàn lao động sao cho người lao động yên tâm làm việc và đạt được hiệu suất cao nhất.
+ Nghiên cứu và phổ biến các phương pháp, thao tác lao động hợp lí nhằm nâng cao năng suất lao động, giảm nhẹ hao phí lao động và đảm bảo an toàn cho người lao động.
+ Cải thiện điều kiện lao động nhằm giảm nhẹ sự nặng nhọc của công nhân, giữ gìn và tăng cường sức khoẻ cho người lao động, tạo những điều kiện lao động thuận lợi.
+ Hoàn thiện định mức lao động bao gồm nghiên cứu các dạng định mức lao động và điều kiện áp dụng chúng trong thực tiễn, xây dựng các định mức lao động, lao động có căn cứ kĩ thuật.
+ Tổ chức và thực hiện chế độ trả lương hợp lí cũng như chế độ khuyến khích vật chất làm đòn bẩy động viên người lao động.
3. Quản lí lao động:
Bất kì một quá trình lao động xã hội hoặc lao động cộng đồng nào được tiến hành trên qui mô lớn đều cần có hoạt động quản lí để phối kết hợp các công việc nhỏ lẻ với nhau. Như Mác đã nói:”Người chơi vĩ cầm có thể tự điều khiển mình nhưng một giàn nhạc thì cần phải có nhạc trưởng”.
Do đó, có thể kết luận rằng quản lí đóng một vai trò rất quan trọng trong việc phối hợp các hoạt động mang tính chất cộng đồng nói chung và các hoạt động sản xuất kinh doanh trong mỗi doanh nghiệp nói riêng để đạt được hiệu quả tối ưu.
Có rất nhiều quan niệm khác nhau về quản lí, tuy nhiên, có thể hiểu một cách tương đối cặn kẽ về quản lí thông qua hai khái niệm sau:
-Khái niệm thứ nhất: Quản lí là sự tác động có hướng nhằm mục đích chung để biến đổi đối tượng quản lí từ trạng thái này sang trạng thái khác bằng những phương pháp tác động khác nhau.
Như vậy, nói đến quản lí là nói đến sự tác động hướng đích nhằm vào đối tượng nhất định và để đạt được được mục tiêu đã đề ra. Quản lí là hoạt động chủ quan có ý thức, có tính năng động, linh hoạt của con người.
Theo quan điểm của điều khiển học, nền kinh tế quốc dân cũng như bất kì một đơn vị kinh tế nào đều có thể coi là một hệ thống quản lí bao gồm hai phân hệ: chủ thể quản lí và đối tượng quản lí (hay còn gọi là bộ phận quản lí và bộ phận bị quản lí).
Bộ phận quản lí bao gồm các chức năng quản lí, đội ngũ cán bộ nhân viên quản lí, các mối quan hệ quản lí về hệ thống phương pháp quản lí. Bộ phận bị quản lí bao gồm hệ thống các phân xưởng, các bộ phận sản xuất, hệ thống máy móc thiết bị, các phương pháp công nghệ.
Hai bộ phận này có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất. Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa chủ thể quản lí và đối tượng quản lí qua sơ đồ sau:
Chủ thể quản lí
Đối tượng quản lí
Các mục tiêu Mối quan hệ
ngược
Như vậy chủ thể quản lí trên cơ sở các mục tiêu đã xác định tác động lên đối tượng quản lí bằng những quyết định quản lí của mình và thông qua hành vi của đối tượng quản lí-mối quan hệ ngược mà chủ thể quản lí có thể điều chỉnh các quyết định đưa ra.
-Khái niệm thứ hai: Quản lí doanh nghiệp là quá trình tác động một cách có hệ thống, có tổ chức đến tập thể những người lao động nhờ vận dụng một cách sáng tạo, linh hoạt các qui luật kinh tế, các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước để tính toán, xác định đúng đắn những biện pháp kinh tế, kĩ thuật, tổ chức xã hội nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thực hiện ba mục tiêu:
+Đảm bảo sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao.
+Phát triển sản xuất cả về số lượng và chất lượng theo yêu cầu của thị trường.
+Không ngừng cải thiện điều kiện vật chất tinh thần cho người
lao động.
Một trong những nội dung quan trọng của quản lí doanh nghiệp là quản lí lao động:
Quản lí lao động là sự tác động có mục đích của hệ thống các biện pháp khác nhau của chủ thể quản lí lên con người làm cho hệ thống hoạt động bình thường, giải quyết mục tiêu của quản lí, vận dụng hết tiềm năng sao cho quản lí có hiệu quả nhất.
Đối tượng của quản lí lao động là quản lí con người trong lao động và khả năng của mỗi con người đó.
Khả năng của mỗi con người bao gồm sức lao động và năng lực sản xuất .
Sức lao động là tổng thể thể lực và trí lực của mỗi con người. Nó phản ánh khả năng lao động của mỗi người và lao động là điều kiện tiên quyết của mỗi nền sản xuất.
Quản lí lao động bao gồm những phần việc khác nhau như:
+Lập kế hoạch lao động trong mỗi thời kì kinh doanh.
+Tuyển mộ và tuyển chọn lao động theo nhu cầu.
+Tổ chức biên chế lao động theo chương trình hoạt động đã dự định.
+Huấn luyện người lao động để họ đảm đương được chức phận.
+Đánh giá mức độ thực hiện công việc theo từng bộ phận .
+Đãi ngộ người lao động.
+Đào tạo phát triển nguồn nhân lực.
Với mục đích nâng cao hiệu quả sử dụng lao động, thu hút và
gìn giữ lực lượng lao động có chất lượng cao, khuyến khích người lao động đóng góp nhiều hơn nữa vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, các nhà quản lí phải biết lựa chọn triết lí quản lí, quản trị phối hợp với các thuyết tạo động lực lao động:
+Thuyết về sự khắc nghiệt (Thuyết X).
+Thuyết về sự khuyến khích (Thuyết Y).
+Thuyết về sự quan tâm toàn diện đối với lao động (Thuyết Z).
II. mục tiêu của quản lí lao động:
Lao động là một trong những yếu tố đầu vào quan trọng của sản xuất. Do đó, yêu cầu đặt ra đối với các nhà quản lí đó là việc sử dụng đội ngũ lao động như thế nào? Số lượng lao động là bao nhiêu? Chất lượng lao động như thế nào? để đáp ứng được những đòi hỏi của công việc và đem lại hiệu quả lớn nhất từ nguồn lao động đó. Để đạt được mục đích này thì các nhà quản lí cần phải có một kế hoạch, mục tiêu rõ ràng, cụ thể. Có thể khái quát mục tiêu của quản lí lao động gồm:
-Đáp ứng được yêu cầu của quá trình sản xuất trong đó:
+Đảm bảo tính hiện thực.
+Đảm bảo tính kỉ luật an toàn lao động.
+Đảm bảo điều kiện môi trường làm việc.
-Nâng cao trình độ cho người lao động:
+Nâng cao trình độ văn hoá cho người lao động.
+Nâng cao trình độ chuyên môn, tay nghề cho người lao động.
-Nâng cao năng suất-hiệu suất lao động.
-Phát huy tinh thần sáng tạo của người lao động.
III. ý nghĩa của việc quản lí và sử dụng lao động:
Quản lí và sử dụng lao động là một bộ phận không thể thiếu của quản trị sản xuất-kinh doanh, nó nhằm củng cố và duy trì đầy đủ số lượng và chất lượng người làm việc cần thiết cho tổ chức để đạt mục tiêu đặt ra; tìm kiếm và phát triển những hình thức, những phương pháp tốt nhất để con người có thể đóng góp nhiều sức lực cho mục tiêu của tổ chức, đồng thời cũng tạo cơ hội để phát triển không ngừng chính bản thân con người. Không một hoạt động nào của tổ chức mang lại hiệu quả nếu thiếu quản lí lao động-quản trị nhân sự. Do vậy, quản lí và sử dụng lao động có ý nghĩa rất lớn về mặt kinh tế, chính trị, xã hội .
1. ý nghĩa về mặt kinh tế:
-Lao động là yếu tố đặc biệt, không bao giờ cạn kiệt, nó có khả năng phục hồi và tự tái sinh. Lao động là nguồn gốc sáng tạo ra mọi của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy, không được lãng phí lao động.
-Quản lí lao động thực chất là việc tìm kiếm, lựa chọn một cơ chế thích hợp và các phương án hữu hiệu để thực hiện các phương án đó, nhằm tác động lên con người sao cho hành vi của họ có ích nhất cho bản thân họ biểu hiện ở số lượng, chất lượng sản phẩm mà con người tạo ra trong thời gian làm việc tại doanh nghiệp. Nó chính là năng suất lao động.
-Năng suất lao động là kết quả của sự phối hợp các yếu tố của sản xuất. Với cùng một điều kiện các yếu tố sản xuất thì năng suất lao động là thước đo để đánh giá phương pháp và cơ chế quản lí lao động. Quản lí lao động tốt sẽ tạo ra năng suất lao động cao, đó là biểu hiện cao nhất về ý nghĩa kinh tế của quản lí và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp.
-Sự tăng trưởng kinh tế của mỗi doanh nghiệp tạo ra sự tăng trưởng kinh tế của một địa phương, một quốc gia. Tăng trưởng kinh tế là sự tăng năng suất lao động; vì vậy, tăng năng suất lao động xã hội là tổng hợp sự tăng trưởng năng suất của mỗi thành viên kinh tế.
-ý nghĩa kinh tế của quản lí và sử dụng lao động không những ở phạm vi, qui mô của từng doanh nghiệp mà rộng hơn còn ở phạm vi toàn xã hội.
-Mức độ tăng năng suất lao động được xem là mức độ tiến bộ của nền kinh tế mỗi quốc gia. Như vậy, tăng năng suất lao động là mục tiêu chủ yếu của công tác quản lí và sử dụng lao động.
ở Việt Nam hiện nay, khi nền kinh tế thoát khỏi sự ràng buộc của cơ chế quản lí tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế hạch toán thời mở cửa, hội nhập dần với nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc tổ chức quản lí sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp ngày càng đòi hỏi sự đa dạng, sâu sắc và khoa học. Theo đó, việc quản lí và sử dụng lao động cũng không thể đơn giản như trong thời kì bao cấp.
2. ý nghĩa về mặt xã hội:
Sự tồn tại và phát triển của một xã hội được dựa trên một cơ sở hạ tầng kinh tế. Kinh tế ổn định và phát triển thì mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra mới có điều kiện thực hiện.
ý nghĩa xã hội của công tác quản lí và sử dụng lao động là hệ quả của ý nghĩa kinh tế mà công tác này đem đến cho sản xuất của doanh nghiệp, nó được thể hiện qua một số mặt cơ bản sau:
-Thu hút và giải quyết lao động cho không ít những người chưa có việc làm (nói cách khác là người thất nghiệp, là lực lượng luôn tồn tại ở nhiều mức khác nhau).
ở Việt Nam, dân số đông, tốc độ tăng dân số còn ở mức cao, sức ép về dân số cũng chính là sức ép về việc làm. Nếu giải quyết không tốt sẽ kéo theo nhiều tiêu cực và bất ổn định xã hội. Do đó, việc quản lí-sử dụng tốt lao động là giải pháp cơ bản để giải quyết vấn đề xã hội to lớn này.
-Các biện pháp thực hiện công tác quản lí và sử dụng lao động góp phần đào tạo và rèn luyện một đội ngũ lao động mới đồng thời, cùng thực hiện một chế độ phân phối theo lao động. Đội ngũ những người lao động mới ngày càng có ảnh hưởng, tác động tốt làm lành mạnh hoá môi trường xã hội. Sự phân phối hưởng thụ theo kết quả lao động cũng chính là vấn đề cốt lõi của công bằng, văn minh trong xã hội.
-Thông qua việc quản lí và sử sụng tốt lao động mỗi người trong doanh nghiệp hay rộng hơn trong toàn xã hội sẽ nhận thức rõ vị trí của mình cùng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và những mối quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng. Điều này góp phần không nhỏ làm giảm bớt, hạn chế tình trạng quan liêu, cửa quyền, tham nhũng của không ít những người quản lí tiêu cực, khắc phục tình trạng chây lười, dựa dẫm, thiếu tinh thần làm chủ của một số lao động. Tất cả những điều đó có tác dụng thúc đẩy khả năng sáng tạo, lòng nhiệt tình, hăng say tạo ra năng suất lao động cao và từ đó, thu nhập chính đáng cũng sẽ tăng, đời sống của người lao động được cải thiện từng phần, họ yên tâm phấn khởi, gắn bó với công việc, với doanh nghiệp.
-Đào tạo con người trong hiện tại và tương lai đòi hỏi có sự phát triển toàn diện về thể lực, trí tuệ, trình độ văn hoá chuyên môn tay nghề.
IV. Nội dung của quản lí và sử dụng lao động:
1. Cơ cấu lao động:
Như đã biết, muốn sản xuất ra của cải vật chất cần phải có ba yếu tố: Lao động, tư liệu lao động và đối tượng lao động, trong đó, lao động là yếu tố quan trọng nhất. Nếu không có lao động thì mọi hoạt động sản xuất bị ngừng trệ. Tuy nhiên, muốn cho hoạt động sản xuất đạt hiệu quả cao, cần phải hình thành một cơ cấu lao động hợp lí. Một cơ cấu lao động hợp lí, tối ưu là cơ sở để đảm bảo cho quá trình sản xuất được tiến hành cân đối, nhịp nhàng và liên tục; là cơ sở để đảm bảo nâng cao hiệu quả của quá trình sản xuất và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Ngoài ra, cơ cấu lao động hợp lí còn là cơ sở cho việc phân công, bố trí lao động; là cơ sở cho công tác đào tạo và qui hoạch cán bộ, là cơ sở khai thác triệt để các nguồn, khả năng tiềm tàng trong các doanh nghiệp.
Trong mỗi dây chuyền sản xuất, lao động được đặt đúng vị trí thích hợp từ đó sẽ tạo ra một môi trường, một động lực (sức mạnh vô hình) để kích thích sản xuất phát triển, người lao động sẽ phát huy hết khả năng lao động và làm việc một cách có hiệu quả nhất, tránh được tình trạng chỗ này thì thừa, chỗ kia thì thiếu lao động, giải quyết thất nghiệp ở doanh nghiệp.
Một cơ cấu lao động được coi là hợp lí, tối ưu khi lực lượng lao động đảm bảo đủ số lượng, ngành nghề, chất lượng, giới tính và lứa tuổi, đồng thời được phân định rõ chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ, mối quan hệ công tác giữa các bộ phận, cá nhân với nhau, đảm bảo mọi người đều có việc làm, mọi khâu, mọi bộ phận đều có người phụ trách và sự ăn khớp, đồng bộ trong từng đơn vị và trên phạm vi toàn doanh nghiệp. Để làm được điều đó, ta cần phải dựa vào các căn cứ:
-Qui trình chế tạo công nghệ sản phẩm.
-Cấp bậc kĩ thuật công việc.
-Định mức thời gian lao động.
-Kế hoạch sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Xuất phát từ đó, ta tiến hành các bước:
Bước 1: Xác định lao động cho từng nghề theo công thức:
Qi*t1
Ni=
Tn
Trong đó:
Qi: Sản lượng sản phẩm loại i.
t1 : Định mức thời gian lao động nghề i cho một sản phẩm.
Tn: Thời gian làm việc theo chế độ một năm cho một công nhân.
Bước 2: Tổng hợp lao động các nghề:
N=
-Các loại lao động phụ và phụ trợ tuỳ theo đặc điểm kinh tế-kĩ thuật của doanh nghiệp mà qui định một tỉ lệ hợp lí so với công nhân chính.
-Các loại lao động quản lí, tuỳ theo chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng khâu, từng bộ phận mà tính định biên cán bộ quản lí sao cho tổng số cán bộ quản lí không vượt quá 10% so với số lượng công nhân sản xuất công nghiệp.
2. Tuyển dụng và sử dụng lao động:
Sự thành công của một doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ phụ thuộc phần lớn vào phẩm chất, trình độ năng lực và hiệu suất của đội ngũ người lao động.Vì vậy việc lựa chọn những người này có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
2.1 Tuyển dụng đội ngũ lao động:
a.Nguyên tắc tuyển chọn:
-Tuyển chọn cán bộ, nhân viên phải xuất phát từ lợi ích chung của doanh nghiệp và xã hội.
-Khi tuyển chọn cán bộ công nhân viên phải dựa vào yêu cầu cụ thể của từng loại công việc và tính khả năng sử dụng tối đa năng lực của họ.
-Khi tuyển chọn phải nghiên cứu thận trọng và toàn diện cá tính, phẩm chất công tác, khả năng cá nhân của họ.
b.Nội dung tuyển chọn:
Phải xây dựng được các nguyên tắc, bước đi và phương pháp tuyển chọn thích hợp cho từng loại công việc.
Tuyển chọn thường được tiến hành theo qui trình chặt chẽ bao gồm một số phương pháp và kĩ thuật khác nhau, các phương pháp và bước đi cổ điển thường được áp dụng là:
-Căn cứ vào đơn xin việc, lí lịch, bằng cấp và giấy chứng chỉ v