Thế giới ngay nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các nền kinh tế của mọi quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Để hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động kinh doanh theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu "Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập" là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
44 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1494 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới ngay nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các nền kinh tế của mọi quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Để hội nhập với nền kinh tế khu vực và quốc tế phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh, hoạt động kinh doanh theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Trong bối cảnh đó việc nghiên cứu "Nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập" là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Làm rõ quy luật khách quan về hội nhập kinh tế của ngành ngân hàng.
- Phân tích thực trạng hoạt động, những lợi thế, thách thức ngân hàng thương mại Việt Nam khi hội nhập. Qua đó đưa ra các giải pháp làm giảm bất lợi và nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng thương mại Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
Trong pham vi của đề tài này nghiên cứu sơ lựơc các khái niệm liên quan về năng lực cạnh tranh của ngành ngân hàng, và nghiên cứu sâu hơn thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh, do đó các vấn đề nghiên cứu mang tính chất thực tiễn cao hơn.
Phương pháp nghiên cứu
Trong qúa trình nghiên cứu đề tài đã vận dụng tổng hợp phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp tiếp cận hệ thống, kết hợp phương pháp thống kê số liệu và phân tích để lý giải các nội dung và các mối liên hệ đến năng lực cạnh tranh ngành ngân hàng.
Kết cấu của đề tài.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục công trình gồm ba chương:
Chương 1: Nhận thức về năng lực cạnh tranh trong quá trình hội nhập
Chương 2: Thực trạng về năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM Việt Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH VÀ HỘI NHẬP CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. KHÁI QUÁT VỀ CẠNH TRANH TRONG NGÀNH NGÂN HÀNG
I.1. Quy luật về hợp tác kinh tế và xu hướng toàn cầu hoá:
Xã hội loài người kể từ khi hình thành tới nay đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài với đầy biến động phức tạp. Thực tế lịch sử phát triển đó đã cho thấy rằng kinh tế - xã hội càng phát triển lên cao thì tính hợp tác càng cao như một quy luật khách quan. Ngày nay, chuyên môn hoá và hợp tác hoá đã đạt tới trình độ cao và nền kinh tế thế giới đã và đang bước vào quá trình toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá không phải là một sản phẩm được hình thành theo ý muốn chủ quan của một giai cấp hay thế lực nào mà chính những điều kiện kinh tế - kĩ thuật nhất định đã quốc tế hoá các quan hệ kinh tế phát triển đến đỉnh cao là toàn cầu hoá. Quan hệ kinh tế có tính toàn cầu là sản phẩm tất yếu, xu thế khách quan khi lực lượng sản xuất đạt trình độ quốc tế hoá cao, khoa học - công nghệ tiến bộ vượt bậc, kinh tế thị trường trở nên phổ cập. Như nhận định của Mac - Ăngghen trong tuyên ngôn của Đảng cộng sản: "Đại công nghiệp tạo ra thị trường thế giới... Thay cho tình trạng cô lập trước kia của các địa phương và dân tộc tự cung tự cấp, ta thấy phát triển những quan hệ phổ biến, sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc". Trước đây, trong giai đoạn xây dựng mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập chung, chúng ta đã không nhận thức được xu thế này. Cũng vì hoàn cảnh lịch sử cuộc chiến tranh lạnh lúc đó mà các nước Xã hội chủ nghĩa đóng cửa, không hợp tác với các nước Tư bản chủ nghĩa. Kết quả là sau một thời gian dài đóng cửa, chúng ta đã bị tụt hậu quá nhiều so với thế giới. Trong khoảng thời gian 15 năm trở lại đây, nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ nghĩa, chúng ta đã bắt đầu mở cửa hợp tác với tất cả các nước trên thế giới và đã thu được những thành tựu to lớn trên nhiều mặt. Tuy nhiên, nước ta vẫn là một nước nghèo, lạc hậu cần phải có những lỗ lực vượt bậc với nhiều giải pháp mạnh hơn để có thể bứt phá theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới.
I.2. Vai trò của ngành ngân hàng trong hội nhập:
Trong nền kinh tế thị trường hệ thống ngân hàng có một ảnh hưởng vô cùng to lớn, đóng vai trò quyết định trong việc cung cấp vốn duy trì hoạt động của cả hệ thống kinh tế vì vậy ngành ngân hàng sẽ là đòn bẩy cho mọi thành phần kinh tế khác trong quá trình hội nhập.
Hệ thống ngân hàng của một nước bao gồm: Ngân hàng trung ương và các ngân hàng trung gian, trong đó quan trọng nhất là các ngân hàng thương mại (NHTM). Ngân hàng trung ương (ở nước ta gọi là Ngân hàng nhà nước) không làm các nghiệp vụ ngân hàng với công chúng mà chỉ làm các nghiệp vụ đó với các định chế tiền tệ, tín dụng, tài chính. NHTM có các nghiệp vụ: huy động vốn, đầu tư vốn, kinh doanh chứng khoán, kinh doanh ngân hàng quốc tế, làm dịch vụ cho khách hàng và các kinh doanh khác. Các hoạt động của NHTM có thể tóm tắt bằng sơ đồ sau:
Ngân Hàng
Thương Mại
Tiếp nhận (thu nhập) vốn (tiền gửi) của nhân dân
Nghiệp vụ tín dụng
Cấp và quản lí các phương tiện thanh toán
Từ các nghiệp vụ của mình mà các NHTM có vai trò huy động các nguồn lực, nguồn vốn trong nhân dân và phân phối một cách hợp lí vào các ngành, các lĩnh vực.
Ngân hàng Nhà Nước có chức năng là đại diện của chính phủ Việt Nam tại các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế, trong điều kiện hội nhập ngân hàng Nhà Nước có vai trò tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các tổ chức này. phát triển các mối quan hệ hợp tác song phương (như triển khai thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ). Chủ động thực hiện các công tác hội nhập quốc tế và khu vực trong các tổ chức kinh tế đa phương như Asean, Apec, WTO .v.v.
Trong tiến trình hội nhập của các doanh nghiệp, ngành ngân hàng giữ vai trò xúc tiến thương mại vĩ mô hỗ trợ doanh nghiệp hội nhập kinh tế quốc tế.Với tình trạng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp còn yếu kém ngành ngân hàng có nhiệm vụ thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cải thiện môi trường kinh doanh thúc đẩy tính cạnh tranh của doanh nghiệp. Ngân hàng Nhà Nước cần thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, ổn định sức mua của đồng tiền, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.Thực hiện phân tích dự báo kinh tế, cung cấp thông tin tư vấn có tính chất định hướng, dự báo về thị trường và sản phẩm cho doanh nghiệp.
Tóm lại, ngành ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước. Khi chủ động hội nhập kinh tế không thể không chú trọng các vấn đề của ngành ngân hàng.
I.3. Xu thế cạnh tranh giữa NHTM nước ngoài và NHTM Việt Nam
Hiện nay xu hướng toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn thế giới đã đặt ra những thách thức cho các NHTM trong nước không chỉ hướng các hoạt động của mình ra thị trường mà còn phải tự cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường Việt Nam.
Thứ nhất, về thị trường tín dụng, cạnh tranh về cho vay sẽ trở nên gay gắt khi các ngân hàng nước ngoài đã hiểu rõ thị trường Việt Nam và môi trường pháp lý đảm bảo cho họ xử lý rủi ro để thu hồi nợ trong trường hợp cần thiết.
Thứ hai, giao dịch thanh toán và chuyên tiền, là lĩnh vực ứu thế của ngân hàng nước ngoài cả về loại hình và chất lượng phục vụ.
Thứ ba, dịch vụ tư vấn, môi giới, phát triển doanh nghiệp, là lĩnh vực hoạt động thu hút sự quan tâm của khách hàng Việt Nam, đặc biệt là dịch vụ liên quan đến chiến lựơc hoạt động của doanh nghiệp.
Thứ tư, một số ngân hàng nước ngoài có thể mạnh về phát hành các công cụ huy động tiền gửi gắn liền với hệ thống ngân hàng bán lẻ tạo thành lợi thế cạnh tranh về vốn huy động. Cạnh tranh về huy động tiền gửi sẽ ngày càng gay gắt.
Ngoài ra trong quá trình đàm phán, các ngân hàng nước ngoài thường quan tâm và gây sức ép nhằm mở rộng mạng lưới hoạt động tại Việt Nam dưới mọi hình thức, nhất là ngân hàng bán lẻ và ngân hàng 100% vốn nước ngoài. Loại ngân hàng này cho phép họ thâm nhập sâu hơn vào thị trường nội địa, đặc biệt khi khả năng thôn tính, sát nhập các ngân hàng yếu kém để mở rộng thị phần.
Theo hiệp định thương mại Việt- Mỹ, các ngân hàng Hoa kỳ không bị hạn chế về hình thức hiện diện (bao gồm cả mua cổ phần của NHTM Nhà nước và mở rộng lắp đặt hệ thống ATM như NHTM Việt Nam), về số lượng cho từng loại hình, về địa giới hành chính, nên các ngân hàng Hoa kỳ có đIều kiện tốt nhất cho việc tăng cường sự có mặt tại Việt Nam. Vì thế, ngoài bốn lĩnh vực cạnh tranh nêu trên cạnh tranh gay gắt sẽ tập trung vào việc mở rộng đối tượng khách hàng là dân cư dưới hình thức hoạt động chủ yếu như tăng vốn VND thông qua huy động tiết kiệm dân cư và vốn nhàn rỗi tạm thời của các tổ chức phi kinh tế; mở rộng hoạt động mới, nhất là dịch vụ thu phí như thanh toán, chuyển tiền, tư vấn, lưu ký, môi giới, quản lý danh mục đầu tư của khách hàng.
II. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
II.1. Những cơ hội mở ra cho ngành ngân hàng trong quá trình hội nhập:
Việt Nam đang từng bước thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế với những bước đi thiết thực. Điển hình là hiệp định thương mại đã được ký kết giữa Việt Nam và Mỹ, đến năm 2010, các cam kết mở cửa dịch vụ ngân hàng phải được thực hiện, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam phải đáp ứng những yêu cầu cơ bản đã đặt ra. Cụ thể như sau:
Không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng.
Không hạn chế tổng giá trị các giao dịch về các dịch vụ ngân hàng.
Không hạn chế tổng các hoạt động tác nghiệp hay tổng số lượng nghiệp vụ ngân hàng.
Không hạn chế tổng số người được tuyển dụng của các tổ chức tài chính nước ngoài.
Không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài, dưới hình thức tỉ lệ phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngoài được nắm giữ.
Hệ thống ngân hàng Việt Nam bắt đầu mở rộng trên thị trường tài chính quốc tế.
Chỉ sau một thời gian không lâu nữa, hàng rào ngăn cách giữa các trung gian tài chính Việt Nam và Mỹ sẽ được xóa bỏ, các tổ chức tài chính Mỹ ở Việt Nam được đối xử bình đẳng như các tổ chức tài chính trong nước trong việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên thị trường Việt Nam. Sẽ có rất nhiều cơ hội và cả những thách thức đang chờ chúng ta. Đối với quốc gia, hội nhập quốc tế sẽ tạo dựng thế và lực cho Việt Nam trên thị trường quốc tế, mở ra nhiều cơ hội đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm cho người lao động .v.v.
Đối với ngành ngân hàng nói riêng, hội nhập sẽ mở ra những cơ hội sau:
Thứ nhất, hội nhập sẽ mở ra một thị trường quốc tế rộng lớn cho việc tìm kiếm khách hàng của các NHTM trong nước, đặc biệt là tại thị trường của các nước trong khu vực. Tại đó chúng ta sẽ có điều kiện để trao đổi, hợp tác với các ngân hàng của các nước bạn. Tận dụng, phát huy được những lợi thế của ta đồng thời có thể dựa và những lợi thế của bạn mà khắc phục những khó khăn của ta.
Thứ hai, là cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài: Cho phép các ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước được coi là nhằm cải thiện sự hiệu quả và ổn định của hệ thống ngân hàng. Điều này có được là do các ngân hàng nước ngoài tạo điều kiện cải thiện chất lượng, giá cả và cung ứng của các công cụ tài chính (trực tiếp là từ các nhà cung cấp dịch vụ này và gián tiếp là thông qua cạnh tranh). Những công cụ tài chính mới này sẽ tạo ra cơ hội tốt hơn cho đa dạng hóa danh mục đầu tư và cho hoạt động thương mại quốc tế trong điều kiện toàn cầu hóa.
Thứ ba, là có điều kiện nâng cao năng lực cạnh tranh: Tự do hóa sẽ là một động lực buộc các ngân hàng trong nước phải tìm mọi cách nâng cao năng lực cạnh tranh của mình để tồn tại. Đồng thời cũng mở ra cơ hội tiếp cận với những công nghệ ngân hàng hiện đại trên thế giới. Không những thế, còn có thể học hỏi cách thức tổ chức, điều hành, quản lí của các ngân hàng nước ngoài.
Thứ 4, là về môi trường pháp lí: Cùng với hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ, Thủ Tướng Chính Phủ ban hành 2 Quyết định 35/2002/QĐ-TTg và 37/2002/QĐ-TTg, Nghị quyết 07/NQ-TW ngày 27/11/2001, yêu cầu các Bộ, ngành tiến hành rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế chính sách kinh tế thương mại cho phù hợp với các cam kết đã kí. Riêng ngành ngân hàng, sau khi rà soát và đối chiếu giữa các cam kết đã kí với các quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng cho thấy khoảng vài chục nội dung lớn và quan trọng cần phải bổ sung, sửa đổi đối với 2 luật ngân hàng (Luật NHNN và luật các TCTD). Đây là cơ hội vì: Việc tiến hành rà soát, xây dựng, sửa đổi, bổ sung pháp luật, cơ chế chính sách lần này không những chỉ riêng cho ngành ngân hàng mà đã được chính phủ thống nhất quán triệt cho tất cả các Bộ, ngành. Hướng điều chỉnh đã có những địa chỉ cụ thể để tham chiếu.
Thứ 5, là về tài chính: Hội nhập mở ra cơ hội tăng khả năng tiếp cận nguồn lực tài chính quốc tế của nền kinh tế. Theo các nhà nghiên cứu trên thế giới thì sự tham gia của ngân hàng nước ngoài có thể làm cho hệ thống ngân hàng lành mạnh hơn và góp phần làm giảm các cú sốc từ bên ngoài (tác động khủng hoảng). Hơn nữa, tham gia thị trường ngân hàng quốc tế rộng rãi hơn sẽ tạo điều kiện cho một quốc gia tăng cường khả năng truy cập vào vào thị trường tài chính quốc tế hơn là một nền kinh tế với các ngân hàng thuần khiết. Hội nhập còn cải thiện sự ổn định của hệ thống tài chính trong nước. Các chi nhánh và các ngân hàng con của nước ngoài có thể gọi thêm sự trợ giúp vốn khi cần của các ngân hàng mẹ nếu có bất ổn. Mặt khác, ngân hàng mẹ lại có thể cung cấp những khoản tiền vốn để đa dạng hóa danh mục vốn của họ. Vì vậy thị trường tài chính trong nước sẽ được đảm bảo ổn định hơn. Ngoài ra, ngân hàng nước ngoài tham gia vào thị trường trong nước sẽ cung cấp nhiều sản phẩm mới, điều này dẫn đến đòi hỏi phải nâng cấp đội ngũ thanh tra ngân hàng.
Tất nhiên, bên cạnh những cơ hội mở ra, trong quá trình hội nhập, cá NHTM chắc chắn sẽ vấp phải nhiều vấn đề như: Sự tham gia của các ngân hàng lớn trên thế giới lại có thể là mối đe dọa tính ổn định của thị trường trong nước, hội nhập đòi hỏi rất gay gắt về vốn với các NHTM .v.v. Nhưng quan trọng nhất vẫn là thách thức đối với khả năng cạnh tranh của các NHTM. Vì vậy để chuẩn bị cho hội nhập, cần phải giải quyết tốt vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh của NHTM.
II.2. Những thách thức đối với NHTM việt nam
II.2.1. Những thách thức đối với khách hàng của ngân hàng
Theo lộ trình thực hiện cam kết Hiệp định ưu đãi về thuế quan có hiệu lực chung (CEPT/AFTA), vào năm 2003, Việt Nam phải giảm thuế nhập khẩu, phổ biến còn 0-5% và đến 2006 là 0%,Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã dần có hiệu lực ỏ một số ngành và lĩnh vực, thách thức sẽ trở nên nặng nề hơn đối với các doanh nghiệp Việt Nam mà họ là các khách hàng lớn của ngân hàng. Đặc biệt các tổng công ty 91 đang là các khách hàng vay nợ lớn của các NHTM Việt Nam chủ yếu là các NHTM Nhà nước.
Những cam kết về cắt giảm thuế quan và xoá bỏ chính sách bảo hộ của Nhà nước sẽ góp phần thúc đẩy cạnh tranh giữa các đối thủ trên thị trường Việt Nam. Thực tế, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh nhiên liệu, phân bón, sắt thép, xi măng, đường, giấy, sản xuất hàng thay thế nhập khẩu…chịu điều chỉnh của cam kết trên là những khách hàng quan trọng của các NHTM Việt Nam phải gánh chịu rủi ro, có nguy cơ gia tăng nợ quá hạn, và khả năng cạnh tranh quốc tế bị suy yếu. Trong khi đó hầu hết các NHTM Việt Nam hiện đang đầu tư rất nhiều vào ngành chế biến nông phẩm và công nghiệp nặng dựa vào tài nguyên (xi măng, sắt, thép, giấy, đường, phân bón) là những ngành mà đối với Việt Nam không có nhiều lợi thế cạnh tranh và đang được Nhà nước bảo hộ bằng thuế quan.
Khi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế sẽ đặt ngân hàng và doanh nghiệp trước những thách thức lớn. Năm 2003 tổ chức WEF đã nghiên cứu năng lực cạnh tranh của 80 nước và Việt Nam được đánh giá có năng lực cạnh tranh là 60/80. Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được những yêu cầu khắc nghiệt của thị trường quốc tế do hơn nữa khi các doanh nghiệp nước ngoài tung sản phẩm vào thị trường trong nước với lợi thế về giá cả và chất lượng thì nguy cơ đánh mất thị trường trong nước dẫn đến thua lỗ và phá sản là rất cao, và người phải gánh chịu gián tiếp của hội nhập trong trường hợp này là các NHTM Việt Nam. Các NHTM nước ngoài cũng có thể chịu những nguy cơ này nhưng với khả năng thấp hơn bởi vì họ luôn tìm miếng ngon trên thị trường này để cung cấp các dịch vụ của họ.
Những bài học về xuất khẩu gạo, cà phê, hải sản và vụ kiện bán phá giá cá basa Việt Nam ở Mỹ, vụ kiện bán phá giá giầy dép Việt Nam ở Canada, vụ kiện tôm có kháng sinh cao trong tôm xuất khẩu vào EU là những thách thức đầu tiên, nó cũng cho thấy hệ thống pháp luật chính sách, cơ chế quản lý, và điều hành của Việt Nam còn nhiều điểm chưa đồng bộ và chưa phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, trong quá trình hội nhập quốc tế, các NHTM Việt Nam gặp một số khó khăn về mặt pháp lý, hệ thống pháp luật trong nước, thể chế thị trường chưa đầy đủ, chưa đồng bộ, nhất quán.
II.2.2. Thách thức trực tiếp đối với ngân hàng.
Thứ nhất, việc phải loại bỏ dần các hạn chế đối với các ngân hàng nước ngoài có nghĩa là các ngân hàng nước ngoài sẽ từng bước tham gia vào mọi lĩnh vực hoạt động ngân hàng tại Việt Nam. Công nghệ hiện đại và trình độ quản lý tiên tiến cũng như nguồn tài chính dồi dào của các ngân hàng nước ngoài sẽ là những ưu thế cơ bản tạo ra những sức ép cạnh tranh trong ngành ngân hàng và buộc các ngân hàng Việt Nam phải tăng thêm vốn và đầu tư kỹ thuật, cải tiến phương thức quản trị và hiện đại hóa hệ thống thanh toán để nâng cao hiệu quả hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Thứ hai, khả năng tài chính, trình độ quản lý và trình độ công nghệ của NHTM Việt Nam còn thấp, các dịch vụ ngân hàng chưa phong phú, tiện lợi, hấp dẫn...nên trong giai đoạn đầu tiên, thách thức về cạnh tranh đối với ngân hàng Việt Nam là đáng kể, đặc biệt đối với các ngân hàng có những phạm vi hoạt động kinh doanh trùng với lĩnh vực hoạt động có ưu thế của ngân hàng nước ngoài như thanh toán quốc tế, tài trợ thương mại, đầu tư dự án và các khách hàng trọng tâm của ngân hàng nước ngoài như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp xuất khẩu lớn.
Thứ ba, một số loại hình nghiệp vụ ngân hàng mới chưa được thực hiện tại Việt Nam hoặc chưa có quy định điều chỉnh, nhưng đã có cam kết tại Hiệp định thương mại Việt- Mỹ cho phép các ngân hàng nước ngoài được thực hiện, sẽ buộc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam phải khẩn trương nghiên cứu sớm ban hành các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các nghiệp vụ mới. Đây là những lĩnh vực của ngân hàng nước ngoài có ưu thế hơn hẳn các ngân hàng Việt Nam. Trong trường hợp các ngân hàng Hoa kỳ được phép hoạt động kinh doanh chứng khoán, quản lý các quỹ đầu tư, hoặc tham gia vào việc thanh toán bù trừ các tài sản tài chính, họ cũng sẽ có hoạt động rộng hơn và có những ưu thế rõ rệt so với các ngân hàng trong nước trong việc đa dạng hóa hoạt động của mình. Đồng thời việc quản lý nhà nước đối với hoạt động của ngân hàng Hoa kỳ sẽ phức tạp hơn, đòi hỏi có sự phối hợp quản lý của nhiều cơ quan chức năng chứ không chỉ Ngân hàng Nhà nước.
Thứ tư, thách thức không nhỏ đối với các NHTM Việt Nam là vai trò của nhóm ngân hàng nước ngoài ngày càng tăng nhờ sức mạnh về vốn, công nghệ, quy mô hoạt động toàn cầu và dịch vụ đa dạng. Trong quá trình hội nhập, lợi thế tiềm năng sẽ phụ thuộc vào nhóm ngân hàng nước ngoài và sức ép cạnh tranh ngày càng lớn đối với các NHTM trong nước.
Thứ năm, trong quá trình hội nhập, hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng chịu tác động mạnh của thị trường tài chính thế giới, nhất là tỷ giá, lãi suất, dự trữ ngoại tệ, trong khi phải thực hiện đồngthời nhiều nghĩa vụ và cam kết quốc tế.
Thứ sáu, hội nhập quốc tế làm tăng các giao dịch vốn và rủi ro của hệ thống ngân hàng, trong khi cơ chế quản lý và hệ thống giám sát ngân hàng còn rất sơ khai, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế, chưa có hiệu quả và hiệu lực để đảm bảo việc tuân thủ nghiêm pháp luật về ngân hàng và sự an toàn của hệ thống ngân hàng, nhất là trong việc ngăn chặn và cảnh báo sớm các rủi ro hoạt động ngân hàng.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
THỰC TRẠNG VỀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM.
Tính đến cuối tháng 9/2003, hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) ở nước ta (bao gồm các NHTM và các TCTD khác) có 5 NHTM thuộc sở hữu nhà nước là những NHTM lớn ở nước ta và trong khu vực; có 3