Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại đặt ra yêu cầu đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Sự hội nhập cho phép Việt Nam thu hút được vốn, nắm bắt được công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển công nghiệp hiện đại trong ngày nay. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm xuất khẩu quá thấp là một trong năm thách thức lớn nhất.
Hội nhập AFTA đã đến, hội nhập WTO đang đến gần. Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần xây dựng những chiến lược đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng hoá. Một trong những bước đi quan trọng của tiến trình này là nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu để tìm chỗ đứng vững trên thị trường thế giới. Đứng trước đòi hỏi thực tế này, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam”. Trong phạm vi đề án môn học, tôi đi vào nghiên cứu thực tế tình hình xuất khẩu của hàng Việt nam nói chung, trong đó mấu chốt vẫn đề là năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp mang tính vĩ mô của nhà nước nhằm quản lý, định hướng và hỗ trợ các doanh nghiệp. Nhằm vào mục tiêu là phát huy những lợi thế so sánh và năng lực cạnh canh của hàng Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Trong quá trình thực hiện, cùng với việc nghiên cứu các phương pháp luận về thương mại quốc tế và thu thập thông tin về lĩnh vực xuất khẩu, nhằm đáp ứng tính xác thực và khả thi của đề tài, tôi thực hiện điều tra chọn mẫu với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng hoá và các phòng thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
Kết cấu đề án bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về xuất khẩu và năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu
Phần II: Tình hình xuất khẩu và năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam
Phần III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam
Một đề tài sẽ không thể bao quát được hết mọi vẫn đề và sẽ không bao giờ là hoàn hảo. Vậy nên, rất mong được sự chỉ dẫn của các thầy cô cùng những ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên để đề tài của tôi được hoàn thiện và mang tính khoa học hơn nữa.
Trong quá trình thực hiện, nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS. Trương Đoàn Thể đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
54 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Sự gia tăng mạnh mẽ của toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại đặt ra yêu cầu đòi hỏi các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu vực. Sự hội nhập cho phép Việt Nam thu hút được vốn, nắm bắt được công nghệ kỹ thuật và quản lý tiên tiến, từng bước tạo một đội ngũ công nhân có trình độ phù hợp cho việc phát triển công nghiệp hiện đại trong ngày nay. Tuy nhiên, Việt Nam cũng phải đối mặt với nhiều thách thức, trong đó sức cạnh tranh, đặc biệt là của các sản phẩm xuất khẩu quá thấp là một trong năm thách thức lớn nhất.
Hội nhập AFTA đã đến, hội nhập WTO đang đến gần. Hơn bao giờ hết, Việt Nam cần xây dựng những chiến lược đẩy mạnh phát triển xuất khẩu hàng hoá. Một trong những bước đi quan trọng của tiến trình này là nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu để tìm chỗ đứng vững trên thị trường thế giới. Đứng trước đòi hỏi thực tế này, tôi quyết định lựa chọn đề tài: “Nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam”. Trong phạm vi đề án môn học, tôi đi vào nghiên cứu thực tế tình hình xuất khẩu của hàng Việt nam nói chung, trong đó mấu chốt vẫn đề là năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp mang tính vĩ mô của nhà nước nhằm quản lý, định hướng và hỗ trợ các doanh nghiệp. Nhằm vào mục tiêu là phát huy những lợi thế so sánh và năng lực cạnh canh của hàng Việt Nam trên thương trường quốc tế.
Trong quá trình thực hiện, cùng với việc nghiên cứu các phương pháp luận về thương mại quốc tế và thu thập thông tin về lĩnh vực xuất khẩu, nhằm đáp ứng tính xác thực và khả thi của đề tài, tôi thực hiện điều tra chọn mẫu với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu hàng hoá và các phòng thương vụ Việt Nam ở nước ngoài.
Kết cấu đề án bao gồm 3 phần:
Phần I: Lý luận chung về xuất khẩu và năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu
Phần II: Tình hình xuất khẩu và năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam
Phần III: Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh hàng xuất khẩu Việt Nam
Một đề tài sẽ không thể bao quát được hết mọi vẫn đề và sẽ không bao giờ là hoàn hảo. Vậy nên, rất mong được sự chỉ dẫn của các thầy cô cùng những ý kiến đóng góp của các bạn sinh viên để đề tài của tôi được hoàn thiện và mang tính khoa học hơn nữa.
Trong quá trình thực hiện, nhờ sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của TS. Trương Đoàn Thể đã tạo điều kiện cho tôi hoàn thành đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
PHẦN I: LÝ LUẬN XUẤT KHẨU VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH HÀNG XUẤT KHẨU
I. Các lý thuyết thương mại quốc tế
1. Các học thuyết thương mại quốc tế
Các lý thuyết thương mại quốc tế sẽ là bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, là cơ sở khoa học cho việc lựa chọn chính sách và giải pháp phát triển hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam. Do vậy, cần thiết phải điểm lại các học thuyết này thông qua sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Quá trình ra đời các lý thuyết thương mại quốc tế
Chủ nghĩa trọng thương (khoảng 1500 - 1800)
Mục đích làm cho quốc gia giầu mạnh hơn. Hình thức quan trọng của của cải là kim loại quý hoặc giấy bạc; buôn bán quốc tế là hình thức được ưa chuộng hơn so với những ngành công nghiệp khác và được coi là hình thức làm giầu cho đất nước.
Lý thuyết về lợi thế tuyệt đối – Adam Smith (1776)
Mỗi một đất nước cần chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu hàng hoá mà nước đó sản xuất có hiệu quả nhất, tức là tiêu tốn ít giờ công lao động nhất.
Lý thuyết lợi thế so sánh David Ricardo (1817)
Một số nước có thể sản xuất hiệu quả hai sản phẩm, nhưng nước đó cần tập trung vào sản xuất một loại sản phẩm có hiệu quả hơn. Nước đó nên chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu sản phẩm mình có lợi thế đó, đồng thời nhập khẩu sản phẩm kém lợi thế.
Lợi thế cạnh tranh của các quốc gia Michael Porter (1990)
Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào khả năng công nghiệp tự đổi mới và nâng cao. Các công ty phải đạt tới lợi thế cạnh tranh bởi áp lực và sự thử thách. Công ty sẽ học hỏi được nhiều từ các đối thủ cạnh tranh, nhà cung ứng năng động và khách hàng đòi hỏi của mình
Lý thuyết về hàm lượng của các nhân tố đầu vào
Eli Heckscher và Bertil Ohlin (1949 - 1977)
Một nước có lao động tương đối sẵn có (vốn sẵn có) nên chuyên môn hoá sản xuất sản phẩm cần có lao động sẵn có (vốn sẵn có) để xuất khẩu cho nước khác.
Nghịch lý Leontief
Wassily Leontief (1950)
Lý thuyết vòng đời sản phẩm Raymond Vernon (1966)
Lý thuyết thị trường không hoàn hảo và thương mại – Paul Krugman (1985)
Lý thuyết về sự trùng lặp các dòng sản phẩm Staffan Burenstam Linder (1961)
Nguồn: Thương mại quốc tế và phát triển thị trường xuất khẩu
2. Việt Nam trong phân công lao động quốc tế
Việc lựa chọn chiến lược thương mại quốc tế của Việt Nam phải xuất phát từ điều kiện môi trường quốc tế hiện tại và những điều kiện thuận lợi vốn có của Việt Nam để tham gia vào sự phân công lao động quốc tế một cách đúng đắn.
Lợi thế so sánh của Việt Nam
Tài nguyên tự nhiên
Lao động
Vị trí địa lý
Đất đai và thời tiết
Thị trường rộng
Lợi thế so sánh của các nước khác
Công nghệ
Vốn
Kỹ năng quản lý
Kỹ năng marketing
Chi phí vận tải thấp
Hàng xuất khẩu của Việt Nam
Sản phẩm thô và sơ chế
Sản phẩm nông nghiệp
Sản phẩm chế biến sử dụng nhiều lao động, công nghệ trung bình, ít vốn.
Sản phẩm xuất khẩu của các nước vào Việt Nam
Tư liệu sản xuất: nguyên vật liệu, máy móc thiết bị
Công nghệ
Sản phẩm tiêu dùng chất lượng cao
Sơ đồ 2: Phân công lao động liên ngành giữa Việt Nam và các quốc gia khác (thương mại quốc tế giữa Việt Nam và các nước trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá)
Tuy nhiên, Việt Nam cần phải nhanh chóng chuyển từ sản xuất và xuất khẩu sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế sang sản phẩm chế biến. Thể hiện ở các mặt: Một là, chuyển nhu cầu cuối cùng khỏi việc tiêu dùng các sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm sơ chế cùng với sự tăng lên về thu nhập. Hai là, chuyển lợi thế so sánh từ sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thô, sản phẩm nông nghiệp và sản phẩm sơ chế, sản phẩm chế biến sử dụng nhiều lao động sang sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm chiếm được lợi thế về kỹ thuật sản xuất và kỹ thuật sản phẩm. Ba là, chuyển từ dư cầu sang dư cung trên rất nhiều loại sản phẩm, kể cả sản phẩm xuất khẩu. Bốn là, chuyển từ sử dụng nhiều lao động không qua đào tạo sang chỗ hoạt động sản xuất đòi hỏi lao động có kỹ năng và trình độ cao hơn, tất yếu lao động phải chuyển dịch từ những ngành có năng suất thấp sang những ngành có năng suất cao hơn.
II. Tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu trong nền kinh tế quốc dân
1. Khái niệm về xuất khẩu (Export)
Xuất khẩu là việc bán hàng hoá hoặc dịch vụ cho nước ngoài trên cơ sở dùng tiền tệ làm phương tiện thanh toán. Cơ sở của hoạt động xuất khẩu là hoạt động mua bán trao đổi hàng hoá (bao gồm cả hàng hoá hữu hình và vô hình) trong nước. Khi sản xuất phát triển và trao đổi hàng hoá giữa các quốc gia có lợi, hoạt động này mở rộng phạm vi ra ngoài biên giới của quốc gia hoặc thị trường nội địa và khu chế xuất ở trong nước. Hàng hoá xuất khẩu rất đa dạng như hàng công nghiệp, hàng nông nghiệp, hàng tiêu dùng…, kiến thức khoa học kỹ thuật (phát minh sáng chế, bí mật sản xuất), các dịch vụ (tư vấn kỹ thuật, sửa chữa, dịch vụ vận tải, giao nhận, bảo hiểm, ngân hàng, dịch vụ du lịch, thông tin quảng cáo).
Xuất khẩu là một hoạt động cơ bản của hoạt động ngoại thương, nó đã xuất hiện từ lâu đời và ngày càng phát triển. Từ hình thức cơ bản đầu tiên là trao đổi hàng hoá giữa các nước, cho đến nay nó đã rất phát triển và thể hiện thông qua nhiều hình thức. Hoạt động xuất khẩu ngày nay diễn ra trên phạm vi toàn cầu, trong tất cả các ngành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
2. Vị trí của xuất khẩu
Trong nền kinh tế quốc dân, xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh buôn bán trên phạm vi quốc tế. Đây không phải là một hành vi mua bán riêng lẻ mà là hệ thống các quan hệ mua bán phức tạp có tổ chức cả bên trong và bên ngoài. Hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu có một vị trí và vai trò vô cùng to lớn trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi một quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Thông qua xuất khẩu có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân. Đối với những nước có trình độ kinh tế còn thấp như nước ta, những nhân tố tiềm năng là tài nguyên thiên nhiên và lao động, còn những nhân tố thiếu hụt như là vốn, thị trường và khả năng quản lý… Chiến lược hướng về xuất khẩu thực chất là giải pháp mở cửa nền kinh tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp với tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần rút ngắn khoảng cách với nước giầu.
3. Vai trò của xuất khẩu
Một là, xuất khẩu là một hoạt động tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu và tích luỹ phát triển sản xuất, phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Công nghiệp hoá đất nước đòi hỏi phải có số vốn rất lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, vật tư và công nghệ tiên tiến. Để nhập khẩu, thường dựa vào các nguồn vốn chủ yếu là: đi vay, viện trợ, đầu tư nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc vào nước ngoài. Vì vậy, nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu chính là xuất khẩu. Thực tế là nước nào gia tăng được xuất khẩu thì nhập khẩu cũng tăng theo, ngược lại, nếu nhập khẩu lớn hơn xuất khẩu làm cho cán cân ngoại thương thâm hụt quá lớn có thể ảnh hưởng xấu tới nền kinh tế quốc dân.
Hai là, xuất khẩu còn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất phát từ nhu cầu thị trường thế giới để tổ chức sản xuất và xuất khẩu những sản phẩm mà các nước khác cần. Điều đó có tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Xuất khẩu cũng tạo điều kiện cho các ngành liên quan có cơ hội phát triển thuận lợi, mở rộng thị trường tiêu thụ, cung cấp đầu vào cho sản xuất, khai thác tối đa sản xuất trong nước. Xuất khẩu tạo ra những tiền đề kinh tế – kỹ thuật nhằm đổi mới thường xuyên năng lực sản xuất trong nước, hay nói theo cách khác, xuất khẩu là cơ sở tạo thêm vốn và kỹ thuật, công nghệ tiên tiến từ thế giới bên ngoài vào nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, tổ chức lại sản xuất cho phù hợp với nhu cầu thị trường thế giới.
Ba là, xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống nhân dân. Để đẩy mạnh xuất khẩu thì tất yếu phải đẩy mạnh sản xuất các loại hàng hoá xuất khẩu và do đó dã thu hút hàng triệu lao động và tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu vật phẩm tiêu dùng thiết yếu phục vụ đời sống nhân dân.
Bốn là, xuất khẩu có vai trò tích cực đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản xuất. Hoạt động xuất khẩu là hoạt động kinh doanh trên phạm vi thị trường thế giới, là nơi diễn ra cạnh tranh ngày càng ác liệt. Sự tồn tại và phát triển hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng và giá cả. Điều này thúc đẩy các doanh nghiệp sản xuất trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn cải tiến thiết bị, máy móc nhằm nâng cao chất lượng sản xuất, đồng thời đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao tay nghề, trình độ của người lao động.
Năm là, xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta, làm cho nền kinh tế nước ta gắn chặt với phân công lao động quốc tế. Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên trường quốc tế…, xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng, đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế… Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối ngoại mà chúng ta kể trên lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
4. Nhiệm vụ của xuất khẩu
- Phải tiếp tục mở rộng thị trường, nguồn hàng và đối tác kinh doanh xuất khẩu, coi xuất khẩu là mũi nhọn đột phá sự giầu có của quốc gia.
- Khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước như: đất đai, nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất, kỹ thuật… theo hướng khai thác lợi thế tuyệt đối, so sánh.
- Nâng cao năng lực sản xuất hàng xuất khẩu để tăng nhanh khối lượng và kim ngạch xuất khẩu.
- Từng bước củng cố vững chắc các mặt hàng chủ lực trên các thị trường chiến lược.
Tóm lại, với những lý do trên buộc Việt Nam phải tăng cường đẩy mạnh xuất khẩu vì mục tiêu phát triển bền vững lâu dài của đất nước. Dưới đây thể hiện tầm quan trọng của việc thúc đẩy xuất khẩu qua mô hình:
Thay đổi lợi thế so sánh từ lợi thế so sánh tự nhiên đến lợi thế so sánh đạt được
Thay đổi phân công lao động từ nhấn mạnh phân công lao động liên ngành sang nhấn mạnh phân công lao động nội bộ ngành
Thay đổi công nghệ từ công nghệ thấp đến công nghệ trung bình có những yếu tố của công nghệ cao và đến công nghệ cao đặc biệt là trong công nghệ chế biến
Tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam
Thay đổi cơ cấu sản phẩm xuất khẩu. Sản phẩm thô và sản phẩm nông nghiệp
Sản phẩm chế biến sử dụng nhiều lao động kỹ năng thấp, công nghệ thấp, ít vốn.
Sản phẩm chế biến sử dụng lao động bán kỹ năng, công nghệ trung bình xen yếu tố công nghệ cao, đòi hỏi mức vốn cao hơn
Sản phẩm chế biến đòi hỏi nhiều vốn, lao động có kỹ năng cao, công nghệ cao
Sơ đồ 3: Mô hình thương mại quốc tế Việt Nam như một nhân tố của quá trình tăng trường trong công nghiệp hoá
III. Những cơ sở đảm bảo cho việc xuất khẩu
Bước sang thập kỉ 90, sau một thời gian dài đặc biệt khó khăn trong sản xuất kinh doanh do sự biến động của Liên Xô và các nước Đông Âu, xuất khẩu của Việt Nam đã bắt đầu vào giai đoạn phát triển mới. Chúng ta đã có một số tiền đề vững chắc để đảm bảo cho việc xuất khẩu, nhất là trong giai đoạn hiện nay, đó là:
Nghị quyết Đại hội Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam từ ngày 19 đến ngày 21 tháng 4 năm 2001 đã tiếp tục khẳng định con đường đúng đắn cho nền kinh tế Việt Nam ở những thập niên đầu tiên của thế kỷ 21. Để tăng nhanh tốc độ xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, Đảng ta chủ trương: tiếp tục mở cửa nền kinh tế, thực hiện đa dạng hoá thị trường, đa phương hoá mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới… nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ… bảo đảm cán cân thương mại hợp lý, tiến tới cân bằng kim ngạch xuất – nhập khẩu.
Chính phủ đổi mới cơ bản cơ chế quản lý theo hướng mở rộng quyền kinh doanh xuất nhập khẩu, giảm dần hàng rào phi thuế quan, hạn chế cơ chế “xin cho”, giảm bớt sự can thiệp của Nhà nước vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nâng cao vai trò của các công cụ vĩ mô như thuế, lãi xuất, tỷ giá. Đánh giá đúng vai trò của xuất khẩu, xuất khẩu được đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, dành sự quan tâm đặc biệt tới xuất khẩu thông qua các chương trình hỗ trợ như trợ cấp, trợ giá, lập quĩ hỗ trợ, quĩ thưởng… Lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như của toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất khẩu, hội nhập quốc tế. Kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất – nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Nước ta đang ra sức phát triển kinh tế, tiến hành công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, chuyển dich cơ cấu kinh tế sang nền kinh tế hướng ngoại, cần một lượng vốn rất lớn… cho nên phải ra sức thúc đẩy xuất khẩu phát triển để đáp ứng nhu cầu thực tế đòi hỏi trong tiến trình hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong kinh doanh xuất nhập khẩu. Điều này cũng góp phần vào việc thúc đẩy xuất khẩu phát triển.
Thế và lực của ta đã khác trước, các chỉ tiêu kinh tế đặt ra trong thời kỳ mở cửa ta đã đạt được một cách tốt đẹp. Các nguồn lực như lao động, đất đai, tài nguyên… còn khá dồi dào, cơ sở hạ tầng đã được cải thiện hơn, đường lối đúng đắn của Đảng và Chính phủ đã tạo mọi cơ hội cho các doanh nghiệp phát triển một cách thuận lợi, bản thân nội lực các doanh nghiệp đã được nâng lên một cách đáng kể sau 10 năm thực hiện chính sách mở cửa để hội nhập… tất cả điều này đã tạo ra lợi thế so sánh để đẩy mạnh xuất khẩu của Việt Nam.
Xu thế toàn cầu hoá diễn ra mạnh mẽ, Việt Nam đã tham gia nhiều tổ chức kinh tế khu vực và thế giới như APEC, ASEAN, ASEM, và là quan sát viên của WTO.
Như vậy mặc dù trước mắt còn rất nhiều khó khăn và thử thách nhưng với những gì đã đạt được, chúng ta có thể tin tưởng rằng xuất khẩu sẽ đáp ứng được những yêu cầu đặt ra trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta để xứng đáng với tầm quan trọng của mình trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
IV. Phân tích những tác động thuận lợi, khó khăn và cơ hội, thách thức đối với xuất khẩu Việt Nam
Trong hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng luôn luôn chứa đựng những thuận lợi và thách thức, những cơ hội và nguy cơ đan xen vào nhau.
1. Thuận lợi và khó khăn
1.1 Tác động thuận lợi
Nền kinh tế nước ta đang dần dần đi lên ngày một vững vàng. Sự ổn định kinh tế chính trị trong nước tạo tiền đề cho đất nước ta tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Công cuộc đổi mới đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, cơ cấu sản xuất chuyển dịch dần, từ đó thúc đẩy xuất khẩu và cải thiện cơ cấu xuất – nhập khẩu. Xuất khẩu được đặt thành một nhiệm vụ trọng tâm, sản xuất gắn liền với lưu thông, xuất khẩu. Môi trường pháp luật từng bước được cải thiện nhằm đáp ứng được những yêu cầu của thực tiễn. Các cơ chế chính sách ngày càng phù hợp, thông thoáng, tạo thuận lợi cho các ngành sản xuất, các địa phương và các thành phần kinh tế tham gia xuất nhập khẩu.
Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá từng bước hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới đã có những tác động tích cực như: Tránh được tình trạng bị phân biệt đối xử, tạo dựng được thế và lực trong thương mại quốc tế, tranh thủ lợi thế của tập thể để nâng cao vai trò và sức cạnh tranh của mình; Được hưởng những ưu đãi thương mại, mở rộng thị trường, hỗ trợ lẫn nhau phát triển sản xuất; Tăng thu hút đầu tư và sự chuyển giao kỹ thuật, công nghệ cao từ các nước; Cho phép khai thác lợi thế tập thể của các khối kinh tế, tạo dựng thế và lực; Tạo cơ hội để các nhà sản xuất kinh doanh Việt Nam mở rộng quan hệ, học tập phong cách quản lý, tiếp thu khoa học kỹ thuật mới của quốc tế, dám đương đầu với cạnh tranh, hình thành phong cách làm ăn mới, lấy chất lượng và hiệu quả làm động lực để vươn lên.
Nguồn nhân lực của Việt Nam dồi dào, năng động, cần cù, ham học hỏi là một trong những lợi thế so sánh. Bên cạnh đó nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng tương đối phong phú.
1.2 Tác động không thuận lợi
Nước ta tuy đang có những bước tiến đáng kể nhưng vẫn còn là một nước đang phát triển, lực lượng sản xuất vẫn còn yếu kém, cơ sở hạ tầng còn nhiều bất cập, công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Tất cả những điều này tác động không nhỏ tới việc xuất khẩu của ta. Quy mô xuất khẩu còn quá nhỏ so với các nước trong khu vực.
Việc chuyển dịch cơ cấu sản xuất còn chưa bám sát tín hiệu thị trường thế giới nên nhiều sản phẩm làm ra không tiêu thụ được. Sự hiểu biết về thị trường nước ngoài còn hạn chế, việc hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới còn không ít lúng túng.
Công tác quản lý Nhà nước về thương mại tuy đã có nhiều sự cải tiến nhưng nhìn chung còn khá thụ động, thiếu hiệu quả. Hệ thống chính sách của Việt Nam còn nhiều bất cập. Sự phối hợp giữa các Bộ, Ngành, địa phương đã có chuyển biến tích cực nhưng nhìn chung chưa tạo được sức mạnh tổng hợp.
Sức cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ và đội ngũ các nhà doanh nghiệp Việt Nam còn yếu kém.
Cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. Năng lực cán bộ còn nhiều hạn chế.
2. Những cơ hội và thách thức
2.1 Thời cơ
Cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chó