Đề tài Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay

Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có biết bao người đã hiến dâng tính mạng, xương máu, sức lực, trí tuệ và tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn to lớn của những người anh dũng ấy. Bởi vậy, ngay sau khi giành được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/2/1947 về “ưu đãi người có công”. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ¬ương khóa VIII trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ “Thực hiện chính sách ¬ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sỹ, gia đình chính sách”. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và dựa trên sự phát triển nền kinh tế xã hội, chính sách ¬ưu đãi người có công của Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới mục tiêu ghi nhận công lao, sự đóng góp, sự hy sinh cao cả của những người có công, tạo mọi điều kiện, khả năng đền đáp, bù đắp phần nào về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần đối với người có công. Đến nay, đã có nhiều văn bản đã được ban hành, từng bước đáp ứng chế độ ưu đãi đối với người có công trong lịch sử đất nước. Hiện nay, một mặt hệ thống các văn bản pháp luật đối với người có công vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập; mặt khác là trong quá trình thực hiện pháp lụât đưa pháp luật vào đời sống xã hội còn nhiều hạn chế bởi nhiều nguyên nhân. Vì vậy, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi với người có công đầy đủ hoàn thiện, phù hợp với sự pháp triển của đất nước, đồng thời phải nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực thực hiện pháp luật, giúp công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này được tốt hơn. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài “Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta trong hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu. Đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đề ra những giải pháp cho việc nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi với người có công.

doc93 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2312 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA VÀ ĐÀO TẠO PHẠM HẢI HƯNG NÂNG CAO NĂNG LỰC CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC TRONG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI NGƯỜI CÓ CÔNG VỚI CÁCH MẠNG Ở NƯỚC TA HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH CÔNG HÀ NỘI - 2007 Nội dung  Trang   Mở đầu  5   Chương 1. Một số cơ sở lý luận về nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi  9   1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu  9   1.2. Các cơ quan hành chính Nhà nước trong việc thực hiện pháp luật ưu đãi  19   1.3. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công.  21   1.4. Kinh nghiệm quốc tế về giải quyết vấn đề ưu đãi người có công với cách mạng.  23   Chương 2. Thực trạng năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công  26   2.1. Khái quát quá trình ban hành và tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng từ năm 1945 tới nay  26   2.2. Khái quát về pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay  31   2.3. Thực trạng năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng  45   2.4. Một số vấn đề rút ra từ phân tích thực trạng  69   Chương 3. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng hiện nay  70   3.1. Những định hướng chung  70   3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng của cơ quan hành chính Nhà nước  73   Kết luận chung  84   Tài liệu tham khảo  86   LỜI CẢM ƠN Với tình cảm chân thành, tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới: - Hội đồng khoa học thuộc Học viện Hành chính Quốc gia; - Các thầy, cô giáo, các Giáo sư, Tiến sĩ đã tham gia giảng dạy và giúp đỡ trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu Luận văn; - Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Kiên Cường – Khoa Quản lý nhà nước về xã hội – Học viện Hành chính Quốc gia, người hướng dẫn khoa học tận tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu để hoàn thành Luận văn này; - Lãnh đạo, cán bộ, chuyên viên Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội, các Sở, Ban, ngành đã nhiệt tình cung cấp số liệu, tài liệu tạo mọi điều kiên thuận lợi cho tôi trong suốt quá trình nghiên cứu của Luận văn; - Những người thân trong gia đình và đồng nghiệp đã động viên, chia sẻ, khích lệ, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, công tác, nghiên cứu khóa học và hoàn thành Luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn./. Hà Nội, ngày 04 tháng 12 năm 2007 Tác giả: Phạm Hải Hưng   MỞ ĐẦU I. LÝ DO LỰA CHỌN ĐỀ TÀI Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, có biết bao người đã hiến dâng tính mạng, xương máu, sức lực, trí tuệ và tuổi trẻ của mình cho Tổ quốc. Tổ quốc và nhân dân đời đời ghi nhớ công ơn to lớn của những người anh dũng ấy. Bởi vậy, ngay sau khi giành được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Bác Hồ đã ký Sắc lệnh số 20/SL ngày 16/2/1947 về “ưu đãi người có công”. Trong báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương khóa VIII trình đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng đã xác định nhiệm vụ “Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước, bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sỹ, gia đình chính sách”. Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị và dựa trên sự phát triển nền kinh tế xã hội, chính sách ưu đãi người có công của Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới mục tiêu ghi nhận công lao, sự đóng góp, sự hy sinh cao cả của những người có công, tạo mọi điều kiện, khả năng đền đáp, bù đắp phần nào về đời sống vật chất, văn hoá tinh thần đối với người có công. Đến nay, đã có nhiều văn bản đã được ban hành, từng bước đáp ứng chế độ ưu đãi đối với người có công trong lịch sử đất nước. Hiện nay, một mặt hệ thống các văn bản pháp luật đối với người có công vẫn chưa hoàn chỉnh, còn nhiều bất cập; mặt khác là trong quá trình thực hiện pháp lụât đưa pháp luật vào đời sống xã hội còn nhiều hạn chế bởi nhiều nguyên nhân. Vì vậy, xây dựng hoàn thiện hệ thống pháp luật về ưu đãi với người có công đầy đủ hoàn thiện, phù hợp với sự pháp triển của đất nước, đồng thời phải nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực thực hiện pháp luật, giúp công tác quản lý Nhà nước trong lĩnh vực này được tốt hơn. Chính vì vậy, lựa chọn đề tài “Nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công với cách mạng ở nước ta trong hiện nay ” làm đề tài nghiên cứu. Đề tài sẽ làm rõ một số vấn đề lý luận, đánh giá thực trạng và đề ra những giải pháp cho việc nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi với người có công. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Trên cơ sở và thực trạng thực hiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công hiện nay, Luận văn đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật đối với người có công ở nước ta hiện nay. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU - Đối tượng nghiên cứu: Các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công. Trên cơ sở xem xét: + Các văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công. + Tài liệu tham khảo. + Báo cáo tổng kết của ngành. + Các giáo trình, bài giảng. - Khách thể nghiên cứu: Giải pháp nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật đối với người có công với cách mạng. IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Các cơ quan hành chính Nhà nước thuộc lĩnh vực tổ chức triển khai pháp luật ưu đãi người có công - Các văn bản pháp luật ưu đãi về người có công. - Thực trạng thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công ở Việt Nam hiện nay. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Phương pháp luận Luận văn nghiên cứu giải pháp nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công. Vì vậy, phải sử dụng phương pháp duy vật biện chứng để xem xét, nghiên cứu tính hệ thống và mối liên hệ phổ biến của các yếu tố đó với nhau. 2. Phương pháp phân tích và tổng hợp Xử lý các thông tin, số liệu, đánh giá các khía cạnh, các bình diện. Từ thực trạng và số liệu đó đưa ra các luận điểm, quan điểm. 3. Phương pháp so sánh Trong quá trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp so sánh để thấy được thực trạng, các số liệu, thông tin việc thực hiện. 4. Phương pháp chuyên gia Trong quá trình nghiên cứu, lấy ý kiến các chuyên gia đầu ngành, các cán bộ quản lý Nhà nước có trình độ và kinh nghiệm trong lĩnh vực nhằm tìm ra các giải pháp nâng cáo năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công ở Việt Nam hiện nay. VI. NỘI DUNG: Chương I. Cơ sở lý luận về năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công. Chương II. Thực trạng về năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Chương III. Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực của các cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật đối với người có công ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NĂNG LỰC CỦA CƠ QUAN HÀNH CHÍNH TRONG VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG 1.1. Một số khái niệm cơ bản của đề tài nghiên cứu 1.1.1 Khái niệm năng lực và năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công. - Theo từ điển Tiếng Việt thì năng lực là khả năng làm việc tốt, nhờ có phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn. Có sức để hoàn thành các công việc. - Năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước là khả năng hoàn thành các chức năng mà pháp luật quy định cho các cơ quan hành chính. Chức năng nào thì năng lực ấy, chức năng phức tạp thì năng lực càng phải cao, tức là phải có năng lực tương ứng. Năng lực là một cái rất trừu tượng. Nó được thể hiện thông qua quy trình, thủ tục thực hiện công việc và kiến thức, kỹ năng của con người. Nếu quy trình, thủ tục tốt thì việc thực hiện các công việc được thực hiện tối ưu. Tuy nhiên, con người là yếu tố quan trọng nhất, thiếu những người có kiến thức kỹ năng thì năng lực cũng bị giảm xuống. - Xuất phát từ cách hiểu về năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước như trên ta có thể hiểu: Năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công là khả năng hoàn thành các chức năng, nhiệm vụ mà pháp luật quy định cho các cơ quan này để thực thi pháp luật ưu đãi người có công. Như vậy, năng lực của cơ quan hành chính Nhà nước trong thực hiện pháp luật ưu đãi người có công bao gồm: năng lực tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động; năng lực về nguồn nhân lực; năng lực tổ chức thực hiện chính sách; năng lực về thanh tra, kiểm tra; giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực này. 1.1.2. Khái niệm người có công Do đặc điểm của lịch sử dân tộc và với truyền thống uống nước nhớ nguồn nên trong chính sách của Nhà nước ta qua các thời kỳ luôn có những ghi nhận và ưu đãi với một lớp người có những cống hiến, hy sinh hoặc có những thành tích, đóng góp đặc biệt xuất sắc cho đất nước. Những ưu tiên, ưu đãi đó đã được thể chế hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật và đã được thực hiện từ lâu. Tuy nhiên, cho đến nay vẫn chưa có một văn bản pháp luật nào nêu rõ khái niệm người có công. Do đó, khái niệm này trước đây thường được hiểu theo nghĩa hẹp mà theo đó, người có công chỉ là người có công với cách mạng. Đó là những người có đóng góp trong các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được các cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận theo qui định của pháp luật. Trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, căn cứ vào các tiêu chuẩn đối với từng đối tượng là người có công mà nhà nước ta đã quy định thì có thể hiểu người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng trí tuệ, có người hy sinh cả cuộc đời mình cho sự nghiệp của dân tộc. Họ là những người có thành tích hoặc cống hiến xuất sắc phục vụ cho lợi ích của dân tộc được cơ quan có thẩm quyền công nhận theo quy định của pháp luật. Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm bảo vệ Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước trên các lĩnh vực khoa học, công nghệ, văn hóa, nghệ thuật, thể thao... Theo cách hiểu này thì người có công với nước là một khái niệm rộng đồng thời là một phạm trù lịch sử, bao gồm không chỉ là người có công với cách mạng mà còn có cả các đối tượng khác như anh hùng lao động, nghệ sĩ nhân dân, nhà giáo nhân dân, thầy thuốc nhân dân... Theo Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng của Ủy Ban Thường Vụ Quốc hội số 26/2005/ PL – UBTVQH11 ngày 29/6/2005 (sau đây gọi tắt là Pháp lệnh ưu đãi người có công) thì khái niệm người có công cũng được hiểu theo nghĩa rộng này, bao gồm: - Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945; - Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám năm 1945; - Liệt sỹ; - Bà mẹ Việt Nam anh hùng; - Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng Lao động; - Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh; - Bệnh binh; - Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hoá học; - Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị bắt tù đày; - Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế; - Người có công giúp đỡ cách mạng.  Theo quy định của Pháp lệnh thì đối tượng được hưởng ưu đãi không chỉ bao gồm những người có công kể trên mà còn có thể có cả thân nhân của họ. Đó là những người có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng với người có công. Mặc dù đây không phải là đối tượng người có công theo đúng nghĩa nhưng sự ưu đãi của nhà nước và xã hội đối với thân nhân người có công là hết sức cần thiết bởi họ cũng là những người chịu thiệt thòi về tinh thần, tình cảm và khó khăn do sự cống hiến, hy sinh của người thân cho đất nước, dân tộc. Việc ưu đãi hợp lý đối với thân nhân người có công cũng chủ yếu trên cơ sở những đóng góp của người có công và nhu cầu của chính họ. Do đó, ưu đãi thân nhân người có công suy cho cùng cũng là ưu đãi người có công. Đó là đạo lý, là truyền thống “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc đồng thời cũng nhằm hướng tới an sinh xã hội nói chung. 1.1.3. Khái niệm pháp luật ưu đãi người có công Nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc xây dựng hệ thống pháp luật và thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công. Pháp luật ưu đãi đối với người có công bao gồm tổng thể những quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện chế độ ưu đãi đối với người có công trên các lĩnh vực của đời sống xã hội. Pháp luật ưu đãi đối với người có công quy định những nguyên tắc, hình thức và phương pháp thực hiện chế độ ưu đãi người có công, xác định quy chế pháp lý của các chủ thể trong hoạt động quản lý Nhà nước nhằm điều chỉnh mọi hoạt động của đời sống ưu đãi xã hội đối với người có công. 1.1.4. Khái niệm thực hiện pháp luật ưu đãi người có công Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật là mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh các quan hệ xã nhằm phục vụ lợi ích và mục đích của nhân dân lao động. Điều đó chỉ có thể đạt được khi các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành được thực hiện một cách chính xác và đầy đủ. Do vậy không chỉ ban hành thật nhiều các văn bản pháp luật, điều quan trọng là phải thực hiện pháp luật, làm cho những quy định của chúng trở thành hiện thực. Thực hiện pháp luật là một quá trình hoạt động có mục đích làm cho những quy định của pháp luật đi vào cuộc sống, trở thành những hành vi thực tế hợp pháp của các chủ thể pháp luật. Xuất phát từ khái niệm thực hiện pháp luật như trên ta có thể hiểu: Thực hiện pháp luật ưu đãi đối với người có công là làm cho những quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội đối với người có công hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện chế độ ưu đãi trên các lĩnh vực đời sống. 1.1.5. Khái niệm cơ quan hành chính Nhà nước Để hiểu được cơ quan hành chính Nhà nước trước tiên ta cần phải tìm hiểu về bộ máy Nhà nước: Bộ máy Nhà nước là tổng thể các cơ quan từ Trung ương tới địa phương được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung thống nhất tạo thành một cơ chế đông bộ để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Bộ máy Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chia ra thành các hệ thống sau: - Chủ tịch nước - Các cơ quan quyền lực Nhà nước - Các cơ quan hành chính Nhà nước - Các cơ quan xét xử - Viện kiểm sát nhân dân các cấp Vậy cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận cấu thành của bộ máy Nhà nước được tổ chức theo luật định để thực hiện chức năng hành pháp và hành chính. a. Các đặc điểm của cơ quan hành chính Nhà nước: Cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận của bộ máy Nhà nước, bởi vậy nó mang các đặc điểm chung của cơ quan Nhà nước: - Là một tổ chức có tính độc lập tương đối về cơ cấu tổ chức, được thành lập để thực hiện chức năng và nhiệm vụ của Nhà nước. Cơ quan hành chính Nhà nước cũng là một hệ thống các cơ quan được tổ chức thống nhất từ cấp Trung ương cho tới địa phương hoạt động theo những nguyên tắc chung của bộ máy Nhà nước. Nó vừa là một hệ thống cơ quan hoàn chỉnh nhằm thực hiện một nhóm các chức năng của Nhà nước, vừa là một bộ phận cấu thành nên bộ máy của Nhà nước nói chung. Chính vì vậy nó phải được tổ chức theo cách thức đảm bảo được việc tiến hành các hoạt động độc lập, đồng thời có quan hệ chặt chẽ và chịu sự chi phối ở mức độ cần thiết từ phía các cơ quan khác của bộ máy Nhà nước để cùng hoàn thành nhiệm vụ và các mục tiêu chung, đảm bảo quan hệ tương hỗ và giám sát giữa các cơ quan này trong quá trình hoạt động. - Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan hành chính Nhà nước do Hiến pháp, luật, pháp lệnh và những văn bản khác dưới luật, hay nói chung là do các văn bản pháp luật thuộc ngành luật Nhà nước quy định. Trong số các thiết chế trong xã hội nói chung, trong hệ thống chính trị nói riêng, Nhà nước có vai trò đặc biệt và chiếm vị trí trung tâm. Nó là chủ thể mang quyền lực của nhân dân, do nhân dân tổ chức ra và thay mặt nhân dân tiến hành các hoạt động quản lý kiểm soát các hoạt động trong toàn xã hội. Bởi vậy việc tổ chức và hoạt động của bộ máy này cần được quy định và giám sát chặt chẽ. Một hệ thống các quy định riêng (các quy phạm pháp luật của ngành luật Nhà nước) được xây dựng để điều chỉnh các quan hệ về thiết lập và thực hiện quyền lực Nhà nước. Cơ quan hành chính Nhà nước là một bộ phận hữu cơ của bộ máy Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của nó cũng được điều chỉnh bởi một bộ phận trong nhóm quy phạm pháp luật loại này. - Cơ quan hành chính Nhà nước hoạt động trong khuôn khổ thẩm quyền của mình. Mỗi cơ quan đảm nhận một phần công việc của Nhà nước và để thực hiện được phần công việc đó nó được trao những thẩm quyền tiến hành các công việc nhất định: được ban hành những văn bản pháp luật nhất định (cả văn bản quy phạm pháp luật và văn bản áp dụng pháp luật), giải quyết những loại vụ việc nhất định, tác động đến những đối tượng nhất định... Việc phân định rành mạch thẩm quyền của các cơ quan và của việc thực hiện chính xác thẩm quyền đó có tầm quan trọng đặc biệt vì nó đảm bảo tính đồng bộ và sự phối kết hợp nhịp nhàng giữa các cơ quan trong hệ thống hành chính cũng như trong tổ chức bộ máy Nhà nước nói chung. Các cơ quan hành chính Nhà nước cần xác định rõ phạm vi các công việc thuộc quyền hạn giải quyết của mình và tôn trọng những công việc thuộc thẩm quyền của các cơ quan khác để tránh hiện tượng thực hiện nhiệm vụ sai, thực hiện chồng chéo, hoặc ngược lại, bỏ sót các nhiệm vụ. Bên cạnh đó, cơ quan hành chính Nhà nước còn có những đặc điểm riêng của mình. - Là cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước, tức là thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành. - Cơ quan hành chính Nhà nước là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực Nhà nước. Các cơ quan đầu não của bộ máy hành chính Nhà nước do các cơ quan quyền lực thành lập. Do đó, như một hệ quả tất nhiên, chúng chịu sự kiểm tra, giám sát của những cơ quan này. Tuy nhiên lý do chính để các cơ quan hành chính Nhà nước có nhiệm vụ chấp hành cơ quan quyền lực chính là ở chỗ, nằm trong một chỉnh thể của bộ máy Nhà nước, cơ quan hành chính Nhà nước có vị trí vai trò riêng biệt, đảm nhận những chức năng và nhiệm vụ riêng biệt và là một bộ phận không thể tách rời trong chỉnh thể đó để cùng thực hiện chức năng Nhà nước. Trong sự phân định chức năng quyền hạn của các nhóm cơ quan quyền lực - hành chính - tư pháp thì cơ quan hành chính Nhà nước có nhiệm vụ triển khai thực hiện các quyết định của cơ quan quyền lực (không kể cơ quan quyền lực đó có phải là cơ quan thành lập ra nó hay không). Theo quy định của pháp luật, các cơ quan hành chính Nhà nước cụ thể sẽ chịu sự lãnh đạo và giám sát của cơ quan quyền lực tương ứng. - Thẩm quyền của cơ quan hành chính chỉ giới hạn trong phạm vi chấp hành và điều hành. Đây là nét đặc thù để phân biệt cơ quan hành chính Nhà nước với các loại cơ quan khác trong bộ máy Nhà nước. Cơ quan hành chính Nhà nước, như trên vừa phân tích, là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực, nghĩa là nó có nhiệm vụ triển khai thực hiện tất cả các quyết định (thể hiện dưới dạng các văn bản quy phạm pháp luật) của cơ quan này. Tuy nhiên, đây chỉ là một mặt trong nhiệm vụ (và cũng là thẩm quyền) cơ quan hành chính Nhà nước. Thẩm quyền của cơ quan hành chín
Tài liệu liên quan