Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng vậy.Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ dân tộc nào.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam (về chất lượng và giá cả của hàng hóa ,dịch vụ) .Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, em xin trình bày đề tài:
“Nâng cao sức cạnh tranh (về chất lượng và giá cả) của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,,
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần như sau:
I- Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh.
II- Thực trạng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta.
III- Quan điểm và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
26 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1388 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao sức cạnh tranh (về chất lượng và giá cả) của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
********
Ngày nay, xu thế toàn cầu hóa đang bao trùm cả thế giới, Khi toàn cầu hóa về nền kinh tế đang trở thành một xu hướng khách quan thì yêu cầu hội nhập nền kinh tế quốc tế càng trở nên cấp bách.Toàn cầu hóa đòi hỏi mỗi nước phải liên kết với các quốc gia khác để cùng phát triển.Và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế chung của thế giới
Quá trình toàn cầu hóa nền kinh tế và hội nhập kinh tế thế giới, đòi hỏi mỗi quốc gia, mỗi dân tộc phải có sự cạnh tranh,Việt Nam của chúng ta cũng vậy.Là một nước đang phát triển, việc tham gia vào quá trình hội nhập và toàn cầu hóa thế giới đã và đang đặt ra cho chúng ta nhiều cơ hội, cũng như nhiều thách thức. Sức cạnh tranh là một yếu tố cần thiết, cấp bách và không thể thiếu đối với bất kỳ quốc gia, hay bất kỳ dân tộc nào.
Kinh tế thế giới phát triển, quốc tế hóa thương mại đòi hỏi các nước phải xóa bỏ rào cản,chấp nhận tự do buôn bán,vì thế mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nước, điều đó cũng đồng nghĩa với việc nâng cao sức cạnh tranh của nước đó phù hợp với sự phát triển của thế giới. Do đó, chúng ta phải làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam (về chất lượng và giá cả của hàng hóa ,dịch vụ) .Nhưng làm sao và làm thế nào để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta hiện nay đang là vấn đề hết sức nan giải và có thể nói là đầy khó khăn, đang được nhiều người quan tâm.
Với trình độ và khả năng hiểu biết của mình còn hạn chế, em xin trình bày đề tài:
“Nâng cao sức cạnh tranh (về chất lượng và giá cả) của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ,,
Kết cấu của đề tài gồm 3 phần như sau:
Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh.
Thực trạng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta.
Quan điểm và giải pháp nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế Việt Nam.
NỘI DUNG
*****
I.Những vấn đề cơ bản về cạnh tranh
Cạnh tranh là gì?
Cạnh tranh xuất hiện trong quá trình hình thành và phát triển của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau về cạnh tranh, vì vậycó nhiều định nghĩa khác nhau về cạnh tranh.Dưới đây là một quan niệm về cạnh tranh:
Cạnh tranh là quan hệ kinh tế mà ở đó các chủ thể kinh tế ganh đua nhau tìm mọi biện pháp, cả nghệ thuật lẫn thủ đoạn để đạt mục tiêu kinh tế của mình, thông thường là chiếm lĩnh thị trường, giành lấy khách hàng cũng như các điều kiện sản xuất, thị trường có lợi nhất. Mục đích cuối cùng của các chủ thể kinh tế trong quá trình cạnh tranh là tối đa hóa lợi ích. Đối với người sản xuất kinh doanh là lợi nhuận,đối với người tiêu dùng là lợi ích tiêu dùng và sự tiện lợi.
Cạnh tranh là phương thức giải quyết mâu thuẫn lợi ích kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế thị trường.
Mục đích của cạnh tranh : đó là tối đa hóa lợi ích của người sản xuất và người tiêu dùng.
Các nhân tố cấu thành Sức mạnh cạnh tranh gồm có :
+ Chất lượng hàng hóa tốt.
+ Giá cả thấp.
+Thời gian và điều kiện dịch vụ.
trong bài này, chúng ta chỉ xét sức cạnh tranh của nền kinh tế (chất lượng và giá cả)
Cạnh tranh được phân chia thành nhiều loại tùy theo từng góc đọ khác nhau.
Dưới góc độ thị trường, cạnh tranh được chia làm hai loại :
Cạnh tranh hoàn hảo và cạnh tranh không hoàn hảo.
Cạnh tranh hoàn hảo xảy ra khi không một hãng sản xuất nào(người bán ) có thể can thiệp vào giá cả của thị trường. hay người bán của cạnh tranh hoàn hảo là người bán chấp nhận giá của thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo : là hình thức cạnh tranh chiếm ưu thế trong các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ sức mạnh và thế lực có thể chi phối được giá cả sản phẩm của mình trên thị trường.
Cạnh tranh không hoàn hảo có hai loại : độc quyền nhóm và cạnh tranh mang tính độc quyền.
Dưới góc độ các công đoạn của sản xuất- kinh doanh, có ba loại cạnh tranh,đó là cạnh tranh trước khi bán hàng,trong quá trình bán hàng và sau khi bán hàng.
Còn dưới góc độ xét theo mục tiêu kinh tế của các chủ thể trong cạnh tranh, có cạnh tranh trong nội bộ ngành và cạnh tranh giữa các ngành.v.v...
Trong nền kinh tế thị trường ngày nay, cạnh tranh vừa là một điều kiện, vừa là một yếu tố để kích thích kinh doanh, đồng thời cũng là môi trường và động lực để thúc đẩy sản xuất phát triển. Quá trình cạnh tranh sẽ loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả,những quốc gia , dân tộc ko đủ sức cạnh tranh .
Những nhân tố quyết định sức cạnh tranh của nền kinh tế.
Khả năng cạnh tranh, cũng như những yếu tố quyết định của cạnh tranh bao gồm:
Lợi thế so sánh:
Lợi thế so sánh, đó là những yếu tố, những thuận lợi mà một quốc gia có được .
Quốc gia nào có ưu thế về một hoặc một số hàng hóa hoặc dịch vụ nào đó, thì có thể phát huy, tập trung vào sản xuất để có thể xuất khẩu mặt hàng đó ra nước ngoài và quốc gia đó cũng có thể nhập khẩu những hàng hóa mà không có lợi thế so sánh.
Lợi thế so sánh được hình thành trên cơ sở các điều kiện xã hội của một nước như: cơ cấu kinh tế, chi phí lao động, trình đọ khoa học công nghệ, mức độ chuyên môn hóa sản xuất...Việt Nam có các lợi thế so sánh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là :
Vị trí địa_chíng trị của Việt Nam trong vùng Đông Nam á
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi với ba mặt tiếp giáp với biển.Chúng ta cũng có vị trí địa chính trị trong Đông Dương và trong ASEAN, và một phần nào đó trong APEC& ASEM. Nói chung vị trí địa chính trị rất quan trọng,nếu biết khai thác thì chúng ta có thể có vị thế cao trong vùng.
Về tài nguyên thiên nhiên:
Nước ta có nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú(đất,nước, rừng, biển, khoáng sản, du lịch...).Vì vậy, Việt Nam có những điều kiện thuận lợi và tiềm năng đẻ phát huy lợi thế của mình. Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải sử dụng nguồn tài nguyên đó như thế nào cho hợp lý. Tài nguyên thiên nhiên là yếu tố mà các quốc gia phát huy thế mạnh, lợi thế của mình trong khi mở cửa giao lưu với các nước khác trên thế giới, chính vì vậy việc khai thác sử dụnh bừa bãi tài nguyên thiên nhiên dẫn đến sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên. Do đó trong thời đại ngày nay, cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa họa công nghệ, cho phép con người sử dụng chất xám, phát minh nghiên cứu từng bước tìm ra những vật liệu nhân tạo thay thế cho nguồn tài nguyên hiện có. Việt Nam chúng ta có nhiều nguồn tài nguyên chưa được khai thác hợp lý và đúng mức đẻ phục vụ cho phát triển kinh tế xã hội.Vì vậy, chúng ta cần phải biết khai thác và sử dụng hợp lý nguồn tài nguyên thiên nhiên để tăng sức cạnh tranh trong việc sản xuất một số mặt hàng có ưu thế.
Về nguồn nhân lực:
Nhân lực cũng là một yếu tố quyết định sức cạnh tranh của nền kinh tế . Bởi lẽ, một lực lượng lao động đông đảo với trình độ cao sẽ sản xuất ra những mặt hàng có chất lượng,ưu thế có thể xuất khẩu ra các nước trong khu vực. Việt Nam là một nước dân số đông, số người ở độ tuổi lao động nhiều, hứa hẹn nhiều tiềm năng trong việc nâng cao sức cạnh tranh của nên kinh tế nước ta. Dân số trẻ và nguồn nhân lực dồi dào đã và đang có xu hướng tri thức hóa. Tuy nhiên chúng ta có thể sẽ gặp vấn đè khó khăn về việc làm, giáo dục, y tế & các dịch vụ xã hội khác. Thêm vào đó là tình trạng sức khỏe lao động nước ta nhìn chung không được tốt như lao động các nước trong khu vực và trên thế giới, chưa đáp ứng được yêu cầu của nền sản xuất hiện đại dẫn đến sản phẩm làm ra chất lượng không cao, hay là tốn nhiều thời gian để sản xuất ra một sản phẩm.
Một quốc gia với dân số đông, lực lượng lao động nhiều, nhưng chưa chắc đã là một quốc gia mạnh mà điều quan trọng là trìng độ của người lao động phải được thỏa mãn, đáp ứng được đòi hỏi của nền sản xuất hiện đại, với xu thế mở cửa hội nhập.
2.2 Năng suất của nền kinh tế quốc gia:
Năng suất của nền kinh tế quốc gia xác định sự tăng trưởng của quốc gia đó. Và vì vậy năng suất của nền kinh tế được đo bằng giá trị hàng hóa và dịch vụ được sảm xuất trên một đơn vị lao động, vốn nguồn lực vật chất của nước đó. Để tăng năng suất lao động, chúng ta phải không ngừng giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành bằng cách áp dụng những tiến bộ khoa học công nghệ...& sử dụng tốt hơn những nhân tố sự tiến triển của năng suất và sức cạnh tranh của một quốc gia phụ thuộc vào ba yếu tố tác động có mối quan hệ chặt chẽ với nhau bao gồm: bối cảnh chính trị _ kinh tế vĩ mô,chất lượng hoạt động và chiến lược của các doanh nghiệp, chất lượng của môi trường kinh doanh.
Bối cảnh chính trị và kinh tế vĩ mô : Sự ổn định chính trị là một điều kiện tiên quyết đối với cạnh tranh và sự ổn định kinh tế vĩ mô cũng vậy nó sẽ thúc đảy không chỉ cạnh tranh mà còn có tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế ,sự phồn thịnh của một quốc gia. Vì thế các quốc gia cần phải xem xét làm thế nào , có những chính sách đẻ khuyến khích và làm tăng năng suất trong các doanh nghiệp thì quốc gia đó mới có thế mạnh trong cạnh tranh.
Hoạt động và chiến lược của doanh nghiệp : doanh nghiệp phải làm sao để sản phẩm sản xuất ra có mức giá ngang bằng hoặc thấp hơn so với mức giá thị trường nhưng chất lượng tốt và không cần tới sự trợ cấp của nhà nước.Điều đó phụ thuộc vào yếu tố bên trong doanh nghiệp và môi trường kinh doanh.
Môi trường cạnh tranh :Năng suất của quốc gia phụ thuộc vào môi trường kinh doanh. Môi trường kinh doanh bao gồm một số những yếu tố quan trọng : Thương mại và đầu tư; tài chính(chất lượng và sự hoàn hảo của hệ thống tài chính, ngân hàng trong thị trường vốn ..), cải tổ hệ thống doanh nghiệp và thiết lập hệ thống tổng công ty quản lý có hiệu quả,nguồn nhân lực liên quan đến các vấn đề:nâng cao giáo dục, kỹ năng, phat triển thị trường sức lao động có hiệu quả; công nghệ.
Nói chung để nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế một quốc gia thì quốc gia đó cần phải xem xét những yéu tố quyết định sức cạnh tranh để từ đó có những chiến lược phát triển phù hợp.
3.Tính tất yếu nâng cao khả năng cạnh tranh:
Tiến trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra rộng khắp và nhanh chóng.nó đã trở thành xu thế hiện nay,xu thế của thời đại và vì vậy, chúng ta không một quốc gia nào có thể tách khỏi xu thế chung đó. Để có thể phát triển được, thì quốc gia đó nhất thiết phải mở cửa và hội nhập với nền kinh tế quốc tế. Tuy nhiên, muốn mở cửa và hội nhập thì nền kinh tế của quốc gia đó phải có sức cạnh tranh với hàng hóa và dịch vụ của các quốc gia khác .Vì vậy khả năng cạnh tranh của nền kinh tế quốc gia là điều cần thiết.
Hơn nữa cuộc cách mạng khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy chuyên môn hóa và hợp tác quốc tế, công nghệ đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Sự phát triển của khoa học công nghệ tạo ra những thay đổi căn bản về phương thức tiến hành thương mại trên phạm vi thế giới. Giờ đây người ta có thể ngồi một chỗ đặt hàng qua mạng internet, biết được thông tin cập nhật hàng ngày...
Sự tác động của cuộc cách mạng khoa học công nghệ lam cho phân công lao đọng quốc tế ngày càng đi vào chiều sâu.Nếu trước kia là phân công theo ngành, theo sản phẩm thì giờ đây phân công lao động theo chi tiết và theo quy trình công nghệ . Và tiềm lực về yếu tố khoa học công nghệ đanh trở thành yếu tố quan trọng trong cạnh tranh. Các nước phát triển sẽ dần đi vào những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao và các dịch vụ có nền móng là công nghệ thông tin, còn các nước đang phát triển sẽ tiếp nhận vai trò cung ứng các sản phẩm có hàm lượng chất xám trung bình. Khoa học công nghệ tạo điều kiện cho các quốc gia, nhất là các nước đang phát triển có thể nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo.
Nền kinh tế thế giới phát triển mạnh mẽ, đang tạo ra một thị trường hàng hóa và dịch vụ thế giới, một thị trường tài chính tiền tệ chung.Lĩnh vực luôn đi trước, đó là thương mại.Quốc tế hóa thưong mại đòi hỏi mỗi quốc gia phải xóa bỏ rào cản, chấp nhận tự do buôn bán.Mỗi nước phải mở cửa thị trường trong nứớc, thâm nhập vào thị trưòng quốc tế. Khi tham gia vào quá trình hội nhập , chúng ta có cơ hội thâm nhập vào thị trường thế giới đồng thời cũng có nghĩa là hàng hóa của chúng ta phải cạnh tranh với hàng hóa của các nước khác.Chính vì vậy hàng hóa Việt Nam phải có sự thay đỏi về chất để đảm bảo có thể đứng vững trên thị trường trong và ngoài nước.
Như chúng ta đã biết, khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nước ta hiện nay còn yếu. chính vì vậy khi tham gia vào quá trình hội nhập, nếu không được chẩn bị trước , rất có thể chúng ta sẽ bị thua thiệt.Vì vậy chúng ta phải chủ đọng hội nhập vào xu thế chung, tăng cưòng sức cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Do đó vấn đè có tính chất quyết định là nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế nước ta.
Kim ngạch xuất nhập khẩu, nhập siêu và tỷ lệ nhập siêu qua các năm
năm
XK
(triệuUSD)
Tốc độ tăng (%)
NK
(triệuUSD)
Tốc độ tăng (%)
Nhập siêu (Triệu SD)
Tỷ lệ nhập siêu (%)
1993
2.985,2
15,7
3.924,0
54,4
938,8
31,4
1994
4.054,3
35,8
5.825,8
48,5
1.771,5
43,7
1995
5.448,9
34,4
8.155,4
40,0
2.706,5
49,7
1996
7.255,9
33,2
11.143,6
36,6
3.887,7
53,6
1997
9.185,0
26,6
11.592,3
4,0
2.407,3
26,2
1998
9.360,3
1,9
11.499,6
-0,8
2.139,3
22,9
1999
11.541,4
23,3
11.742,1
2,1
200,7
1,7
2000
14.482,7
25,5
15.636,5
33,2
1.153,8
8,0
2001
15.027,0
3,8
16.162,0
3,4
1.135,0
7,9
2002
16.705,8
11,2
19.733,0
21,8
3.027,2
18,2
2003
20.149,3
20,6
25.255,8
27,9
5.106,5
25,3
2004
26.504,2
31,5
31.953,9
26,5
5.449,7
20,6
ước 2005
32.233,0
21,6
36.811,0
15,4
4.648,0
14,4
4.Kinh nghiệm về nâng cao khả năng cạnh tranh của Trung Quốc :
Trung Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa, vốn trước kia cũng có nền kinh tế theo chế độ kế hoạch hóa tập trung. Kể từ sau hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI(1978), Trung Quốc bước vào giai đoạn thực hiện chuyển đổi nền kinh tế từng bước sang cơ chế thị trường với tiêu chí xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa mang đặc sắc Trung Quốc. Bằng việc áp dụng nhiều chính sách mới phù hợp, Trung Quốc đã đưa nền kinh tế phát triển vượt bậc.
Trong lĩnh vực công nghiệp :
Để phát triển công nghiệp, Trung Quốc đã tiến hành cải cách thể chế và chính sách trong công nghiệp tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của các loại hình doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Trung Quốc xác định doanh nghiệp Nhà nước là trụ cột của hệ thống công nghiệp nói riêng và của nền kinh tế quốc dân nói chung. Trước năm 1994, Nhà nước căn cứ vào tính chất sở hữu để áp dụng những chính sách khác nhau, thực tế cũng nảy sinh ra những mâu thuẫn về quyền lợi và nghĩa vụ giữa các loại hình doanh nghiệp. Sau năm 1994, cải cách thể chế doanh nghiệp Nhà nước được tiến hành trong điều kiện các thành phần kinh tế được cạnh tranh bình đẳng trong hoạt động kinh doanh. Nhà nước tập trung vào quản lý các doanh nghiệp Nhà nước then chốt, liên quan đến quốc kế dân sinh, các doanh nghiệp nhỏ cho phếp bán, cho thuê, hay sáp nhập, giải thể. Đồng thời xúc tiến cổ phần một số doanh nghiệp Nhà nước. Phương thức quản lý doanh nghiệp nhà nước đã chuyển từ quản lý trực tiếp thông qua kế họach mang tính pháp lệnh sang phương pháp quản lý gián tiếp là chính.
Kinh tế tư nhân với nhiều loại hình cũng được khuyến khích phát triển. Nhà nước đã quan tâm đến việc hòan thiện hệ thống pháp luật, các chính sách kinh tế vĩ mô để tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư của tư nhân. Trong phát triển kinh tế, nhà nước đã thực hiện điều chỉnh phương hướng đầu tư giữa công nghiệp và nông nghiệp, giữa công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ.
Trong công nghiệp Trung Quốc đã chú trọng đầu tư vào thiết bị công nghệ. Trong thiết bị kỹ thuật tổng thể của Trung Quốc đã rút ngắn khỏang cách từ 10 đến 15 năm so với các nước công nghiệp phát triển thế giới. Hiện nay, trang thiết bị của ngành công nghiệp Trung Quốc đã có tới 20% đạt trình độ kỹ thuật tiên tiến của thế giới đầu những năm 1990, 50% đạt kỹ thuật tiên tiến của thế giới đầu những năm 1980 và 30% đạt trình độ kỹ thuật của thế giới những năm 70 trở về trước.
Sự phát triển các xí nghiệp hương trấn :
+ Xí nghiệp là tên gọi chung của các xí nghiệp công thương nghiệp, xây dựng họat động ở khu vực nông thôn Trung Quốc. Về cơ bản xí nghiệp hương trấn là xí nghiệp ngoài quốc doanh. Các xí nghiệp hương trấn góp phần thúc đẩy quá trình công nghiệp hóa và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động và việc làm ở nông thôn. Xí nghiệp hương trấn đã sản xuất ra 2/3 hàng may mặc của cả nước, 1/5 sản phẩm dệt, 3/4 giày dép, 1/3 sản phẩm giấy, 1/3 sản lượng xi măng, 90% gạch ngói, 50% phân lân, 15% thuốc trừ sâu và trên 50% công cụ máy móc nông nghiệp nhỏ. Do đó đã góp phần đẩy mạnh hàng xuất khẩu của Trung Quốc trên thị trường khu vực và thế giới. Một số xí nghiệp hương trấn của Trung Quốc đã liên doanh với các xí nghiệp nước ngoài đã đưa ra nguyên liệu, mẫu mã hàng đến gia công, đưa linh kiện đến lắp ráp, đưa thiết bị đến bổ sung và bao tiêu sản phẩm.
Về ngoại thương :
+ Trước khi cải cách và mở cửa, về cơ bản ngoại thương Trung Quốc do các công ty chuyên ngành về ngoại thương cấp Trung ương quản lý. Trong quá trình chuyển qua kinh tế thị trường, thể chế kinh doanh ngoại thương kiểu tập chung cao độ đã dần dần bị xóa bỏ. Thể chế ngoại thương được cải cách chính thức từ tháng 9 – 1984 ,về mặt kế hoạch đã thu hẹp những chỉ tiêu có tính chất mệnh lệnh, chỉ giữ lại những chỉ tiêu đối với những mặt hàng xuất nhập khẩu trọng điểm. Thể chế quản lý ngoại hối và thuế xuất nhập khẩu cũng được cải cách theo hướng có lợi cho các đơn vị kinh doanh ngọai thương. Về cơ chế mới, các đơn vị ngoại thương được tự do hơn trong kinh doanh và đóng vai trò chủ thể của thị trường. Cơ chế quản lý mới chú trọng phát huy tính năng động tự chủ tự chịu trách nhiệm về hiệu quả sản xuất – kinh doanh của các tổ chức kinh tế.
Về cơ chế định giá xuất nhập khẩu được áp dụng linh họat, thích ứng với sự thay đổi của quan hệ cung cầu và hệ thống giá cả trên thị trường quốc tế. Cải cách thể chế ngọai thương của Trung Quốc cho phép mở ra nhiều kênh xuất khẩu, kết hợp công nghiệp với mậu dịch, nhằm xóa bỏ sự ngăn cách giữa sản xuất trong nước với giao lưu quốc tế, hướng tới tiếp cận với các thị trường hiện đại.
Trung Quốc thực hiện chiến lược đa dạng hóa thị trường, lấy một ngành làm chính, kinh doanh nhiều loại, lấy buôn bán hàng đổi hàng là chính và buôn bán ngoại tệ mang tính chất bổ sung. Đồng thời Trung Quốc tăng cường khâu dịch vụ sau khi bán hàng, lấy xuất khẩu hàng hóa nhằm thúc đẩy xuất khẩu kỹ thuật, thiết bị vv...
Về đầu tư của Trung Quốc ra nước ngòai :
Việc đầu tư ra nước ngòai của các doanh nghiệp được chính phủ Trung Quốc đặc biệt khuyến khích và hỗ trợ nhằm tạo các kênh xuất khẩu vật tư và thiết bị. Họat động này giúp các doanh nghiệp xâm nhập vào môi trường kinh doanh quốc tế và là điều kiện cần thiết cho phát triển và hội nhập. Các công ty này không chỉ đầu tư vào các nước đang phát triển mà còn xâm nhập vào cả Mỹ và Châu Âu. Nhìn chung các doanh nghiệp tham gia họat động đầu tư ở nước ngòai được tổ chức và họat động tương đối đồng bộ, có đội ngũ nhân lực với chuyên môn nghiệp vụ khá mạnh nên có khả năng mở rộng đầu tư sang nhiều lĩnh vực và khả năng cạnh tranh quốc tế tương đối mạnh.
II.Thực trạng cạnh tranh của nền kinh tế nước ta :
Từ năm 1986, khi chúng ta bắt đầu tiến hành đổi mới, quá trình đó diễn ra chậm chạp và gặp nhiều khó khăn, nhưng hiện nay chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu trên nhiều mặt.
1.Những thành tựu đã đạt được của nền kinh tế nước ta
a.Thực trạng nền kinh tế Việt Nam
Do sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nói riêng và của nền kinh tế nói chung còn ở trình độ hạn chế. Nếu trước kia cạnh tranh chủ yếu tập trung trong lĩnh vực lưu thông hàng hóa thì hiện nay cạnh tranh trong sản xuất, cạnh tranh về chất lượng hàng hóa.Tuy nhiên cạnh tranh ở nước ta vẫn còn yếu kém, còn dấu vết của cơ chế cũ, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhiều hành vi cạnh tranh không lành mạnh. tiêu biểu như:
Nạn hàng giả tràn lan trên thị trường
Tình hình hàng giả tràn lan trên thị trường với địa bàn hoạt đọng ngày càng mở rộng. Hàng giả hiện nay với thủ đoạn làm giả ngày càng tinh vi, phức tạp gây ảnh hưởng không nhỏ tới lợi ích người tiêu dùng, thậm chí gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới tính mạng của họ.