“Gia đình!”, hai tiếng thiêng liêng, là tổ ấm khi bước chân xa về mệt mỏi, là nơi ta sinh ra và lớn lên gắn bó chứa chan tình thương yêu hạnh phúc, ai cũng có một gia đình, hãy giữ những phút giây thương yêu, quan tâm chia sẻ những khó khăn cùng nhau, để mỗi người là một sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình, có ý thức tốt hơn và sống tốt hơn. Để mỗi gia đình là một tế bào tốt của xã hội.
55 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1458 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghệ thuật giao tiếp trong gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
&
“Gia đình!”, hai tiếng thiêng liêng, là tổ ấm khi bước chân xa về mệt mỏi, là nơi ta sinh ra và lớn lên gắn bó chứa chan tình thương yêu hạnh phúc, ai cũng có một gia đình, hãy giữ những phút giây thương yêu, quan tâm chia sẻ những khó khăn cùng nhau, để mỗi người là một sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình, có ý thức tốt hơn và sống tốt hơn. Để mỗi gia đình là một tế bào tốt của xã hội.
Một bữa ăn thật ngon với rau và các món dân dã nhưng chan chứa tình thương yêu ngọt ngào. Bên mâm cơm quây quần đó, những câu chuyện về cuộc sống xung quanh, về chuyện học tập của con cháu, về những lo toan vui buồn khó khăn trong cuộc sống đều được sẻ chia, động viên, dạy bảo, là câu chuyện vui của những đứa cháu nhỏ, là tiếng cười của ông bà, của cha mẹ.
Dù đi đâu và làm bất cứ công việc gì cũng tranh thủ cố gắng về nhà, nơi không chỉ là yên bình ấm áp mà còn là để cùng được ăn cơm với gia đình. Nó đã hình thành nên một thói quen, một nếp sinh hoạt trong mỗi thành viên gia đình.
Đôi lúc bận công việc xa nhà, được chiêu đãi những nơi sang trọng, ăn những món ăn ngon nhưng mâm cơm rau của gia đình vẫn là một hình ảnh làm chúng ta nhớ mãi. Vì ở nơi đó là không khí chan hòa, là những bát cơm được xới từ tay mẹ, được gắp cho ông bà một miếng cá ngon, cũng có khi ông bà lại nhường cho cháu một lát cá to, là hôm nào mệt ăn ít cơm lại được một lời ân cần lo lắng: sao hôm nay ăn ít vậy con!...
Từ trong chính cuộc sống gia đình, sự hình thành nên mỗi con người rất là quan trọng, người ta có thể sống tốt trong xã hội hay không cũng bắt nguồn từ đây. Vì vậy sự gắn kết là mối dây liên hệ gia đình là điều rất quan trọng. Một bữa cơm ngon nhưng ai nấy cắm cúi ăn rồi bỏ đi… điều đó thật đáng buồn và cảm giác cô đơn lạc lõng chính trong gia đình mình, không có sự quan tâm gắn kết với người thân, khiến người ta dễ đi đến lối sống bất cần, không tự chủ.
Hãy trân trọng hạnh phúc gia đình và tạo nên hạnh phúc, đừng sống hời hợt và vô cảm với nhau trong chính gia đình mình. Bởi không có gì đẹp và đáng quý hơn là cuộc sống trong mái ấm gia đình.
Nhận thức được tầm quan trọng trong giao tiếp gia đình và kết hợp với kiến thức thực tiễn được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của cô Lê Thị Hải Vân, nhóm chúng em đã nghiên cứu đề tài với nội dung “ Nghệ thuật giao tiếp trong gia đình”. Đề tài gồm 3 phần:
Phần I: Lý thuyết về giao tiếp.
Phần II: Thực trạng giao tiếp trong gia đình hiện nay.
Phần III: Kỹ năng giao tiếp ứng xử trong gia đình.
Phần IV: Kết luận.
Do kiến thức thực tế và hiểu biết còn hạn chế, nhóm chúng em mong sự góp ý của thầy cô và các bạn để nhóm có thể có cách nhìn sâu sắc hơn, thực tế hơn giúp cho nhóm tiếp nhận kiến thức của chuyên nghành mình thuận lợi và áp dụng tốt công việc sau này.
Chúng em xin chân thành cảm ơn giảng viên Lê Thị Hải Vân đã trực tiếp hướng dẫn nhóm hoàn thành đồ án này.
Xin trân trọng cảm ơn!
MỤC LỤC
PHẦN I: LÝ THUYẾT VỀ GIAO TIẾP
1.1. Khái niệm, đặc điểm phân loại và kĩ năng giao tiếp.
1.1.1. Khái niệm.
Giao tiếp là các mối quan hệ giao lưu, ứng xử thông qua tiếp xúc giữa người với người; Giao tiếp văn hóa là những hành vi giao tiếp (cụ thể) theo định hướng (có) văn hóa.
Văn hóa giao tiếp là khía cạnh giá trị mang yếu tố tích cực trong các mối quan hệ giao tiếp cá nhân tạo thành một bộ phận của đời sống văn hóa tập thể và rộng ra là của nền văn hóa dân tộc.
Giao tiếp là quá trình chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc nhiều người. Trong giao tiếp, người ta thường sử dụng lời nói để biểu đạt ý nghĩ của mình, trao đổi thông tin với người khác; sử dụng ngôn ngữ không lời, như nét mặt, cử chỉ, động tác… để biểu lộ tình cảm, thông tin muốn chuyển tải.
Giao tiếp là quá trình tiếp xúc có mục đích. Người giao tiếp phải nỗ lực để cuộc giao tiếp đạt kết quả nên cần hiểu mình tiếp xúc với ai, nói gì, nói như thế nào… để đôi bên hiểu rõ thông tin cần thiết. Như vậy, giao tiếp không đơn giản chỉ là nói chuyện với ai đó. Về kỹ năng, một người có thể giao tiếp thành công hơn người khác nhờ khiếu ăn nói, óc linh hoạt, khả năng hài hước. Tuy nhiên để giao tiếp thành công cần rèn luyện, thực hành, rút kinh nghiệm và lúc đó năng khiếu sẽ là lợi thế kèm theo.
1.1.2. Đặc điểm của giao tiếp.
1.1.2.1.Tính mục đích.
Giúp người nghe hiểu những dự định của chúng ta;
Có được sự phản hồi từ người nghe;
Duy trì mối quan hệ tốt đẹp với người nghe .
Truyển tải được những thông điệp. Quá trình này có khả năng bị mắc lỗi do thông điệp thường được hiểu hoặc dịch sai đi bởi 1 hay nhiều hõn những thành phần khác tham gia vào quá trình này.
Khi không thành công, những suy nghĩ, ý tưởng của bạn sẽ không phản ánh được những cái đó của chính bạn, gây nên sự sụp đổ trong giao tiếp và những rào cản trên con đường đạt tới mục tiêu của bạn - cả trong đời tư và trong sự nghiệp.
1.1.2.2. Tính chuẩn mực.
Lễ nghi là một tiêu chí quan trọng trong xã hội văn minh hiện đại, đó là nội dung quan trọng trong hoạt động giao tiếp xã hội, và cũng là hình thức biểu hiện bên ngoài của văn hoá đạo đức xã hội, phản ánh tố chất công dân một quốc gia.
Phong cách xã giao là tài năng, là sự sáng tạo, là nhu cầu, là cách đối đãi của mỗi con người. Sự khéo léo trong giao tiếp sẽ tạo cho con người có thêm sức thu hút và thành công hơn, nếu như được vun đắp hơn nữa sẽ còn may mắn trong vận mệnh hơn rất nhiều.
Trong cuộc sống và công việc thường ngày, khéo léo trong đối nhân xử trhế còn có thể điều tiết mối quan hệ giữa con người với con người. Trên một ý nghĩa nhất định mà nói, lễ nghi xã giao là một côn cụ điều tiết sự phát triển hài hòa và mỗi quan hệ cộng đồng, con người khi giao tiếp với nhau cũng phải theo một quy phạm đối nhân xử thế, nó có tác dụng tích cực tăng cường sự tông trọng lẫn nhau, thiết lập mối quan hệ hợp tác hữu nghị, tránh tối đa những mâu thuẫn và xung đột không đáng có. Thông thường mà nói, con người nhận được sự tôn trọng, tiếp đãi ân cần, sự tán đồng và giúp đỡ sẽ có sự mạnh rất lớn, tạo được mối quan hệ tốt đẹp với mọi người, còn ngược lại, có thể sẽ gây cho người khác sự ác cảm, sự thù địch, cố chấp, nhìn chung sẽ tạo ra một tâm lý không được tốt.
Chuẩn mực giao tiếp thời hội nhập với đặc điểm nổi bật ở sự thời thượng, mới mẻ, toàn diện, và phổ biến sẽ là một cẩm nang giao tiếp thiết thực dành cho bạn trong cuộc sống. Thời đại ngày nay, nhịp sống và làm việc của mỗi người ngày càng khẩn trương, không phải ai cũng biết hế lễ nghi, thông thạo phong tục, tuy nhiên mỗi người chúng ta cũng điều biết được phong cách xã giao cần thiết để phục vụ cho công việc và giao tiếp với mọi người xung quanh. Sách sẽ giúp độc giả lĩnh hội được những chuẩn mực tối ưu nhất về lễ nghi giao tế trong nhiều phương diện, hoàn cảnh, lĩnh vực của cuộc sống hàng ngày.
1.1.3. Phân loại giao tiếp:
Con người có rất nhiều cơ hội giao tiếp với những người khác. Giao tiếp có thể phân biệt thành nhiều loại khác nhau.
1.1.3.1.Giao tiếp nội tâm:
Khi con người trò truyện với chính bản thân họ, quá trình giao tiếp này diễn ra trong bộ não. Nó bao gồm những suy nghĩ, ký ức, và nhận thức trong suốt quà trình giao tiếp. Hầu hết hành vi phản ứng đối với các cấp độ giao tiếp chủ yếu đều bắt nguồn từ giao tiếp nội tâm. Ở cấp độ này, chủ thể đặt ra những quy tắc cho bản thân và các kiểu mẫu giao tiếp. Giao tiếp nội tâm bao gồm:
Giác quan – Ví dụ: các mô hình diễn giải, văn bản, ký hiệu, biểu tượng.
Giao tiếp không bằng lời nói – Ví dụ: các động tác, giao tiếp bằng mắt.
Giao tiếp giữa các bộ phận trên cơ thể – Ví dụ: “Bao tử của tôi nói với tôi là đã đến giờ ăn trưa rồi”.
Mơ mộng.
Giấc mơ ban đêm.
Những hình thức khác.
1.1.3.2. Giao tiếp ứng xử:
Giao tiếp ứng xử được hiểu là việc giao tiếp giữa hai cá nhân riêng biệt. Hình thức giao tiếp này diễn ra khi hai con người giao tiếp với nhau hoặc giao tiếp theo nhóm. Điều này cũng có nghĩa là con người có thể nắm bắt được việc giao tiếp với những con người khác nhau trong những hoàn cảnh khác nhau và làm cho người đó cảm thấy hài lòng. Những động tác như giao tiếp bằng mắt, vận động cơ thể, và các động tác tay cũng là một phần của giao tiếp ứng xử. Các chức năng phổ biến nhất của việc giao tiếp ứng xử là nghe, nói và giải quyết mâu thuẫn. Phân loại giao tiếp ứng xử đi từ giao tiếp ngôn ngữ đến phi ngôn ngữ và từ tình huống này đến tình huống khác. Giao tiếp ứng xử bao gồm việc giao tiếp trực diện có mục đích và thích hợp.
1.1.3.3. Giao tiếp theo nhóm nhỏ:
Giao tiếp theo nhóm nhỏ là một quá trình tác động qua lại diễn ra theo nhóm ba người hoặc nhiều hơn để đưa ra được những mục tiêu chung bao gồm giao tiếp trực diện và các loại giao tiếp qua trung gian. Loại giao tiếp này thỉnh thoảng cũng bao gồm giao tiếp ứng xử chỉ có một điểm khác biệt chủ yếu là số lượng người tham gia vào quá trình này. Giao tiếp theo nhóm nhỏ có thể là buổi nói chuyện giữa các thành viên gia đình trong bữa ăn tối, hoặc một buổi họp được diễn ra bởi một vài thành viên trong tổ chức.
1.1.3.4. Giao tiếp cộng đồng:
Khi một người gửi thông điệp cho một bộ phận khán giả, không phân biệt những cá nhân khác nhau. Không giống với các cấp độ giao tiếp kể trên, người phát ngôn đóng vai trò chủ yếu trong quá trình giao tiếp này.
1.1.3.5. Giao tiếp tập trung:
Quá trình giao tiếp tập trung diễn ra khi một nhóm người nhỏ gửi thông điệp cho một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua một phương tiện truyền thông cụ thể. Quá trình này biểu hiện sự hình thành và truyền bá một thông điệp đến một bộ phận tiếp nhận lớn thông qua phương tiện truyền thông.
1.1.3.6. Giao tiếp phi ngôn ngữ:
Trong giao tiếp phi ngôn ngữ, con người truyền những thông điệp cho nhau không sử dụng ngôn ngữ. Họ giao tiếp thông qua những biểu hiện trên gương mặt, vị trí đầu, tay và cử động tay, cử động của cơ thể, vị trí của chân và bàn chân. Con người cũng có thể dùng “khoảng cách” để diễn đạt một thông điệp. Bằng cách để ý đến giao tiếp phi ngôn ngữ, một người có thể hiểu được những thông điệp từ người khác, và chuyển thông điệp đến người khác. Sự chú ý đến việc giao tiếp phi ngôn ngữ giúp con người:
Diễn đạt sự tự tin và hiểu biết.
Chứng minh được sức mạnh và tầm ảnh hưởng.
Diễn tả lòng chân thành, sự hứng thú và tinh thần hợp tác.
Tạo dựng lòng tin.
Nhận ra tâm trạng của bản thân và của những người khác.
Khám phá sự khác biệt giữa những gì người khác đang nói và những điều người đó đang nghĩ.
Thay đổi hành vi và không gian giao tiếp để tạo nên những cuộc thảo luận có hiệu quả hơn.
03 châm ngôn về giao tiếp.
Châm ngôn 1: Giao tiếp là phương thuốc thần kỳ chữa lành mọi tai họa của chúng ta – Panacea
Châm ngôn 2: Giao tiếp có thể phá vỡ (Điều này có thể trái ngược với quan niệm giao tiếp không thể bị phá vỡ trong khi máy móc có thể bị phá vỡ).
Châm ngôn 3: Giao tiếp đơn thuần là việc xây dựng một kỹ năng. Giao tiếp là một quá trình phức tạp cần phải nắm bắt và thấu hiểu một cách toàn diện.
1.1.4. Kỹ năng giao tiếp cơ bản:
1.1.4.1. Hãy là một người lắng nghe tốt.
Hãy chú ý lắng nghe các nhân viên của bạn. “Nghe có vẻ rất đơn giản, nhưng đây là một trong những thiếu sót giao tiếp lớn nhất mà các nhà quản lý thường mắc phải”, - Maureen Dolan Rosen, một chuyên gia nhân sự tại hãng Chapel Hill , - cho biết. Trong số những điều Maureen nhấn mạnh tại các hội thảo quản lý là: “Hãy học cách lắng nghe tốt hơn”. Bà cũng dẫn chứng một câu truyện về ông sếp của bà trước đây, người luôn đặt tay dưới cằm và im lặng nghe mọi người xung quanh nói chuyện tại các cuộc họp bàn, hội thảo. Nhưng nếu quan sát kỹ một chút, bạn sẽ thấy sau cặp mắt kính, hai mắt ông nhắm nghiền. Ông đã sử dụng cuộc họp để chợp mắt trong chốc lát.
1.1.4.2. Dành thời gian cho nhân viên.
Thông thường, những cuộc nói chuyện trực tiếp với các nhân viên trong công ty là rất quan trọng; chỉ khi các nhân viên làm việc ở xa, bạn mới nên nói chuyện qua điện thoại. Nếu bạn không thể gặp gỡ hàng tuần, hãy thực hiện ít nhất một lần trong một tháng. Và bạn đừng nghe điện thoại khi đang họp, trừ khi có việc khẩn cấp. Hãy thể hiện cho nhân viên thấy sự quan tâm đầy đủ của bạn. Bạn nên nói chuyện về con đường sự nghiệp của họ và bạn đang hình dung thế nào về sự thăng tiến của họ trong công ty.
1.1.4.3. Trò chuyện với nhân viên về công việc.
Bạn nên thường xuyên tiếp cận để tìm hiểu về các thay đổi tại công sở từ trên xuống dưới. Việc này có thể khá khó khăn. Bạn sẽ rất dễ quên những việc cần phải nói với một ai đó về điều họ cần biết liên quan tới công việc của họ, nhưng bạn cần nhớ rằng: Công việc có thể không được hoàn thành và bạn có thể là người duy nhất biết những điều mà mọi người chưa biết.
1.1.4.4. Đưa ra những thông điệp nhất quán về những quan điểm của bản thân.
Điều này giúp các nhân viên của bạn đưa ra được những quyết định tốt hơn (hay ít nhất là những quyết định bạn sẽ cảm thấy phù hợp hơn). Nếu thông tin bạn đưa ra mỗi lúc một khác, nhân viên của bạn sẽ rơi vào trạng thái mơ hồ và bạn sẽ phải chịu hậu quả do những quyết định sai lầm của họ.
1.1.4.5. Định kỳ đưa ra các phản hồi, ý kiến đánh giá; tránh những điều ngạc nhiên bất ngờ.
Đừng để đến buổi họp thường niên, các nhân viên mới phải giật mình trước những đánh giá của bạn về công việc họ làm. Họ nên biết trước và sẵn sàng lắng nghe các ý kiến của “sếp” rằng có một vài điều họ cần phải cải thiện nhằm đáp ứng nhu cầu công việc tốt hơn. Những buổi đánh giá thường niên nên là nơi bạn tổng kết lại và cùng với các nhân viên thảo luận phương hướng hành động trong thời gian tới.
1.1.4.6. Học cách giao tiếp trò chuyện trước các nhóm nhân viên.
Vấn đề ở đây không phải là kỹ năng diễn thuyết trước đám đông, mà là khả năng trò chuyện với một nhóm nhân viên cụ thể. Nếu bạn không thể nói chuyện tốt tại các buổi họp hay trước một nhóm nhân viên, bạn sẽ đánh mất vị thế của một nhà quản lý như một người có năng lực lãnh đạo và đáng tin cậy. Hãy học cách để làm được điều này, học cách để trò chuyện tự tin và truyền cảm hơn. Bạn cũng cần lưu ý tới những điều tương tự khi viết e-mail đồng gửi cho nhiều nhân viên.1.1.4.7. Đừng che đậy đằng sau các e-mail.
E-mail là một công cụ giao tiếp quan trọng, nhưng hầu hết các vấn đề tế nhị cần phải được thảo luận cá nhân. Các xung đột cũng cần phải được giải quyết trong khuôn khổ cá nhân, bằng cách mặt đối mặt hay ít nhất là qua điện thoại. Khi vấn đề liên quan đến các cảm xúc, tình cảm..., thì e-mail chính là một phương tiện giao tiếp kém hiệu quả nhất. Và e-mail cũng chưa bao giờ là cách thức phù hợp để nói với ai đó rằng họ đang làm việc không hiệu quả.
1.2. Môi trường giao tiếp:
1.2.1. Môi trường gia đình:
Giao tiếp trong gia đình tưởng chừng đơn giản, nhưng thực tế lại là một kỹ năng khá khó. Nếu biết cách giao tiếp thì mối quan hệ trong gia đình bạn sẽ rất bền chặt.
Sự giao tiếp được định nghĩa là việc diễn đạt suy nghĩ, tình cảm và ý tưởng của bạn. Một phần cốt yếu của việc giao tiếp tích cực là lắng nghe.Đối với con cái, sự giao tiếp tích cực có thể giúp chúng cảm thấy thoải mái khi nói và chia sẻ suy nghĩ cũng như tình cảm của chúng một cách thẳng thắn. Chúng cũng có thể học cách tôn trọng ý kiến, tình cảm và suy nghĩ của người khác.Là phụ huynh hay người chăm sóc trẻ, bạn có thể có những biện pháp quan trọng nhằm xây dựng mối giao tiếp lành mạnh với trẻ con.
1.2.2. Môi trường nhà trường:
Giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với giáo dục. Hay nói một cách cụ thể hơn thì ở phương diện nào đó giáo dục chính là giao tiếp. Không có giao tiếp không có giáo dục. Ngoài ra giao tiếp không chỉ là hình thức, phương tiện của giáo dục mà còn là một nội dung quan trọng của giáo dục. Giáo dục văn hóa giao tiếp trong nhà trường hiện nay có hai điểm cần lưu ý. Thứ nhất là truyền thống và hiện đại. Ở đây vai trò của nhà trường là rất quan trọng. Chính nhà trường chứ không phải chính phủ, báo chí hay dư luận xã hội sẽ quyết định vấn đề này. Chào như thế nào, thưa như thế nào, xưng hô ra sao…nhà trường sẽ lựa chọn và quy định. Quy định này không phải do hiệu trưởng quy định mà phải dựa trên cơ sở khoa học, trên các nghiên cứu, tham vấn… Thứ hai là dân tộc và quốc tế, chính công cuộc hội nhập và phát triển một cách ồ ạt của CNTT đã tạo ra một “thế giới phẳng” khiến cho khoảng cách giữa các dân tộc, quốc gia và con người được rút ngắn lại rất nhiều, cử chỉ, cách xưng hô cũng ảnh hưởng, pha trộn nhau..khiến cho tính văn hóa, đạo đức trong ngôn ngữ giao tiếp ít nhiều bị ảnh hưởng.
Ngoài việc gắn chặt giáo dục với giao tiếp thì giáo dục văn hóa giao tiếp trong học đường cũng cần phải gắn chặt với giáo dục đạo đức học đường. Trong đó, mỗi giảng viên nhà trường phải phấn đấu là tấm gương mẫu mực thể hiện văn hóa giao tiếp trong công việc cũng như cuộc sống hàng ngày. Bên cạnh những điểm quan trọng trên, việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho học sinh nên được thực hiện mạnh mẽ trong Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, hoạt động xã hội, đặc biệt trong các hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, trong kiến tập, thực tập sư phạm…có như thế mới mong phục dựng được văn hóa giao tiếp trong học đường đang ngày càng xuống cấp như hiện nay.’’.
Trường học là nơi truyền bá những nét đẹp của văn hóa một cách khuôn mẫu và bài bản nhất. Nét đẹp văn hóa trong giao tiếp cũng đòi hỏi các nhà sư phạm dạy cho học sinh những điều mẫu mực nhất. Việc xây dựng chuẩn mực về lời nói, hành vi trong giao tiếp, ứng xử một cách mẫu mực trong các trường học nói chung và các trường sư phạm nói riêng đòi hỏi về phiá nhà trường phải đưa ra những chuẩn mực trong chương trình giảng dạy.Chính vì thế việc phần đông đại biểu khẳng định quan điểm văn hóa giao tiếp không thể tách rời môi trường giáo dục để làm rõ một quan điểm rằng: muốn nâng cao văn hóa ứng xử của học sinh trong học đường con đường gần nhất, hiệu quả nhất không thể nằm ngoài mối quan hệ tương hỗ lẫn nhau giữa giáo dục và giao tiếp.
Sự khéo léo ứng xử của người thầy - nhà sư phạm trong giao tiếp là điều cần thiết để xây dựng các mối quan hệ quản lý, giáo dục và giảng dạy tốt đẹp. Điều đó có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo dựng môi trường sư phạm lành mạnh có tác động tích cực. Từ nền tảng vững bền trên, mỗi nhà trường cần phải tìm ra điều tốt nhất trong mỗi con người, phát huy những ưu điểm, hạn chế thấp nhất những nhược điểm, những bất cập ảnh hưởng đến quá trình giao tiếp trong nhà trường thì tất yếu chúng ta sẽ tạo được môi trường giao tiếp có văn hóa trong học đường một cách bền vững.
Giải pháp nào để nâng cao văn hóa giao tiếp trong nhà trường, để có một môi trường văn hóa học đường lành mạnh,đó là chúng ta cần phải kết hợp từ cả ba phía, gia đình cùng với nhà trường và xã hội. Trong đó, ông đề nghị chúng ta cần sớm tổ chức nghiên cứu, đánh giá một cách chính thức trên quy mô toàn quốc về thực trạng văn hóa học đường để trên cơ sở đó nghiên cứu, xây dựng, cải tiến các chương trình giảng dạy cả chính khóa , ngoại khóa hướng vào đổi mới toàn diện và đi vào thực chất việc giáo dục văn hóa giao tiếp cho HS-SV. Khẩn trương nghiên cứu các mô hình tổ chức lớp, giáo viên chủ nhiệm, mạng lưới tư vấn học đường, cũng như tập trung cao cho giáo dục văn hóa học đường từ các bậc học phổ thông, nhằm tăng cường sự phối hợp giữa nhà trường và ban đại diện cha mẹ học sinh. Nghiên cứu xây dựng chương trình dành riêng nhằm gia tăng vị thế giáo viên trong quá trình rèn luyện, giáo dục văn hóa giao tiếp cho HS-SV. Để thực hiện điều này ngành giáo dục cần sớm củng cố lại hệ thống các trường sư phạm trong cả nước theo định hướng xây dựng môi trường văn hóa giao tiếp sư phạm đặc trưng mà ở đó người thầy vừa truyền dạy cho học trò các bài học giáo khoa, vừa để lại cho trò “bài học làm người”.
Để nâng cao văn hóa giao tiếp trong học đường hiện nay thì văn hóa giao tiếp trong gia đình phải cần được chú ý trong chương trình đào tạo giáo viên nhiều hơn. Môi trường lớp học phải được xây dựng gần gũi nhờ môi trường gia đình. Vì trong môi trường thân thiện như vậy học sinh sẽ đón nhận những tình cảm yêu thương của thầy cô giáo như người thân trong gia đình. Đồng thời, qua việc giao tiếp một cách thoải mái tự nhiên, không bị tâm lý gò bó, không dám nói áp đặt các em học sinh sẽ hợp tác , trao đổi với giáo viên một cách thoải mái hơn từ đó có điều