Hoa lan là một trong những giống hoa rất được yêu thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì vậy hiện nay, rất nhiều hộ gia đình đang có thú chơi hoa lan. Nguyên nhân của trào lưu trên là do cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu tạo góc vườn nhỏ, mang màu xanh cây lá thiên nhiên vào trong nhà của những người dân ngày càng cao. Với ưu điểm ít chiếm diện tích, không quá khó trồng, cho hoa đẹp lại lâu tàn nên việc chọn, trồng và tạo một vườn lan nhỏ trong khuôn viên nhà là sự lựa chọn của nhiều người.
105 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2228 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ khoáng đa lượng đến sự hình thành và phát triển chồi lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS (Temporary Immersion System), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề
Hoa lan là một trong những giống hoa rất được yêu thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì vậy hiện nay, rất nhiều hộ gia đình đang có thú chơi hoa lan. Nguyên nhân của trào lưu trên là do cuộc sống ngày càng phát triển, nhu cầu tạo góc vườn nhỏ, mang màu xanh cây lá thiên nhiên vào trong nhà của những người dân ngày càng cao. Với ưu điểm ít chiếm diện tích, không quá khó trồng, cho hoa đẹp lại lâu tàn nên việc chọn, trồng và tạo một vườn lan nhỏ trong khuôn viên nhà là sự lựa chọn của nhiều người.
Bên cạnh đó, hoa lan là sản phẩm cây trồng có giá trị kinh tế cao, ngày càng có nhiều cơ sở kinh doanh hoa lan mọc lên, kinh doanh nhiều chủng loại. Nhưng làm sao để có số lượng lớn cây giống, đồng đều, chất lượng cao là một vấn đề khó.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của công nghệ sinh học, ngành vi nhân giống cây đặc biệt trên đối tượng cây hoa lan từng bước phát triển, nhiều đơn vị nhà nước cũng như tư nhân đã mạnh dạn đầu tư để sản xuất cây giống phục vụ cho nông dân. Tuy nhiên qui mô cũng như những hạn chế về đội ngũ kỹ thuật cũng như kiến thức về lĩnh vực này có hạn, vì thế cây giống có chất lượng thấp không đồng đều, không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Hầu hết các giống hoa lan phải nhập giống từ Thái Lan, trong đó Hồ điệp chủ yếu được nhập từ Đài Loan.
Hiện nay, việc nghiên cứu và nhân giống hoa lan đã được tiến hành ở nhiều nơi, nhưng hầu hết đều chưa có thành tựu nào đột biến để ngành nhân giống hoa lan phát triển đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Những thành công hiện nay thường là nhân giống với qui mô sản xuất nhỏ. Trong đó kỹ thuật nhân giống hoa lan phổ biến hiện nay là nhân giống trên môi trường thạch. Phương pháp này có nhược điểm là chi phí giá thành cây giống cao do thời gian nuôi cấy dài, độä đồng đều cây giống thấp, khó áp dụng sản xuất theo qui mô công nghiệp.
Hiện nay trên Thế giới nhiều nước có ngành Công nghệ Sinh học phát triển đã ứng dụng các công nghệ cao để nhân nhanh giống cây trồng như: hệ thống fermenter, bioreactor, quang tự dưỡng,… Ở nước ta các công nghệ này mới chỉ thực hiệân ở phòng thí nghiệm của một số trường Đại Học, Viện Nghiên cứu hoặc Trung tâm Công nghệ Sinh học trong mấy năm gần đây. Tuy nhiên việc nghiên cứu xác định môi trường thích hợp cho từng cây trồng nhân bằng các hệ thống này còn rất hiếm.
Để từng bước áp dụng công nghệ mới trong sản xuất cây lan giống ở nước ta, đẩy nhanh tiến độ sản xuất cây giống theo qui mô công nghiệp, góp phần khắc phục sự thiếu hụt cây giống trong sản xuất hiện nay. Chúng tôi tiến hành đề tài: "Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ khoáng đa lượng đến sự hình thành và phát triển chồi lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS (Temporary Immersion System)".
2. Mục tiêu nghiên cứu
Xác định ảnh hưởng nồng độ các khoáng đa lượng trong môi trường nuôi cấy mô Murashige & Skoog (MS) đến sự hình thành và phát triển chồi lan Phalaenopsis Yubidan và lan Dendrobium Sonia, nhằm thiết lập môi trường thích hợp để nhân chồi lan (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS (Temporary Immersion System).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nồâng độ các khoáng đa lượng trong môi trường MS lỏng ảnh hưởng tới chồi nhân bằng hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS, đối với hai giống lan Hồ điệp (Phalaenopsis Yubidan) và lan Dendrobium Sonia. Đây là vật liệu nền rất quan trọng trong nuôi cấy mô vi nhân giống hoa lan.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Ý nghĩa khoa học:
Hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS thuộc dạng bioreactor đơn giản. Nhiều nghiên cứu trên Thế giới đã xác định áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống cây trồng mang lại hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cây giống tốt, nâng hệ số nhân chồi gấp 3-20 lần so với phương pháp nhân truyền thống, rút ngắn được thời gian nuôi cấy trong phòng, góp phần làm giảm giá thành sản phẩm cây giống.
Ý nghĩa thực tiễn:
Áp dụng công nghệ TIS trong vi nhân giống hoa lan ở nước ta là một công nghệ mới, nó sẽ mở ra một triển vọng cho việc sản xuất cây giống theo qui mô công nghiệp, đáp ứng đủ lượng cây giống với chất lượng cao cho sản xuất trong nước và cho xuất khẩu.
Cây lan giống sản xuất bằng hệ thống TIS trong nước giúp người nông dân chủ động sản xuất, hạn chế nhập cây giống từ nước ngoài, góp phần ngăn chặn được dịch bệnh lây lan từ nước ngoài qua con đường cây giống.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài thực hiện nhân chồi trong hệ thống nuôi cấy ngập tạm thời TIS, nghiên cứu 6 môi trường nuôi cấy lỏng với các nồng độ khoáng đa lượng khác nhau trên giống lan Phalaenopsis Yubidan và giống lan Dendrobium Sonia. Thí nghiệm bố trí kiểu đầy đủ ngẫu nhiên hoàn toàn, gồm 6 nghiệm thức và 3 lần lặp lại.
TÓM TẮT
Trong nuôi cấy mô vi nhân giống lan, chồi là nguyên liệu nền rất quan trọng hình thành cây giống. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng và chất lượng cây giống. Sự hình thành và phát triển của chồi phụ thuộc vào các yếu tố trong môi trường nuôi cấy. Đề tài nghiên cứu nồng độ các khoáng đa lượng trong môi trường nuôi cấy MS ảnh hưởng đến chồi hai giống lan Phalaenopsis Yubidan và lan Dendrobium Sonia. Kết quả đã xác định được ảnh hưởng của khoáng đa lượngđến hệ số nhân chồi hai giống lan nhiên cứu. Nếu giảm ½ khoáng đa lượng trong môi trường MS, bổ sung 1mg/ml BA, 0,5mg/l NAA, 0.5g/l PVP, 1g/l tryptone và 30g/l sucrose sẽ tạo số chồi cao, chất lượng chồi tốt cho cả hai giống lan. Đối với lan Phalaenopsis Yubidan, nếu tăng dần khoáng đa lượng: ¼, ½ , 1 ở giai đoạn: 2 tuần, 4-6 tuần, 8 tuần sẽ thúc đẩy nhanh khả năng tạo chồi.
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. GIỚI THIỆU VỀ HOA LAN VÀ KỸ THUẬT NHÂN GIỐNG
1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới và ở Việt Nam
1.1.1.1. Tình hình sản xuất hoa lan trên thế giới
Hoa lan được mệnh danh là nữ hoàng của các loài hoa, thị trường tiêu thụ hoa lan rộng khắp thế giới, mang lại lợi nhuận kinh tế cao cho nhiều nước.
Thị trường tiêu thụ hoa lan của khối châu Âu rất hấp dẫn. Năm 2006 khối EU có sản lượng xuất khẩu hoa lan trên thế giới đạt 55 tỉ sản phẩm, mang lại giá trị kim ngạch xuất khẩu hoa lan là 73 tỉ EUR. Trong đó, Hà Lan là một quốc gia duy nhất ở Châu Âu có công nghiệp trồng lan xuất khẩu, do trồng trong nhà kính nên Hà Lan có thể xuất khẩu hoa quanh năm, đồng thời là đầu mối trung gian nhập khẩu hoa lan (37%) từ các nước khác trên thế giới. Năm 2006, Hà Lan xuất khẩu hoa lan chiếm 95% (52.049 ngàn sản phẩm) tổng sản lượng hoa lan trong khối EU (Nguồn: AIPH/Union Fluers: Internaational Statistics Flowers and Plants 2007).
Mặc dù, khối châu Âu có sản lượng xuất khẩu hoa lan cao hơn so với các khối khác, nhưng do nhu cầu tiêu thụ hoa lan trong khối EU cao nên trong năm 2006 sản lượng nhập khẩu hoa lan từ các nước lên tới trên 155 tỉ sản phẩm, giá trị kim ngạch nhập khẩu đạt gần 90 tỉ EUR (Nguồn: AIPH/Union Fluers: Internaational Statistics Flowers and Plants 2007).
Hoa lan hiện nay đang là mặt hàng xuất khẩu chiến lược, mang lại nguồn lợi kinh tế cho nhiều Quốc gia Châu Á. Thái Lan là nước xuất khẩu chủ yếu là hoa lan nhiệt đới, đặc biệt là Dendrobium, phổ biến nhất là Dendrobium Sonia và jumbo White. Ngoài ra cũng còn còn một số loài nổi tiếng khác như Aranda, Mokara, Oncidium và Vanda. Hơn 80% Dendrobium trên thị trường Thế giới là từ Thái Lan. Chỉ với loại hoa lan chủ lực là Dendrobium, Thái Lan đạt doanh thu mỗi năm gần 600 triệu USD từ giá trị xuất khẩu loại hoa này.
Giá trị xuất khẩu năm 2000 khoảng 1.765 triệu baht. Dendrobium được chọn là sản phẩm vô địch bởi vì sản phẩm của nó xuất khẩu liên tục trong năm. Hiện tại, Thái Lan là nước đứng đầu thế giới về hoa lan. Nó trở thành niềm kiêu hãnh của người trồng hoa lan của Thái Lan. Hiện nay, Thái Lan có khoảng 24 triệu m2 trang trại trồng hoa lan (Nguồn: Thailand orchid export.htm).
Hiện nay, hoa lan của Thái Lan chiếm lĩnh rộng trên thị trường thế giới: Bắc Mỹ, Hiệp chủng quốc Hoa Kỳ, Canada, Tây Ban Nha, Thụy Điển, Ba Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, và một số nước Trung Đông và Châu Phi. Khách hàng chính vẫn là: Nhật, Ý, và Mỹ.
Trong khi đó, Đài Loan là nước đứng đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu hoa lan Hồ điệp bằng qui trình công nghệ cao, giá trị doanh thu từ xuất khẩu loại hoa này hàng năm khoảng 43 triệu USD. Trên thị trường thế giới, sản phẩm chủ yếu của hoa lan Hồ điệp là hoa chậu, sản phẩm này có giá trị kinh tế cao gấp nhiều lần so với hoa Hồ điệp cắt cành.
Hàng năm, Đài Loan sản xuất được 36 triệu Phalaenopsis. Trong đó, 12 triệu hoa lan được xuất khẩu ra các nước như: 3 triệu đến Nhật Bản; 3 triệu đến Trung Quốc; 2,5 triệu tới Hoa Kỳ và 3,5 triệu cho các quốc gia khác. Trong tháng 6/2004, Hoa Kỳ đã cung cấp giấy phép xuất khẩu Phalaenopsis cho Đài Loan trên thị trường Hoa Kỳ (Nguồn: The world’s fascination with potted orchids-Floraculture Int.htm).
1.1.1.2. Tình hình sản xuất lan ở Việt Nam
Diện tích trồng hoa ở Việt Nam hiện nay là 2.500 ha nhưng hoa lan chỉ chiếm 5–6%. Nước ta bắt đầu sản xuất và thương mại hoa lan tập trung khoảng 6 năm trở lại đây nhưng tốc độ phát triển khá nhanh. Chỉ riêng TP.HCM diện tích vườn lan tới nay đã gần 80 ha, hoa lan đang mang lại thu nhập cao cho nhiều nông hộ. Tuy nhiên hiện nay do cây giống trong nước không đủ cung cấp cho sản xuất, các nhà vườn nhập cây giống ồ ạt từ nước ngoài như: Thái Lan, Đài Loan, Trung Quốc (Nguồn: Báo cáo điều tra thống kê của Sở NN & PTNT TP. HCM năm 2008).
Theo thống kê của Sở NN & PTNT TP. HCM trong năm 2003 doanh số kinh doanh hoa lan cây kiểng chỉ đạt 200-300 tỉ đồng nhưng đến năm 2005 đã tăng đến 600-700 tỉ đồng và ngay từ đầu năm 2006 doanh số đạt được là 400 tỉ đồng.
Theo TS. Dương Hoa Xô - Trung tâm Công nghệ sinh học, đến nay đã hoàn thiện quy trình nhân giống in vitro cho 7 nhóm giống hoa lan, có khả năng cung cấp 200.000 cây con hoa lan cấy mô thuộc các nhóm Mokara, Dendrobium, Phalaenopsis, Catlleya. Năm 2007, đã cung cấp cho các nhà vườn khoảng 50.000 cây hoa lan cấy mô các loại. Năm 2008, sản xuất 100.000 cây giống hoa lan cấy mô, tập trung cho nhóm hoa lan cắt cành Mokara, Dendrobium và một số giống lan rừng quý.
Đến 2009, chiếm lĩnh thị trường hoa tết là những loại hoa mới, lạ, và cao cấp như: tiểu quỳnh, lily, tulip, địa lan, Hồ điệp ... nhân giống bằng công nghệ in vitro.
Hiện nay, rất nhiều loại hoa đã được sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô tại Việt Nam, như: lan dendro, lan Hồ điệp, vanda, catleya, vũ nữ, vạn thọ Pháp, cúc Đài Loan, hoa salem, cẩm chướng, hoàng thảo, hoa đồng tiền nhập nội (các giống Tamara, Banesa, Caliente, Redbull)... Thị trường tiêu thụ hoa trong nước ngày càng mở rộng, mỗi năm tiêu thụ hàng triệu cây hoa các loại, riêng hoa lan cũng gần 2 triệu cây.
Đặc biệt Đà Lạt là nơi sản xuất hoa lan sớm nhất cả nước với nguồn cây giống phong phú săn tìm trong rừng sâu. Lâm Đồng dẫn đầu cả nước về nguồn lợi lan rừng với 101 chi và 396 loài, chiếm 55,3% về chi và 76,5% về loài lan rừng của Việt Nam. Không ít loài lan được phát hiện lần đầu tiên trên thế giới mang tên Đà Lạt, 10/12 loài lan quý của Việt Nam phân bố ở vùng rừng Lâm Đồng. Những năm 1980, Đà Lạt đã xuất khẩu số lượng lớn cành hoa sang các nước Đông Âu.
Những năm gần đây, ngành sản xuất hoa lan ở Đà Lạt đã hồi sinh và phát triển mạnh mẽ nhờ ứng dụng kỹ thuật công nghệ cao vào sản xuất. Với công nghệ hiện đại, đã giúp làm giảm chi phí trồng từ 40.000-70.000 đồng/gốc lan trước đây, xuống chỉ còn 4.000-7.000 đồng/gốc. Sử dụng công nghệ nuôi cấy mô, và đặc biệt bằng phương pháp gây vết thương kết hợp nuôi cấy lỏng.
TS. Dương Tấn Nhựt cùng các cộng sự ở Phân viện Sinh học Đà Lạt đã nhân giống thành công Hồng hài - loài lan hài duy nhất trên thế giới có hương thơm, được Tổ chức Bảo vệ động thực vật hoang dã thế giới đưa vào danh mục thực vật cần bảo vệ bởi chỉ phân bố hẹp ở Việt Nam, khó sống, khó sinh sản.
Theo TS. Dương Tấn Nhựt, Thành phố Đà Lạt là cỗ máy điều hòa khổng lồ cho phép sản xuất địa lan trong thiên nhiên theo hướng công nghiệp với chi phí sản xuất chỉ bằng 1/10 so với các quốc gia phải trồng lan trong nhà kính, có hệ thống điều hòa nhiệt độ.
Lan Đà Lạt đã và đang mở rộng thị trường ra nhiều châu lục, trong đó có những thị trường khó tính như Mỹ, Nhật Bản, Đài Loan... Nhiều doanh nghiệp trong và ngoài nước đang tiến hành khảo sát lập trang trại sản xuất hoa lan quy mô lớn bởi tiềm năng, triển vọng đầu tư tại Đà Lạt là rất lớn so với Trung Quốc và các nước ASEAN khác.
1.1.2. Giới thiệu về giống lan Hồ điệp
Lan Hồ điệp là một trong những giống lan rất được yêu thích không chỉ về màu sắc, kiểu dáng mà còn mang một nét đẹp rất sang trọng và trang nhã. Chính vì vậy, nó đã nhanh chóng trở thành sản phẩm trồng trọt mang lại hiệu quả kinh tế cao không chỉ ở Việt Nam mà còn nhiều nước trên thế giới như Đài Loan, Nhật Bản, Hà Lan, Mỹ…
Loài hoa đẹp này thường trồng chậu và người ta thường có dịp gặp nhiều nơi như trên ti vi, trong nhà, trong vườn, tạp chí, nơi bạn làm việc và thậm chí được dùng làm quà tặng cao cấp giá trị. Bên cạnh đó hoa Hồ điệp rất lâu tàn, độ bền bông cao nên là sự lựa chọn làm vật trang trí, tạo cảnh quan trong các ngày lễ, tết.
1.1.2.1. Phân loại
Vị trí phân loại:
Giới Plantae Thực vật
Ngành Magnoliophyto Ngọc Lan
Lớp Lipliopsida Hành
Phân lớp Liliidae Hành
Bộ Orchidales Lan
Họ Orchidaceae Lan
Chi Phalaenopsis Lan Hồ điệp
1.1.2.2. Nguồn gốc và sự phân bố
Phalaenopsis Hồ điệp, có tên từ chữ Grec Phalaina có nghĩa là bướm và Opsis có nghĩa là sự giống nhau. Lan Hồ điệp là lan có hoa giống bươm bướm phất phơ rất đẹp. Giống Hồ điệp có trên 70 loài và ngày càng được lai tạo ra rất nhiều. Hồ điệp là một loại lan đại chúng được xếp vào bậc nhất. Hoa to, hình dáng đẹp, nhiều màu, dễ trồng. Vì những đặc điểm trên Hồ điệp hiện nay rất được ưa chuộng.
Hồ điệp được khám phá năm 1750, đầu tiên được ông Rumphius đặt tên là Angraecum album. Năm 1753 Linne đổi tên thành Epidendrum. Năm 1825 nhà thực vật Hà Lan định danh lại là Phalaenopsis.
Hồ điệp phân bố chủ yếu ở Malay, Indo, Philippine, phía đông Ấn Độ và Úc. Ở Việt Nam cũng có một số loài vì có hoa nhỏ nên được gọi là tiểu Hồ điệp. Hồ điệp có thể mọc ở khí hậu nhiệt đới và đồi núi cao 2000 m nên vừa chịu được khí nóng ẩm vừa chịu được khí hậu mát.
Một số loại lan Hồ Điệp rừng ở Việt Nam:
Hồ điệp dẹt (Phalaenopsis Coenu). Cây sống phụ, rễ lớn, không có thân, lá hình bầu dục thuôn dài. Phát hoa dài 30 cm, hoa màu vàng xanh, có từ 6- 12 hoa, hoa nở rất lâu tàn và có hương thơm. Cây mọc ở miền Trung, có dáng đẹp có thể trồng ở Đà Lạt. Hoa nở vào mùa thu.
Hồ điệp ấn (Phalaenopsis Mannii). Cây mảnh, có lá dạng bầu thuôn, hơi cong, màu xanh bóng. Phát hoa dài thường buông thòng xuống, hoa tập trung ở đỉnh cánh màu vàng nghệ với vân màu đỏ. Cây mọc ở Trung Bộ, Đà Lạt- Lâm Đồng. Hoa nở vào mùa hè.
Lan Hồ điệp trung (Phalaenopsis parishii). Cây nhỏ, lá hình trái xoan, màu xanh bóng, rụng vào mùa khô. Phát hoa mọc thẳng đứng, mang 3-9 hoa ở đỉnh màu vàng nhạt môi hồng tươi, giữa có 2 vạch nâu. Cây mọc đẹp, hoa đứng, màu sắc sặc sở nên được trồng làm cảnh, trang trí trong phòng hợp. Hoa nở mùa xuân.
Lan tiểu Hồ điệp hay Hồ điệp nhài (Phalaenopsis Pulcherrima). Cây nhỏ sống trên đất cát trong các rừng chồi, rễ mập khỏe, lá hình trái xoan. Phát hoa nở dài mang hoa ở đỉnh. Hoa có màu trắng, hồng tím… Hoa nhỏ, cánh bầu dục, lưỡi có màu đậm hơn, họng màu tím. Cây mọc ở miền Trung, Đồng Nai, Bình Châu… Cây ra hoa vào mùa mưa.
Ngoài ra còn một số cây như: Phalaenopsis manni, Phalaenopsis gibbosa, Phalaenopsis lobbii, Phalaenopsis fuscata, Phalaenopsis cornu cervi, Phalaenopsis petelotii... Những cây này thường có hương thơm.
Một số cây Hồ điệp ngoại nhập có hoa đẹp:
Ph. Pilong Cardino + Phuket beauty có hoa chùm to đẹp, đài và cánh đều trắng tinh, lưỡi đỏ uốn cong, có hai râu dài rất đẹp, hoa rất lâu tàn.
Ph. Gaint Forst “ Snowbound” đài và cánh đều trắng tuyền, to, kín, lưỡi nhọn màu vàng, rất đẹp.
Phalae- Rousserol “Francois Lecouple”, đài và cánh màu hồng có rất nhiều chấm đỏ, lưỡi vàng rất đẹp.
Ph. Sujianna Wijanto “Sunshine” toàn màu vàng tươi có đốm đỏ nhỏ rất đẹp.
1.1.2.3. Đặc điểm thực vật
Hồ điệp là loài lan đơn thân, mập, ngắn, lá to, dày mọc sát vào nhau. Đây là giống gồm các loài có hoa lớn, đẹp. Phát hoa mọc từ nách lá, dài, đơn hay phân nhánh, cánh hoa phẳng, trải rộng, hoa nở từng cái, 3 đài to tròn, 2 cánh xòa rộng kín. Môi cong, dẹp, có 2 râu dài. Trụ có hình bán nguyệt với 2 phân khối u lên chứa đầy phấn hoa. Ngày nay Hồ điệp được lai tạo với nhiều màu sắc và kích thước đa dạng: trắng, tím, đỏ, vàng, hồng.
Lan có rễ khí sinh phát triển mạnh, màu lục, phía ngoài có một lớp mô xốp dày gọi là màng bao - có tác dụng dự trữ nước và bảo vệ rễ khỏi bị khô. Lá đơn nguyên, dày, không cuống và có bẹ, dạng bầu dục, màu xanh bóng, đậm và nhẵn.
Hoa mọc thành cụm, lưỡng tính, đối xứng hai bên. Bao hoa dạng cánh, rời nhau, xếp thành hai vòng: ba mảnh vòng ngoài và hai mảnh vòng trong bé hơn, mảnh thứ ba có hình dạng và màu sắc khác hẳn gọi là cánh môi. Gốc cánh môi thường kéo dài ra, chứa tuyến mật. Nhị và nhụy dính liền thành cột nhị nhụy. Hạt phấn thường dính lại thành khối phấn. Hai khối phấn ngăn cách nhau bởi trung đới. Bộ nhụy gồm 3 lá noãn dính nhau thành bầu dưới, mang nhiều noãn, đính bên.
Quả của lan Hồ điệp thuộc loại quả nang, mở bằng các khe nứt dọc theo hai bên đường của giá noãn. Quả lan chứa rất nhiều hạt, tùy vào giống, loài mà