Sau hơn mười năm đổi mới, nước ta đã trải qua một quá trình biến đổi mạnh mẽ đầy ấn tượng trong lịch sử kinh tế. Nền kinh tế vĩ mô tăng trưởng, tốc độ tăng GDP 8% -10%/ năm.Trong đó, lĩnh vực dịch vụ thương mại có mức tăng bình quân cao nhất 12%. Xuất khẩu tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày một tăng cao. Trong quá trình đó, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có những chuyển biến tích cực, không ngừng hoàn thiện để vươn lên và tự khẳng định trên thương trường.
55 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1332 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Sau hơn mười năm đổi mới, nước ta đã trải qua một quá trình biến đổi mạnh mẽ đầy ấn tượng trong lịch sử kinh tế. Nền kinh tế vĩ mô tăng trưởng, tốc độ tăng GDP 8% -10%/ năm.Trong đó, lĩnh vực dịch vụ thương mại có mức tăng bình quân cao nhất 12%. Xuất khẩu tăng nhanh, đời sống nhân dân ngày một tăng cao. Trong quá trình đó, các doanh nghiệp thương mại nhà nước đã có những chuyển biến tích cực, không ngừng hoàn thiện để vươn lên và tự khẳng định trên thương trường.
Song hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải cạnh tranh quyết liệt. Các doanh nghiệp thương mại nhà nước không còn được bao cấp như trước nên phải dựa vào khả năng của chính mình, phải năng động sáng tạo trong việc lựa chọn kinh doanh, trong tạo dựng các mối quan hệ làm ăn. Vì vậy không ít doanh nghiệp đã rơi vào tình trạng kinh doanh khó khăn, lúng túng và bị động, chưa tìm được những giải pháp hữu hiệu để đẩy mạnh và phát triển kinh doanh hiệu quả. Việc nghiên cứu, phân tích, đánh giá và đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh còn chưa được xem xét đúng mức, vì thế các giải pháp đẩy mạnh và phát triển kinh doanh còn thiếu tính khả thi.
Trong điều kiện hội nhập kinh tế Việt Nam và kinh tế khu vực ngày càng mở rộng, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn còn lúng túng trước hàng loạt vấn đề. Doanh nghệp phải làm gì trên lộ trình Việt Nam tham gia AFTA và hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT)? Doanh nghiệp phải làm gì trong việc hợp tác và phân công lao động quốc tế gữa các thành viên ASEAN? Doanh nghiệp phải làm gì để không còn phải chấp nhận gia công mà tự mua nguyên liệu bán thành phẩm trên thị trường quốc tế? Doanh nghiệp phải làm gì để giảm phụ thuộc vào các thị trường trung gian chen chân vào các thị trường cuối cùng? Rõ ràng, các doanh nghiệp đang rất cần phía Nhà nước, mà cụ thể trong lĩnh vực thuơng mại là các doanh nghiệp thương mại nhà nước mở đường, hướng dẫn và hỗ trợ để họ thích nghi dần với trào lưu tự do hoá thương mại trong nền kinh tế thế giới.
Về phương diện lý luận, vấn đề kinh doanh thương mại nói chung và các phương hướng giải pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước nói riêng còn nhiều ý kiến khác nhau và thiếu sự thống nhất trong đánh giá.
Vì tất cả những lý do trên, việc nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước ở nước ta hiện nay là hết sức cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
Nhận thức được ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề này, tôi đã lựa chọn đề tài:"Nghiên cứu các biện pháp mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước".
Nội dung đề tài gồm các phần:
- Lời mở đầu.
-Chương I: Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
-Chương II: Thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp thương mại nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
-Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước.
-Kết luận.
Vấn đề mở rộng và phát triển kinh doanh ở các doanh nghiệp thương mại nhà nước là một vấn đề lớn và phức tạp đòi hỏi không chỉ kiến thức mà còn phải có kinh nghiệm thực tế phong phú mới có thể giải quyết đầy đủ. Vì vậy đề án không thể tránh khỏi có những thiếu sót. Sự chỉ bảo, góp ý của các thầy cô và các bạn sinh viên trong khoa sẽ là rất quí báu giúp tôi trau dồi thêm kiến thức.
Qua đây, tôi xin phép được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất đến PGS -TS Đặng Đình Đào giảng viên khoa thương mại trường đại học Kinh tế quốc dân Hà nội đã giúp tôi hoàn thành đề án này.
Chương I: Cơ sở lý luận chung về kinh doanh của
doanh nghiệp thương mại
I. bản chất của kinh doanh thương mại:
1.Bản chất kinh doanh thương mại:
Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá, quốc tế ngày càng phát triển mạnh cùng với sự phát triển đa dạng của hàng hoá trên phạm vi toàn thế giới. Hoà nhận với xu thế ấy, Việt Nam đã và đang xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hàh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, ở đó cho tăng cả về chất và lượng, nhiều loại hàng hoá thoả mãn nhu cầu vô cùng đa dạng và phong phú của con người.
Để tồn tại và phát triển con người cần nhiều nhu cầu khác nhau: ăn, ở, mặc đi lại, học tập, giải trí... Muốn thoat mãn những nhu cầu ấy, con người phải thông qua những hoạt động sản xuất và trao đổi các sản phẩm với nhau hay là thông qua hoạt động kinh doanh.
Kinh doanh là việc tiến hành một, một số hoặc tấ cả công đoạn của quá trình đầu tư từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Với sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất ngày càng phát triển tất yếu dẫn đến nhu cầu để trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất chuyên môn hoá với nhau. Như vậy phân công lao động chuyên hoá sản xuất và tính chất sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm làm ra là nguồn gốc phát triển thương mại.
Thương mại là quá trình mua bán hàng hoá, dịch vụ trên thị trường. Hoạt động thượng mại gắn liền với lĩnh vực lưu thông hàng hoá và lấy hàng hoá là đối tượng mua bán.
Như thế kinh doanh thương mại là một dạng của lĩnh vực đầu tư để thực hiện việc mua bán lưu thông hàng hoá trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.
Kinh doanh thương mại thực sự trở thành một lĩnh vực hoạt động không thể thiếu trong nền kinh tế hàng hoá và nhất là trong nền kinh tế thị trường và xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá ngày nay.
2.Nội dung của kinh doanh thương mại.
2.1.Mục tiêu:
Lợi nhuận luôn được nhà kinh doanh đề cập như là một mục tiêu trước mắt, lâu dài và thường xuyên của hoạt động kinh doanh. Một doanh nghiệp luôn phải cố gắng nỗ lực để thu được doanh thu bù đắp được chi phí và kinh doanh có lãi. Song lợi nhuận vẫn chỉ là một trong nhiều mục tiêu của quá trình kinh doanh của bản thân doanh nghiệp. Trong kinh doanh thương mại, nhà kinh doanh phải quan tâm tới nhưũng mục tiêu cơ bản đó là: khách hàng, đổi mới, chất lượng, cạnh tranh, lợi nhuận mà tuỳ theo từng giai đoạn, chu kỳ kinh doanh để xây dựng tháp hệ thống các mục tiêu thích hợp cho doanh nghiệp.
Khách hàng với nhu cầu của họ là điểm xuất phát cho mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khách hàng theo quan điểm hiện đại là người trả lương cho người lao động trong doanh nghiệp và nuôi sống doanh nghiệp. Vì vậy, doanh nghiệp phải giữ cho được khách hàng truyền thống, thu hút khách mới, và hướng đến khách hàng tiềm năng.
Đổi mới sản phẩm kinh doanh cũng như đổi mới các dịch vụ phục vụ khách hàng là mục tiêu cơ bản cuả doanh nghiệp để hướng tới cung cấp tốt hơn những nhu cầu ngày càng tăng về sản phẩm đồng bộ đa dạng.
Chất lượng sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp phải ngày càng được nâng cao. Mục tiêu này xuất phát từ qui luật "Ai có sản phẩm chất lượng cao, giá cả phải chăng thì người đó chính là người chiếm lĩnh thị trường".
Cạnh tranh là mục tiêu mà doanh nghiệp phải theo đuổi. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, doanh nghiệp phải nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ cũng như nâng cao vị thế của doanh nghiệp thì mới có thể tồn tại và phát triển kinh doanh.
Lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh và đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp sau một thời kỳ kinh doanh, đồng thời là nguồn thu nhập và phân phối cho các qũy doanh nghiệp để thực hiện tái sản xuất kinh doanh, mở rộng và phát triển kinh doanh.
2.2.Nội dung hoạt động kinh doanh thương mại:
Đối với các dong nghiệp thương mại, khi tiến hành công việc kinh donh nhằm thu lợi nhuận, doanh nghiệp phải thực hiện các nội dung chủ yếu sau:
1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để làm cơ sở cho hoạt độgn kinh doanh.
2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường.
3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại.
4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá.
5.Quản lý hàng hoá, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết quả kinh doanh.
2.2.1.Nghiên cứu và xác định nhu cầu thị trường về loại hàng hoá và dịch vụ để làm cơ sở cho hoạt động kinh doanh:
Doanh nghiệp thương mại là một tác nhân trên thị trường nên phải nghiên cứu thị triường để phát triển kinh doanh thích ứng với thị trường. Nghiên cứu thị trường là xuất phát điểm để đề ra các chiến lược kinh doanh của các doanh nghiệp, từ các chiến lược đã xác định tiến hành thực hiện các kế hoạch trung gian, chính sách thị trường. Bất kỳ doanh nghiệp thương mại nào cũng phải nghiên cứu thị trường khi bắt đầu kinh doanh, đang kinh doanh hay muốn mở rộng phát triển kinh doanh.
Đối tượng kinh doanh thương mại là hàng hoá và dịch vụ. Mỗi doanh nghiệp có thể kinh doanh một loại hàng hoá hoặc một nhóm hàng hoá. Doanh nghiệp phải nghiên cứu xác định được nhu cầu của khách hàng, sự đáp ứng cho các nhu cầu đó hiện có và khả năng nguồn cung ứng (sản xuất hoặc nhập khẩu) loại hàng đó. Cũng có thể doanh nghiệp kinh doanh những loại hàng hoá mới và các cơ sở vật chất phù hợp với mặt hàng đã lựa chọn để đi vào kinh doanh. Đấy là công việc mà doanh nghiệp phải tiến hành thường xuyên để có phương án sản phẩm dịch vụ kinh doanh tốt nhất.
Qua các bước thu thập thông tin, sử lý thông tin, ra quyết định của qúa trình nghiên cứu thị trường, doanh nghiệp phải giải đáp được các vấn đề:
- Đâu là thị trường có triển vọng nhất đối với các sản phẩm của doanh nghiệp, hay lĩnh vực nào phù hợp nhất đối với các hoạt động của doanh nghiệp.
- Khả năng bán của doanh nghiệp trên thị trường là bao nhiêu .
- Cần có biện pháp như thế nào để chất lượng mẫu mã hàng hoá dịch vụ tốt hơn.
- Cần có chiến lược, chính sách như thế nào để tăng cường khả năng trên thị trường.
Từ việc xác định khả năng bán và lượng dự trữ kế hoạch, doanh nghiệp xác định được nhu cầu đặt hàng sau khi đã trừ đi hàng tồn kho, hàng tiết kiệm, hình thành quĩ mua bán hàng hoá của doanh nghiệp.
2.2.2.Tổ chức công tác tạo nguồn hàng để đáp ứng nhu cầu thị trường:
Để thực hiện nhiệm vụ đảm bảo cung ứng cho sản xuất, tiêu dùng những loại hàng hoá đủ về số lượng, tốt về chất lượng, kịp thời gian yêu cầu, thuận lợi cho khách hàng, các doanh nghiệp thương mại phải tổ chức tốt công tác tạo nguồn cho doanh nghiệp. Muốn vậy doanh nghiệp phải huy động tối đa các nguồn lực để phục vụ cho công tác tạo nguồn. Các nguồn lực của doanh nghiệp mà doanh nghiệp có thể huy động được gồm: vốn hữu hình như tiền, nhà cửa, kho tàg, quầy hàng... và vốn vô hình như: sự nổi tiếng của các nhãn hiệu hàng hoá kinh doanh, tín nhiệm của khách hàng đối với doanh nghiệp, ... và con người với tài năng kinh nghiệm, nghề nghiệp được đào tạo, được huy động vào kinh doanh các nguồn lực thì có hạn, vì vậy trong quá trình tạo nguồn hàng cũng như trong tổ chức các hoạt động nghiệp vụ tiếp theo sau là bán, dự trữ, bảo quản, vận chuyển, khuyến mại và thực hiện dịch vụ phục vụ khách hàng, doanh nghiệp phải huy động theo hướng tiết kiệm, sử dụng triệt để để tiến hành kinh doanh một cách nhanh chóng, thuận lợi, rút ngắn được thời gian chuẩn bị, phát triển kinh doanh của doanh nghiệp cả về bề rộng lẫn bề sâu.
Công tác tạo nguồn hàng là toàn bộ những hoạt động nghiệp vụ nhằm tạo ra nguồn hàng hoá đảm bảo cung ứng đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, đúng qui cách, cỡ loại, mẫu mã... cho các nhu cầu khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại trong cơ chế thị trường cần xác định được các nguồn hàng chủ yếu sau:
-Nguồn hàng hoá sản xuất trong nước.
-Nguồn hàng nhập khẩu.
-Nguồn hàng tồn kho đầu kỳ.
-Nguồn hàng tự sản xuất, tự khai thác.
-Nguồn hàng liên doanh, liên kết.
-Nguồn đặt hàng và thu mua.
-Nguồn hàng của đơn vị cấp trên, nhận đại lý hoặc ký gửi.
Các nguồn hàng trên có thể là nguồn hàng tập trung để phục vụ cho những nhu cầu đặt hàng lớn theo đơn đặt hàng và hợp đồng ký kết trước hoặc do nguồn phi tập trung do doanh nghiệp tự khai thác trôi nổi trên thị trường.
Để tổ chức tốt công tác tạo nguồn hàng, các doanh nghiệp thương mại sử dụng các biện pháp sau:
-Tổ chức mạng lưới thu mua.
- áp dụng các biện pháp kinh tế trong hoạt động khai thác tạo nguồn hàng.
-Đầu tư, liên doanh, liên kết giúp dỡ các đơn vị nguồn hàng.
-Tổ chức tốt hệ thống thông tin từ các nguồn hàng về doanh nghiệp.
-Tổ chức quản lý dự trữ, bảo quản hàng hoá ở doanh nghiệp thương mại.
2.2.3.Tổ chức các mối quan hệ giao dịch thương mại :
Nhằm ghép mối trong giao dịch mua bán đối với các đơn vị, doanh nghiệp phải thực thi trên các nguyên tắc:
-Số lượng, chủng loại hàng hoá phải đáp ứng yêu cầu thị trường mà donh nghiệp có khả năng cung ứng.
-Tổng quãng đường vận chuyển hàng trong kinh doanh là nhỏ nhất.
-Đơn giản hoá các mối quan hệ mua bán.
-Trong quan hệ mua bán hai bên đều phải có lợi.
Việc giao dịch thương mại chủ yếu thông qua:
-Mối quan hệ giao dịch thương mại trực tiếp.
-Quan hệ giao dịch thương mại gián tiếp.
Trong các mói quan hệ giao dịch thuơng mại, doanh nghiệp phải giải quyết các vấn đề:
-Thoả thuận về giá trị và giá trị sử dụng của hàng hoá.
-Tổ chức vận chuyển, tiếp nhận, thanh toán...
-Ký kết hợp đồn với các bên đối tác.
Tổ chức tốt các mối quan hệ giao dịch thương mại là điều kiện tiền đề để đảm bảo cho qúa trình bán hàng gặp thuận lơị và có kết quả.
2.2.4.Lựa chọn kênh phân phối và tổ chức chuyển giao hàng hoá:
Tổ chức hoạt động phân phối, bán hàng là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng bậc nhất của doanh nghiệp thương mại. Chỉ có bán được hàng doanh nghiệp mới thu hồi được vốn, trang trải được chi phí lưu thông và có lợi nhuận. Kết quả bán hàng phản ánh sự đúng đắn của mục tiêu, chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời thể hiện trình độ tổ chức, năng lực điều hành, tỏ rõ thế lực của doanh nghiệp trên thương trường. Bán hàng là kết quả tổng hợp của nhiều hoạt động, nó bao gồm các nội dung chính sau:
-Xác định đúng cung cầu hàng hoá, dịch vụ trên thị trường của doanh nghiệp.
-Lựa chọn các kênh phân phối, bán hàng thích hợp.
-Chính sách phân phối hàng hoá phù hợp với yêu cầu thị trường.
-Thực hiện xúc tiến bán hàng.
-Tổ chức nghiệp vụ bán hàng.
Để thực hiên tốt công tác bán hàng, doanh nghiệp phải lựa chọn xác định các kênh phân phối, phương thức, hình thức bán hàng sao cho phù hợp với đặc điểm, tính chất hoạt động của doanh nghiệp và loại hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp cung ứng. Doanh nghiệp có thể lựa chon kênh phân phối dài hoặc ngắn, áp dụng cho từng khu vực thị trường cụ thể.
Kênh phân phối ngắn là kênh phân phối hàng hoá từ doanh nghiệp thương mại trực tiếp đến người tiêu dùng cuối cùng hoặc nếu có chỉ thông qua mạng lưới bán lẻ trung gian. Loại kênh này đảm bảo đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, chi phí lưu thông có thể thấp, quan hệ giao dịch mua bán đơn giản, thuận tiện. Tuy nhiên tổ chức phát triển phức tạp, quan hệ thị trường hẹp nên chỉ phù hợp với hàng hoá có tính chất thương phẩm.
Kênh phân phối dài là kênh mà hàng hoá đi từ doanh nghiệp thương mại qua các nhà bán lẻ, bán buôn, nhà môi giới trung gian mới đến tay người tiêu thụ cuối cùng. ở kênh này quan hệ mua bán theo từng khâu chặt chẽ, lưu thông có khối lượng hàng hoá lớn, vòng quay vốn nhanh hơn, có điều kiện để doanh nghiệp mở rộng thị trường, phát triển kinh doanh. Kênh này tuy thời gian lưu chuyển và chi phí lưu thông lớn nhưng thích hợp khi kinh doanh nhiều loại hàng hoá phù hợp với quan hệ mua bán của nhiều doanh nghiệp.
Tuỳ theo nhu cầu chuyển giao lớn tập trung ổn định hay nhu cầu nhỏ lẻ không ổn định mà có thể sử dụng kênh dài hay kênh ngắn dể chuyển giao hàng hoá.
Ngoài sự lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp cần thực hiện chính sách phân phối hàng hoá hợp lý trên cơ sở các nguyên tắc:
- Nguyên tắc hiệu quả kinh tế.
- Nguyên tắc đồng bộ liên tục.
- Nguyên tắc ưu tiên.
Doanh nghiệp phải xác định các phương thức, hình thức bán hàng hợp lý, có hiệu quả. Tuỳ theo yêu cầu xác định khác nhau mà có các hình thức bán hàng sau:
- Theo mức chiết khấu thương mại có hình thức bán buôn, bán lẻ.
- Theo địa điểm giao nhận hàng hoá có hình thức bán tại kho người cung cấp, kho người tiêu thụ, hoặc tại h, cửa hàng, quầy hàng của doanh nghiệp thương mại.
Trong hoạt động bán hàng cần chú trọng đến những nội dung sau:
- Khối lượng, chất lượng hàng hoá dịch vụ đáp ứng được tối đa nhu cầu của khách hàng.
- Tổ chức tốt các hoạt động trong quá trình bán hàng (trước, trong, sau khi bán)
- áp dụng các phương pháp bán hàng và quy trình bán hàng, hoàn thiện nhằm nâng cao không ngừng năng suất lao động của người bán hàng hoá dịch vụ và chất lượng dịch vụ phục vụ khách hàng.
- Không ngừng cải tiến thiết kế cửa hàng, quầy hàng và các loại hình cơ sở vật chất kinh doanh. Đổi mới các loại thiết bị dụng cụ bảo quản, trưng bày và bán, đảm bảo cho khách hàng bao giờ cũng được phục vụ bằng những phương tiện hiện đại nhất.
- Làm tốt công tác quảng cáo kết hợp với bán hàng, làm công cụ thúc đẩy bán hàng và nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Tổ chức tốt lao động bán hàng, đảm bảo cho thời gian lao động của nhân viên bán hàng được sử dụng có hiệu quả nhất.
- Nghiêm chỉnh thi hành luật pháp trong kinh doanh.
- Xây dựng một thái độ bán hàng văn minh, lịch sự, tất cả vì khách hàng.
2.2.5. Quản lý hàng hóa, thực hiện các dịch vụ và phân tích đánh giá kết quả kinh doanh:
Việc quản lý hàng hóa được tiến hành từ khâu chuẩn bị để tiếp nhận hàng hóa cho tới khi chuyển giao hàng hóa cho người tiêu thụ. Đặc biệt quan trọng trong công tác quản lý hàng hóa là công tác dự trữ hàng hóa, bởi đây là yếu tố đảm bảo cho bán hàng diễn ra liên tục và đáp ứng yêu cầu mở rộng lưu thông không ngừng. Đây cũng là phương tiện quan trọng để tăng khả năng cạnh tranh và tìm kiếm lợi nhuận trên thương trường. Doanh nghiệp thưong mại thực hiện các dịch vụ bảo quản, dự trữ, cũng như các dịch vụ trong quá trình bán hàng và thu được thu nhập từ các hoạt động đó.
Sau mỗi chu kỳ kinh doanh, doanh nghiệp thương mại phải tiến hành tính toán tổng thu nhập, chi phí cũng như các chỉ tiêu kinh doanh để xem xét đánh giá hiệu quả kinh doanh đã đạt được. Từ những đánh giá về mặt tích cực cũng như những điểm hạn chế của kỳ kinh doanh trước, doanh nghiệp tiếp tục xây dựng các kế hoạch cho kỳ kinh doanh mới.
II. Doanh nghiệp thương mại nhà nước và vai trò, chức năng của doanh nghiệp thương mại nhà nước :
1. Khái niệm và các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước
1.1 Khái niệm:
Theo pháp luật của nhà nước ta, doanh nghiệp là một đơn vị kinh doanh được thành lập hợp pháp, nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh và lấy hoạt động kinh doanh làm nghề nghiệp chính. Có doanh nghiệp nhà nước, có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp cổ phần, doanh nghiệp hợp tác xã, doanh nghiệp liên doanh...
Đặc điểm nhiều thành phần kinh tế của nền kinh tế nước ta đã được khẳng định. Các thành phần kinh tế ấy không chỉ có trong sản xuất mà tồn tại trong mọi giai đoạn của quá trình sản xuất xã hội. Trong kinh doanh thương mại cũng có sự góp mặt của mọi thành phần kinh tế. Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một phần tử của hệ thống kinh doanh thương mại trong nền kinh tế quốc dân chuyên kinh doanh mua bán hàng hóa dịch vụ.
Doanh nghiệp thương mại nhà nước là một loại hình doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 20 / 4 / 95. Nhà nước ra quyết định thành lập, đầu tư từ 51% vốn chở lên và quản lý với tư cách chủ sở hữu phần vốn đầu tư.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, doanh nghiệp thương mại nhà nước kinh doanh sản phẩm gì, qui cách, chất lượng, giá bán ra sao, địa chủ tiêu thụ... đều do nhà nước quyết định từ trên xuống. Doanh nghiệp chỉ là một đơn vị kinh doanh thụ động, không cần quan tâm đến hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng về giải phóng và huy động mọi nguồn lực, năng lực sản xuất nhằm phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, doanh nghiệp thương mại nhà nước có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh theo qui định của nhà nước, hoạt động linh hoạt động hơn và kinh doanh có hiệu quả hơn.
1.2 Các loại hình doanh nghiệp thương mại nhà nước :
- Căn c