Rừng có vai trò to lớn đối với sự sống trên trái đất của chúng ta: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm. Một ha rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) dưỡng khí để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976).[8]
Nghiên cứu về sinh khối và carbon trong các hệ sinh thái rừng được tiến hành từ khá sớm với ý nghĩa quản lý chu trình carbon là nhân tố quan trọng trong việc quản lý dinh dưỡng và năng suất rừng. Gần đây nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ carbon (C) của rừng lại càng trở nên quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Hiện nay, biến đổi khí hậu đang đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của nhiều dân tộc trên khắp hành tinh. Con người đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu như: dịch bệnh đói nghèo, mất nơi ở, thiếu đất canh tác, sự suy giảm đa dạng sinh học
Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân trực tiếp của sự biến đổi khí hậu là do phát thải quá mức khí nhà kính, đặc biệt là CO2. Với diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp cộng với quá trình khai thác rừng không hợp lý chính là nguyên nhân để lượng carbon tích tụ ngày càng nhiều. Theo tiến sỹ Christopher Field: “Lượng carbon tích trữ trong hệ sinh thái rừng thấp dẫn đến CO2 trong khí quyển tăng nhanh hơn và quá trình nóng lên toàn cầu diễn ra cũng nhanh hơn” và theo tuyên bố của tổ chức Thống kê Nam cực (BAS) cho biết vào năm 2006 có gần 10 tỷ tấn CO2 trong khí quyển trái đất, tăng 35% so với năm 1990.
Vì vậy nghiên cứu carbon trở thành vấn đề trọng tâm của khoa học kể từ khi mức độ phát thải khí CO2 ngày càng tăng lên. Trên thực tế lượng CO2 hấp thụ của rừng phụ thuộc và nhiều yếu tố như: kiểu rừng, trạng thái rừng, tuổi lâm phần, loài cây, Giảm tác hại của hiệu ứng nhà kính đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá, xác định sinh khối và trữ lượng carbon trong từng kiểu rừng, loài cây làm cơ sở để lượng hóa kinh tế giá trị về môi trường xã hội mà rừng mang lại (chứng chỉ rừng).
Nghị định thư Kyoto với cơ chế phát triển sạch đã mở ra cơ hội cho những nước đang phát triển như Việt Nam trong việc tiếp nhận đầu tư để thực hiện các dự án lớn về phát triển rừng góp phần phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía bắc với sự phát triển của nhiều nhà máy, khu công nghiệp lớn, đang gây sức ép hết sức nặng nề với môi trường về khí thải. Trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước quan tâm tới công tác phát triển rừng, diện tích rừng của Thái Nguyên tăng đáng kể. Đặc biệt diện tích rừng phục hồi sau khai thác kiệt tăng lên về diện tích và chất lượng. Để nhằm đánh giá được giá trị thực của rừng sau khai thác kiệt tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, để có thương mại hóa được chứng chỉ giảm phát thải, chủ yếu là lượng CO2, thì cần thiết phải xác định được trữ lượng carbon có trong sinh khối của mỗi loại rừng. Xuất phát từ thực tế trên, nhằm đáp ứng được một phần nhỏ đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu đặc điểm sinh khối và tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
39 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2520 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu đặc điểm sinh khối và tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1
MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Rừng có vai trò to lớn đối với sự sống trên trái đất của chúng ta: cung cấp nguồn gỗ, củi, điều hòa khí hậu, tạo ra oxy, điều hòa nước, nơi cư trú động thực vật và tàng trữ các nguồn gen quý hiếm... Một ha rừng hàng năm tạo nên sinh khối khoảng 300 - 500 kg, 16 tấn oxy (rừng thông 30 tấn, rừng trồng 3 - 10 tấn). Nếu như tất cả thực vật trên Trái Đất đã tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng chiếm 37 tỷ tấn (70%). Và các cây rừng sẽ thải ra 52,5 tỷ tấn (hay 44%) dưỡng khí để phục vụ cho hô hấp của con người, động vật và sâu bọ trên Trái Đất trong khoảng 2 năm (S.V. Belov 1976).[8]
Nghiên cứu về sinh khối và carbon trong các hệ sinh thái rừng được tiến hành từ khá sớm với ý nghĩa quản lý chu trình carbon là nhân tố quan trọng trong việc quản lý dinh dưỡng và năng suất rừng. Gần đây nghiên cứu sinh khối và khả năng hấp thụ carbon (C) của rừng lại càng trở nên quan trọng trong bối cảnh biến đổi khí hậu. Hiện nay, biến đổi khí hậu đang đe dọa nghiêm trọng đến lợi ích sống còn của nhiều dân tộc trên khắp hành tinh. Con người đang phải đối mặt với những tác động của biến đổi khí hậu như: dịch bệnh đói nghèo, mất nơi ở, thiếu đất canh tác, sự suy giảm đa dạng sinh học…
Các nhà khoa học cho rằng nguyên nhân trực tiếp của sự biến đổi khí hậu là do phát thải quá mức khí nhà kính, đặc biệt là CO2. Với diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp cộng với quá trình khai thác rừng không hợp lý chính là nguyên nhân để lượng carbon tích tụ ngày càng nhiều. Theo tiến sỹ Christopher Field: “Lượng carbon tích trữ trong hệ sinh thái rừng thấp dẫn đến CO2 trong khí quyển tăng nhanh hơn và quá trình nóng lên toàn cầu diễn ra cũng nhanh hơn” và theo tuyên bố của tổ chức Thống kê Nam cực (BAS) cho biết vào năm 2006 có gần 10 tỷ tấn CO2 trong khí quyển trái đất, tăng 35% so với năm 1990.
Vì vậy nghiên cứu carbon trở thành vấn đề trọng tâm của khoa học kể từ khi mức độ phát thải khí CO2 ngày càng tăng lên. Trên thực tế lượng CO2 hấp thụ của rừng phụ thuộc và nhiều yếu tố như: kiểu rừng, trạng thái rừng, tuổi lâm phần, loài cây,… Giảm tác hại của hiệu ứng nhà kính đòi hỏi phải có sự nghiên cứu, đánh giá, xác định sinh khối và trữ lượng carbon trong từng kiểu rừng, loài cây làm cơ sở để lượng hóa kinh tế giá trị về môi trường xã hội mà rừng mang lại (chứng chỉ rừng).
Nghị định thư Kyoto với cơ chế phát triển sạch đã mở ra cơ hội cho những nước đang phát triển như Việt Nam trong việc tiếp nhận đầu tư để thực hiện các dự án lớn về phát triển rừng…góp phần phát triển đất nước theo hướng bền vững.
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi phía bắc với sự phát triển của nhiều nhà máy, khu công nghiệp lớn, đang gây sức ép hết sức nặng nề với môi trường về khí thải. Trong những năm gần đây được Đảng và Nhà nước quan tâm tới công tác phát triển rừng, diện tích rừng của Thái Nguyên tăng đáng kể. Đặc biệt diện tích rừng phục hồi sau khai thác kiệt tăng lên về diện tích và chất lượng. Để nhằm đánh giá được giá trị thực của rừng sau khai thác kiệt tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên, để có thương mại hóa được chứng chỉ giảm phát thải, chủ yếu là lượng CO2, thì cần thiết phải xác định được trữ lượng carbon có trong sinh khối của mỗi loại rừng. Xuất phát từ thực tế trên, nhằm đáp ứng được một phần nhỏ đó tôi tiến hành nghiên cứu đề tài “ Nghiên cứu đặc điểm sinh khối và tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên”.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đặc điểm sinh khối và tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives Pierre) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên nhằm xác định giá trị của rừng thông qua việc xác định lượng tích lũy carbon, đồng thời làm cơ sở khoa học cho thu phí dịch vụ môi trường rừng.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
- Nghiên cứu được đặc điểm sinh khối của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được khả năng tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
- Xác định được mối tương quan giữa sinh khối và khả năng tích lũy carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saracadives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB tại huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên.
1.4. Ý nghĩa của đề tài
1.4.1. Ý nghĩa học tập và nghiên cứu khoa học
Qua quá trình thực hiện đề tài, sinh viên sẽ được thực hành việc nghiên cứu khoa học, biết phương pháp phân bổ thời gian hợp lý trong quá trình làm việc. Đồng thời đây cũng là cơ sở để sinh viên có thể củng cố kiến thức đã học trong nhà trường vào hoạt động thực tiễn nghiên cứu khoa học. Sau khi hoàn thành đề tài sinh viên có thể học được các phương pháp, kỹ năng trong lập kế hoạch, viết báo cáo, phân tích số liệu…Đây là những vấn đề rất cần thiết cho công việc sau này.
1.4.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần xác định được sinh khối và lượng carbon của loài cây Re Bầu (Cinnamomun bejolghota), Vàng Anh (Saraca dives) ở rừng phục hồi sau khai thác kiệt IIB ở huyện Đại Từ tỉnh Thái Nguyên. Đây là một phần nhỏ nhằm xác định được lượng sinh khối và khả năng tích lũy carbon của rừng IIB tại Thái Nguyên.
Phần 2
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
2.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
2.1.1. Trên thế giới
Trong vài thập kỷ trở lại đây vấn đề nóng lên của khí hậu toàn cầu đang được quan tâm của toàn thế giới. Nó đang từng bước tác động tiêu cực đến tới sinh vật và môi trường trên trái đất. Quá trình nóng lên của trái đất đã làm cho tất cả các thành phần môi trường bị biến đổi tiêu cực, nước biển dâng cao, hạn hán, lũ lụt thường xuyên xẩy ra. Sự biến đổi môi trường sống đang tác động rất xấu đến đời sống con người và tất cả các sinh vật trên trái đất.
Hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu là không thể tránh khỏi. Hầu hết các nhà khoa học môi trường cho rằng sự gia tăng đáng kể nồng độ các khí nhà kính mà chủ yếu là khí CO2 trong khí quyển là nguyên nhân gây ra hiện tượng nóng lên toàn cầu. Hiện tượng này có thể sẽ làm nhiệt độ trái đất tăng thêm nhanh chóng từ 1,4- 5,80C trong giai đoạn 1990- 2100.
Thực vật sống mà chủ yếu là các hệ sinh thái rừng có khả năng giữ lại và tích trữ, hay hấp thụ một lượng lớn carbon trong khí quyển. Theo thống kê, toàn bộ diện tích rừng thế giới lưu giữ khoảng 283 Gt (Giga tấn) carbon trong sinh khối và trong trong toàn hệ sinh thái rừng là 638 Gt (gồm cả trữ lượng carbon trong đất tính đến độ sâu 30 cm). Lượng carbon này lớn hơn nhiều so với lượng carbon trong khí quyển. Với chức năng này của rừng, hoạt động trồng rừng, tái trồng rừng và quản lý bền vững các hệ sinh thái rừng được coi là một trong các giải pháp quan trọng trong tiến trình cắt giảm KNK nêu ra trong Nghị định thư Kyoto để tiến tới mục tiêu ngăn ngừa sự biến đổi khí hậu toàn cầu và bảo vệ môi trường (Phan Minh Sang và cs, 2006). [2]
Kết quả đo lường của các nhà khoa học đã cho thấy thảm thực vật đã thu giữ 1 trữ lượng CO2 lớn hơn một nửa khối lượng chất khí đó sinh ra từ sự đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch trên thế giới. Và từ nguyên liệu carbon này hàng năm thảm thực vật trên Trái đất đã tạo ra được 150 tỷ tấn vật chất khô thực vật. Khám phá này càng khẳng định thêm vai trò của cây xanh: việc trồng nhiều cây xanh làm giảm hàm lượng dioxit carbon khí quyển hay ngược lại việc phá rừng đã làm tăng hàm lượng đó trong khí quyển ( IPCC, 2003). [11]
Trong các bể carbon ở phần lục địa, carbon hữu cơ chiếm phần lớn nhất đạt tới 1,500 PgC tính đến độ sâu 1 m và 2,456 Pg tính đến độ sâu 2 m. Thảm thực vật (650 Pg) và không khí (750 Pg) nhỏ hơn rất nhiều so với ở trong đất. Carbon vô cơ chiếm khoảng 1700 Pg nhưng nó chủ yếu ở dưới các dạng tương đối bền nên ít thay đổi theo thời gian (Robert, 2001).
Các nghiên cứu về phương pháp xác định lượng CO2 hấp thụ của hệ sinh thái rừng, K.G. MacDicken (1997) đã xác lập mô hình mối quan hệ giữa sinh khối với các nhân tố như đường kính, chiều cao, mật độ cây rừng. Năm 2002 Peteer Snowdon và cộng sự đã xác định bốn bể chứa carbon sinh thái là thực vật sống trên mặt đất, cây bụi thảm tươi, trong rễ, đất, và đã đưa ra được phương pháp thu thập mẫu cho mỗi bể chứa. Jenkins và cộng sự vào năm 2004 đã lập được mối tương quan giữa lượng carbon hấp thụ và đường kính ngang ngực cho các loài cây khác nhau ở Bắc nước Mỹ... Đến năm 2007, Trung tâm Nông Lâm kết hợp thế giới (ICRAF) đã phát triển phương pháp dự báo nhanh lượng carbon lưu trữ thông qua việc giám sát thay đổi sử dụng đất bằng phân tích ảnh viện thám. (Vũ Tấn Phương, 2008). [6]
Một nghiên cứu của Joyotee Smith và Sara J.Scherr (2002) đã định lượng được lượng carbon lưu giữ trong các kiểu rừng nhiệt đới và trong các loại hình sử dụng đất ở Brazil, Indonesia và Cameroon, bao gồm trong sinh khối thực vật và dưới mặt đất từ 0- 20 cm. Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng carbon lưu trữ trong thực vật giảm dần từ kiểu rừng nguyên sinh đến rừng phục hồi sau nương rẫy và giảm mạnh đối với các loại đất nông nghiệp. Trong khi đó phần dưới mặt đất lượng carbon ít biến động hơn, nhưng cũng có xu hướng giảm dần từ rừng tự nhiên đến đất không có rừng (Joyotee Smith và cs, 2002) [14].
Nghiên cứu lượng carbon lưu trữ trong rừng trồng nguyên liệu giấy, Romain Pirard (2005) đã tính lượng carbon lưu trữ dựa trên tổng sinh khối tươi trên mặt đất, thông qua lượng sinh khối khô (không còn độ ẩm) bằng cách lấy tổng sinh khối tươi nhân với hệ số 0.49, sau đó nhân sinh khối khô với hệ số 0.5 để xác định lượng carbon lưu trữ trong cây.
Nghiên cứu sự biến động carbon của một số nhà khoa học đã cho thấy rằng:
Công trình nghiên cứu tương đối toàn diện và có hệ thống về lượng carbon tích luỹ của rừng được thực hiện bởi Ilic (2000) và Mc Kenzie (2001). Theo Mc Kenzie (2001), carbon trong hệ sinh thái rừng thường tập trung ở bốn bộ phận chính: thảm thực vật còn sống trên mặt đất, vật rơi rụng, rễ cây và đất rừng.
Trên thực tế, những nghiên cứu của các nhà khoa học tiến hành đều tiến hành nghiên cứu lượng carbon trên sinh khối trên mặt đất và chung tổng thể cho toàn lâm phần, kiểu rừng. trong khi đó nghiên cứu cụ thể cho từng loài cây cụ thể đặc trưng cho từng loại rừng, kiểu rừng thì chưa có nhiều. Đặc biệt là đối với mỗi kiểu rừng, vị trí khác nhau lại có những loài cây đặc trưng khác nhau.
2.1.2. Ở Việt Nam
Mặc dù là những người đi sau trong lĩnh vực nghiên cứu về sinh khối và khả năng hấp thụ carbon nhưng chúng ta đã có những thành công nhất định. Với quan điểm kế thừa có chọn lọc các phương pháp nghiên cứu của các nhà khoa học đi trước chúng ta đã vận dụng linh hoạt những phương pháp nghiên cứu đó vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Một số công trình nghiên cứu điển hình gồm:
Đối tượng được quan tâm nghiên cứu đầu tiên là rừng Thông ba lá, bao gồm các nghiên cứu của Nguyễn Ngọc Lung, Ngô Đình Quế, Nguyễn Xuân Quát... Trong đó Nguyễn Xuân Quát (1985) đã dựa vào nghiên cứu rừng Thông ba lá chỉ ra rằng năng suất rừng tự nhiên cũng như rừng trồng có thể cho 200 m3/ha trong luân kỳ 15 năm với lượng tăng trưởng đạt 10m3/ha/năm.
Ngô Đình Quế và cs (2006) đã nghiên cứu khả năng hấp thụ carbon của một số loại rừng trồng keo (keo tai tượng, keo lá tràm,….). Rừng keo lai 3 - 12 tuổi (mật độ 800 - 1350 cây/ha) có lượng hấp thụ tương ứng là 60 - 407,37 tấn/ha. Rừng keo lá tràm có khả năng hấp thụ 66,2 - 292,39 tấn/ha tương ứng với các tuổi từ 5 - 2 tuổi (mật độ 1033 - 1517 cây/ha). Đối với rừng thông nhựa tuổi 5 - 21 tuổi có khả năng hấp thụ 18,81- 467,69 tấn/ha. Rừng trồng bạch đàn Urophylla 3 - 12 tuổi với mật độ trung bình từ 1200-1800 cây/ha có khả năng hấp thụ lượng carbon là 107,87- 378,71 tấn/ha. Các nghiên cứu trên chỉ dừng lại ở đối tượng rừng trồng thuần loài và tập trung vào một số loài cây nhất định (Ngô Đình Quế và cs,2006) [3].
Đến năm 2009 Bảo Huy đã sử dụng phương pháp chặt hạ để đo đếm sinh khối và thiết lập mô hình toán cho ước tính sinh khối và trữ lượng carbon của rừng lá rộng thường xanh theo các trạng thái: non, nghèo, trung bình và giàu ở Tây Nguyên. Đây là nghiên cứu về rừng tự nhiên đầu tiên tại Việt Nam. Tuy nhiên nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc xác lập các mô hình tính toán sinh khối và trữ lượng carbon phần trên mặt đất. Các bể chứa carbon khác như trong đất, thảm mục và cây chết, tầng thảm tươi cây bụi không được đề cập trong nghiên cứu (Bảo Huy, 2009) [5].
Qua các nghiên cứu ta thấy rằng, các nghiên cứu chỉ tập trung vào đối tượng chủ yếu là rừng trồng thuần loài. Nghiên cứu về từng loài cây trong rừng tự nhiên để lượng hóa chính xác hơn cho rừng tự nhiên hỗn loài ở Việt Nam chỉ mới đang bắt được tiến hành các trạng thái rừng phổ biến ở Việt Nam hiện nay như: IIA, IIB, IIIA1...
2.1.3. Đặc điểm khoa học của cây Re bầu (Cinnamomun bejolghota)
Tên Việt Nam:
Re bầu
Tên khoa học:
Cinnamomun bejolghota
Họ:
Long não Lauraceae
Bộ:
Long não Laurales
2.1.3.1. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ lớn thường xanh, cao 20 – 30 m, đường kính 50 cm. Vỏ ngoài màu nâu xám hay nâu sẫm, nhẵn; Thịt vỏ màu nâu hay vàng nhạt, giòn và có mùi thơm. Cành nhỏ màu nâu.
Lá đơn nguyên mọc cách hoặc gần đối, hình trái xoan hay trái xoan thuôn, 9 – 30 x 3 – 9 cm, đỉnh có mũi nhọn, gốc hình nêm, 2 mặt nhẵn bóng, 3 gân gốc, gân bên kéo dài tới đỉnh. Cuống dài 1-2cm.
Hoa tự chùy ở nách gồm nhiều xim, dài 20 – 25 cm. Hoa lưỡng tính có 2 dạng: Hoa giữa lớn hơn các hoa bên. Bao hoa 6 mảnh thuôn, có lông ở 2 mặt. Nhị đực sinh sản 9, xếp thành 3 vòng, nhị thoái hóa 3, bao phấn 4 ô. Bầu hình trứng nhẵn, vòi dài bằng Bầu.
Quả mọng hình trứng, dài 1 cm, gốc có bao hao còn lại, màu đen.
2.1.3.2. Đặc tính sinh học và sinh thái học
Loài ưa sáng khi nhỏ có khả năng chịu bóng. Cây thường mọc trong rừng thường xanh nhiệt đới, ưa đất thịt pha cát, có tầng đất sâu dày, thoát nước. Tái sinh bằng hạt tốt, sinh trưởng cây hạt nhanh.
Hoa tháng 11 – 12, quả tháng 3 – 5.
2.1.3.3. Phân bố địa lý
Cây phân bố ở Việt Nam, Lào, Trung Quốc,...ở Việt Nam, cây mọc ở Miền Bắc, Miền Trung, Tây Nguyên, Đông Nam Bộ.
2.1.3.4. Giá trị
Gỗ nhóm IV, màu xám sẫm, để lâu sẫm màu, vân thẳng, thớ mịn, hơi mềm, nặng trung bình, dễ chế biến, kém chịu mục, có thể làm gỗ xây dựng, đóng đồ gia đình, nông cụ,...vỏ thân và lá có tinh dầu, vị cay, ngọt, nóng, dùng làm thuốc.
2.1.4. Đặc điểm khoa học của cây Vàng Anh (Saraca dives)
Tên Việt Nam:
Vàng anh
Tên khoa học:
Saraca dives
Họ:
Đậu Fabaceae
Bộ:
Đậu Fabales
2.1.4.1. Đặc điểm hình thái
Cây gỗ nhỡ, cao 8-12 m, nhiều cành nhánh, tán rộng, rậm. Thân không thẳng, vỏ xù xì màu nâu xám đen, nứt dọc, thịt vỏ màu đỏ.
Lá kép lông chim một lần chẵn. Cuống chung to, dài 20-30 cm, mang 5 đôi lá chét. Lá chét hình trái xoan, dài 30 cm, rộng 10 cm, đầu lá nhọn, gốc lá tù; mặt trên nhẵn bóng, khi non có màu tím đỏ rủ xuống, khi già có màu xanh lục thẫm. Gân bên 8-10 đôi.
Hoa lưỡng tính màu vàng, hợp thành ngù ở đầu cành hoặc nách lá, dài tới 20 cm. Hoa có cuống dài 1 cm, đỉnh cuống có 2 lá bắc nhỏ. Cánh đài hình ống, dài 2 cm, chia 5 thuỳ. Không có cánh tràng. Nhị đực 8.
Quả đậu, dẹt, dài 15-25 cm, rộng 4-5 cm. Hạt hình bầu dục, dẹt, dài 4 cm. Vỏ hạt cứng, dày.
2.1.4.2. Đặc tính sinh học và sinh thái học
Cây phân bố ở Việt Nam, Trung Quốc, ấn Độ. Cây mọc ở hầu hết các tỉnh vùng núi đá vôi miền Bắc và miền Trung, trong rừng mưa nhiệt đới. Trồng nhiều ở Hà Nội. Hoa nở vào tháng 3-4, quả tháng 9-10.
2.1.4.3. Phân bố địa lý
Thế giới: Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản,...
Việt Nam cây mọc rải rác trong các rừng nguyên sinh hoặc thứ sinh ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Vĩnh Phú, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Núi Chúa – Ninh Thuận....
2.1.4.4. Giá trị
Gỗ mềm, thớ mịn, thẳng, rất dễ sử dụng. Gỗ dễ bóc, dễ chày, nên có thể dùng làm diêm. Vỏ cây, vỏ, rễ, quả đều có thể dùng làm thuốc.
2.2. Tổng quan khu vực nghiên cứu
2.2.1. Vị trí địa lý
Đại Từ là một huyện miền núi nằm ở phía tây bắc tỉnh Thái Nguyên, cách thành phố Thái Nguyên 25 km.
Nằm trong toạ độ từ : 21°30′ đến 21°50′ vĩ bắc.
Từ 105°32′ đến 105°42′ kinh đông.
Phía bắc giáp huyện Định Hóa.
Phía đông nam giáp huyện Phổ Yên và thành phố Thái Nguyên.
Phía đông bắc giáp huyện Phú Lương.
Phía tây giáp tỉnh Tuyên Quang và tỉnh Vĩnh Phúc.
Phía nam giáp tỉnh Vĩnh Phúc.
2.2.2. Điều kiện tự nhiên
Khí hậu: Đại Từ có lượng mưa lớn (trung bình 1.700-1.800 mm/năm) độ ẩm trung bình 70%-80%, nhiệt độ trong năm từ 22°C-27°C, cao nhất trong tháng 6 (32°C), lạnh nhất trong tháng 1 (11°C).
Đất đai: Tổng diện tích tự nhiên của huyện là 57.848 ha. Trong đó: đất nông nghiệp chiếm 28,3%, đất lâm nghiệp chiếm 48,43%. Đất chuyên dùng 10,7%; đất thổ cư 3,4%. Tổng diện tích đất sử dụng vào các mục đích là 93,8%, còn lai 6,2% diện tích tự nhiên chưa sử dụng, chủ yếu là đất đồi núi và sông suối.
Rừng: diện tích đất lâm nghiệp 28020 ha, trong đó rừng tự nhiên là 16022 ha và rừng trồng từ 3 năm trở lên là 11000 ha. Chủ yếu là rừng phòng hộ, diện tích rừng kinh doanh không còn hoặc còn rất ít vì những năm trước đây đã bị khai thác bừa bãi và tàn phá để làm nương rẫy. Hiện nay nhiều diện tích rừng trồng đã đến tuổi khai thác, mặt khác diện tích đất có khả năng lâm nghiệp còn khá lớn, cần phủ xanh để nâng cao độ che phủ và cũng là tiềm năng để phát triển cây lâm nghiệp có giá trị cao.
Sông ngòi: Hệ thống sông công chảy từ Định Hóa xuống theo hướng Bắc Nam với chiều dài là 2 km qua địa bàn huyện Đại Từ. Hệ thống các suối khe như suối La Bằng, Quân Chu, Cát Nê,… cũng là nguồn cung cấp nước quan trọng trong đời sống và trong sản xuất của huyện.
Hồ đập: Hồ Núi Cốc lớn nhất Tỉnh với diện tích mặt nước 769 ha, vừa là địa điểm du lịch nổi tiếng, vừa là nơi cung cấp nước cho cả huyện Phổ Yên, Phú Bình, Sông Công, Thành Phố Thái Nguyên và một phần của tinh Bắc Giang. Ngoài ra còn có các hồ: Phượng Hoàng, Đoàn Ủy, Vại Miếu, Đập Minh Tiến,Phú xuyên, Na Mao, Lục Ba, Đức Lương tương đương dung lượng tưới bình quân từ 40- 50 ha mỗi đập và từ 180- 500 ha mỗi Hồ.
Thủy văn: Do ảnh hưởng của vị trí địa lý, đặc biệt là các dãy núi cao bao bọc Đại Từ thường có lượng mưa lớn nhất tỉnh, trung bình lượng mưa mỗi năm từ 1.800 - 2.000mm rất thuận lợi cho việc phát triển sản xuất nông lâm nghiệp của huyện (đặc biệt là cây chè)
Khoáng sản: Đại Từ có khá nhiều tài nguyên khoáng sản:
Nhóm nguyên liệu cháy: Chủ yếu là than nằm ở 8 xã của huyện là: Yên Lãng, Hà Thượng, Phục Linh, Minh Tiến, An Khánh, Cát Nê, trữ lượng lớn tập trung ở mỏ Làng Cẩm và mỏ Núi Hồng: 17 triệu tấn.
Nhóm khoáng sản: bao gồm nhiều loại khoáng sản quý như thiếc, vonfram, vàng, chì, kẽm, barit, pyrit, granit phân bố ở nhiều xã trong huyện, trong đó tập trung nhiều nhất tại mỏ đa kim Núi Pháo, trữ lượng khoảng 100 triệu tấn.
Vật liệu xây dựng: gồm các mỏ đất sét, đá, cát, sỏi...
2.2.3. Điều kiện kinh tế - xã hội
Tình hình kinh tế
Đất đai ở Đại Từ thích hợp trồng các loại cây như: lúa, ngô, chè, lạc, đậu tương, vải, nhãn, dưa hấu… và có tiềm năng cho phát triển lâm nghiệp với chủ yếu diện tích đất đai là đồi núi.
. Mặc dù nền kinh tế của huyện gặp nhiều khó khăn do thời tiết bất thường, sự khủng hoảng kinh tế trên thế giới làm ảnh hưởng lớn đến sản xuất, nhưng kinh tế vẫn đạt tốc độ phát triển kinh tế cao và tương đối ổn định đạt 12,65% ( 2010), trong đó ngành dịch vụ thương mai tăng 15% công nghiệp xây dựng tăng 17.35%, nông lâm thủy sản tăng 4.0%. Thu ngân sách 52,449 tỷ đồng, chi ngân sách nhà nước 276,388 tỷ đồng.
Văn hoá, xã hội
Đại từ có 31 đơn vị hành chính gồm 2 thị trấn Đại Từ, Quân Chu và 29 xã: Minh Tiến, Phúc Lương, Phú Cường, Đức Lương, Yên Lãng, Na Mao, Phú Lạc, Phú Thịnh, Bản Ngoại, Tân Linh, Phục Linh, Phú Xuyên, La Bằng, Tiên Hội, Hoàng Nông, Khôi Kỳ, Bình Thuận, Lục Ba, Hà Thượng, Hùng Sơn, Cù Vân, Tân Thái, An Khánh, Mỹ Yên, Vạn Thọ, Văn Yên, Ký Phú, Cát Nê và Quân Chu.
Đại từ là nơi cư trú của các dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Dao, Sán Dìu.
Người Tày thường sống quanh khu vực đồi cao hoặc ven suối trong những ngôi nhà sàn có bộ sườn làm theo kiểu vì kèo 4, 5, 6 hoặc 7 hàng cột. Nh