Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt đang làm cho đất đai bị thoái hoá, môi trường bị ô nhiễm. Thực tế cho thấy dư lượng thuốc BVTV và Nitơrat trong sản phẩm nông nghiệp cũng là nguồn gốc gây lên bệnh hiểm nghèo như ung thư, thần kinh, tim mạch. .Vì lý do đó mà nhiều lô sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam không đủ tiêu chuẩn chế biến và xuất khẩu. Những chi phí cho thuốc BVTV, phân vô cơ và rủi ro trong sản xuất nông nghiệp làm cho giá thành sản phẩm cao mà vẫn không đảm bảo được chất lượng.
Nhằm hạn chế các vùng sản xuất nêu trên rất nhiều nghiên cứu đã được ứng dụng vào thực tế sản xuất, bước đầu đã xây dựng những vùng sản xuất rau an toàn như mô hình canh tác nông nghiệp hữu cơ, phong trào 3 giảm 3 tăng, IPM, ICM. Trong đó việc sử dụng các chế phẩm vi sinh trong BVTV và làm phân bón sinh học được đặc biệt quan tâm.
Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM (Effective Microorganisms) do giáo sư Teuro Higa của Trường Đại học Tổng hợp Ryukysu, Okinawa, Nhật Bản nghiên cứu và được ứng dụng từ thập niên 80 tại Nhật và nhiều nước khác trên Thế giới. Đến nay công nghệ EM đã được ứng dụng ở hơn 80 nước trên thế giới và đem lại nhiều kết quả rất khả quan. Năm 1994-1995 chế phẩm EM được du nhập và thử nghiệm có hiệu quả ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu sâu về thành phần, cơ chế tác động của chế phẩm EM Viện Sinh học Nông nghiệp thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã phân lập thành công các chủng vi sinh vật có ích trong nước và sản xuất được chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA [13].
Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA là tổng hợp các chủng vi sinh vật có ích như vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, xạ khuẩn, nấm mốc, v.v. sống cộng sinh trong cùng môi trường. Được sử dụng trong việc cải tạo đất, hạn chế các loại bệnh do vi khuẩn gây ra, làm phân bón qua lá. Hiện nay, đã có một số nghiên cứu sử dụng chế phẩm EMINA trên cây trồng như đậu đũa, rau dền, mùng tơi, khoai tây, cây lạc đều cho kết quả khả quan [18].
Để có lời giải đáp cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam, không còn con đường nào khác là phải xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái. Có như thế thì sản xuất nông nghiệp mới an toàn, sản phẩm nông nghiệp mới đủ tiêu chuẩn về tiêu dùng, xuất khẩu và phát triển nông nghiệp mới bền vững.
Chứng minh vấn đề này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu khả năng ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (EMINA) trong sản xuất rau an toàn”.
112 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2843 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu khả năng ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (EMINA) trong sản xuất rau an toàn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Mục lục iii
Danh mục bảng vi
Danh mục biểu đồ viii
Danh mục viết tắt ix
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng rau trên thế giới (1997 - 2001) 4
B¶ng 2.2. DiÖn tÝch, n¨ng suÊt, s¶n lîng c¸c lo¹i rau ph©n theo vïng 7
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 1990 - 2004 (triệu USD) 8
B¶ng 2.4. Møc giíi h¹n tèi ®a cho phÐp hµm lîng nitrat (NO3ˉ) trong s¶n phÈm rau t¬i 10
Bảng 2.5. Thời gian cách ly thuốc BVTV đã sử dụng trên rau ăn lá và rau ăn quả ở một số địa phương 14
Bảng 2.6. Diện tích sản xuất rau ở một số tỉnh, thành phố miền bắc 15
Bảng 2.7. Diện tích, năng suất và sản lượng rau an toàn tại Hà Nội (2006) 16
Bảng 4.1. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA thảo dược tới các yếu tố cấu thành năng suất trên cây đậu đũa 43
Bảng 4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA thảo dược tới quả bị sâu hại trên cây đậu đũa. 45
Bảng 4.3. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA thảo dược tới các yếu tố cấu thành năng suất trên cây đậu đũa. 47
Bảng 4.4. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng thời gian phun của chế phẩm EMINA thảo dược tới quả bị sâu hại trên cây đậu đũa. 49
Bảng 4.5. Hiệu quả kinh tế mô hình sản xuất đậu đũa sử dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA thảo dược và mô hình đối chứng 51
Bảng 4.6. Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến sinh trưởng, phát triển trên rau cải ngọt. 52
Bảng 4.7. Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến một số chỉ tiêu chất lượng trên rau cải ngọt. 55
Bảng 4.8. Nghiên cứu ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên cây cải ngọt. 56
Bảng 4.9. Ảnh hưởng số lần phun chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến một chỉ tiêu chất lượng cây cải ngọt 58
Bảng 4.10. Hiệu quả kinh tế mô hình sản xuất rau cải ngọt sử dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA dinh dưỡng và mô hình đối chứng 59
Bảng 4.11. Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên cây cải mơ 60
Bảng 4.12. Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên cây cải mơ. 62
Bảng 4.13. Nghiên cứu ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên cây cải mơ 63
Bảng 4.14. Ảnh hưởng số lần phun chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến một số chỉ tiêu chất lượng cây cải mơ 65
Bảng 4.15. Hiệu quả kinh tế mô hình sản xuất rau cải mơ sử dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA dinh dưỡng và mô hình đối chứng 66
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 4.1. Ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA thảo dược đến năng suất cây đậu đũa 44
Biểu đồ 4.2. Ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA thảo dược đến năng suất cây đậu đũa 48
Biểu đồ 4.3. Ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến năng suất trên cây cải ngọt. 53
Biểu đồ 4.4. Ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến năng suất trên cây cải ngọt. 57
Biểu đồ 4.5. Ảnh hưởng nồng độ phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến năng suất trên rau cải mơ. 60
Biểu đồ 4.6. Ảnh hưởng số lần phun của chế phẩm EMINA dinh dưỡng đến năng suất trên rau cải mơ. 64
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt
Từ viết tắt
CT
C«ng thøc
CTV
Céng t¸c viªn
CV%
HÖ sè biÕn ®éng
§HNN Hµ Néi
§¹i häc N«ng nghiÖp Hµ Néi
FAO
Food Agriculture Organization
G
Gam
EM
Effective Microorganisms
IPM
Integrated Pest Management
ICM
Integrated Crop Management
ISO
International Organization for Standardization
HACCP
Hazards Analysis Critical Control Points
KHKT
Khoa häc kü thuËt
NXB
Nhµ xuÊt b¶n
TN
ThÝ nghiÖm
ViÖn SHNN
ViÖn Sinh häc N«ng nghiÖp
Viện BVTV
Viện Bảo vệ thực vật
Bé NN vµ PTNT
Bé N«ng nghiÖp vµ Ph¸t triÓn n«ng th«n
BVTV
B¶o vÖ thùc vËt
BRC
British Retail Consortium
Ha
Hecta
LSD05
Møc sai kh¸c cã ý nghÜa nhá nhÊt
NSLT
N¨ng suÊt lý thuyÕt
NSTT
N¨ng suÊt thùc thu
DX
Vụ đông xuân
XH
Vụ xuân hè
1. MỞ ĐẦU
1.1. Đặt vấn đề
Việc sử dụng quá nhiều phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật trong trồng trọt đang làm cho đất đai bị thoái hoá, môi trường bị ô nhiễm. Thực tế cho thấy dư lượng thuốc BVTV và Nitơrat trong sản phẩm nông nghiệp cũng là nguồn gốc gây lên bệnh hiểm nghèo như ung thư, thần kinh, tim mạch. ..Vì lý do đó mà nhiều lô sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam không đủ tiêu chuẩn chế biến và xuất khẩu. Những chi phí cho thuốc BVTV, phân vô cơ và rủi ro trong sản xuất nông nghiệp làm cho giá thành sản phẩm cao mà vẫn không đảm bảo được chất lượng.
Nhằm hạn chế các vùng sản xuất nêu trên rất nhiều nghiên cứu đã được ứng dụng vào thực tế sản xuất, bước đầu đã xây dựng những vùng sản xuất rau an toàn như mô hình canh tác nông nghiệp hữu cơ, phong trào 3 giảm 3 tăng, IPM, ICM... Trong đó việc sử dụng các chế phẩm vi sinh trong BVTV và làm phân bón sinh học được đặc biệt quan tâm.
Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EM (Effective Microorganisms) do giáo sư Teuro Higa của Trường Đại học Tổng hợp Ryukysu, Okinawa, Nhật Bản nghiên cứu và được ứng dụng từ thập niên 80 tại Nhật và nhiều nước khác trên Thế giới. Đến nay công nghệ EM đã được ứng dụng ở hơn 80 nước trên thế giới và đem lại nhiều kết quả rất khả quan. Năm 1994-1995 chế phẩm EM được du nhập và thử nghiệm có hiệu quả ở Việt Nam. Trên cơ sở nghiên cứu sâu về thành phần, cơ chế tác động của chế phẩm EM Viện Sinh học Nông nghiệp thuộc Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội đã phân lập thành công các chủng vi sinh vật có ích trong nước và sản xuất được chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA [13].
Chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu EMINA là tổng hợp các chủng vi sinh vật có ích như vi khuẩn quang hợp, vi khuẩn lactic, xạ khuẩn, nấm mốc, v.v... sống cộng sinh trong cùng môi trường. Được sử dụng trong việc cải tạo đất, hạn chế các loại bệnh do vi khuẩn gây ra, làm phân bón qua lá. Hiện nay, đã có một số nghiên cứu sử dụng chế phẩm EMINA trên cây trồng như đậu đũa, rau dền, mùng tơi, khoai tây, cây lạc đều cho kết quả khả quan [18].
Để có lời giải đáp cho sản xuất nông nghiệp Việt Nam, không còn con đường nào khác là phải xây dựng một nền nông nghiệp sinh thái. Có như thế thì sản xuất nông nghiệp mới an toàn, sản phẩm nông nghiệp mới đủ tiêu chuẩn về tiêu dùng, xuất khẩu và phát triển nông nghiệp mới bền vững.
Chứng minh vấn đề này chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Nghiên cứu khả năng ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (EMINA) trong sản xuất rau an toàn”.
1.2. Mục đích nghiên cứu và yêu cầu
1.2.1. Mục đích nghiên cứu
- Xác định được khả năng ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu (EMINA) trong sản xuất rau (đậu đũa, cải mơ, cải ngọt) an toàn.
- Xác định được các quy trình kỹ thuật áp dụng vi sinh vật hữu hiệu (EMINA) thích hợp trong sản xuất rau (đậu đũa, cải mơ, cải ngọt) an toàn.
1.2.2. Yêu cầu
- Đề tài tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của chế phẩm EMINA thảo dược trong việc phòng trừ sâu đục quả trên cây đậu đũa.
- Đánh giá khả năng ứng dụng làm phân bón lá của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên cây cải ngọt.
- Đánh giá khả năng ứng dụng làm phân bón lá của chế phẩm EMINA dinh dưỡng trên rau cải mơ.
1.3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
1.3.1. Ý nghĩa khoa học
Đề tài góp phần bổ sung cơ sở khoa học trong việc ứng dụng chế phẩm vi sinh vật hữu hiệu vào sản suất nông nghiệp nói chung và sản suất đậu đũa, cải ngọt, cải mơ nói riêng.
1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Tìm ra giải pháp sinh học trong sản suất đậu đũa, cải ngọt, cải mơ an toàn và nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm.
- Góp phần vào việc hạn chế ô nhiễm môi trường nhưng vẫn đảm bảo
phát triển nông nghiệp bền vững.
2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1. Tình hình nghiên cứu sản xuất rau
2.1.1. Tình hình sản xuất rau trên thế giới
Hiện nay, có khoảng 120 chủng loại rau được trồng sản xuất ở khắp các lục địa nhưng chỉ có 12 chủng loại chủ lực được trồng trên 80% diện tích rau trên toàn thế giới. Loại rau được trồng nhiều nhất là cà chua chiếm 3,17 triệu ha, thứ hai là hành chiếm 2,29 triệu ha và thứ ba là bắp cải có 2,07 triệu ha (năm 1997) [9].
Ở châu Á, loại rau được trồng nhiều nhất là cà chua, hành, bắp cải, dưa chuột, cà tím và được trồng ít nhất là đậu Hà Lan .
Để đáp ứng nhu cầu rau ngày càng cao của con người, ngoài việc mở rộng diện tích, năng suất cũng đẩy sản lượng các loại rau tăng không ngừng. Theo số liệu thống kê năm 2001 của FAO được thể hiện qua bảng sau:
Bảng 2.1. Diện tích, năng suất, sản lượng rau trên thế giới (1997 - 2001)
Chỉ tiêu
1997
1998
1999
2000
2001
Diện tích
(triệu ha)
Thế giới
Châu Á
Tỷ lệ (%)
37,759
25,003
66,21
39,740
26,745
67,30
41,558
28,087
67,59
42,442
28,883
68,05
43,023
29,539
68,66
Năng suất (tạ/ha)
Thế giới
Châu Á
Tỷ lệ (%)
161,06
163,47
101,50
158,79
159,85
100,67
160,65
160,82
100,11
163,02
165,22
101,35
162,27
164,95
101,65
Sản lượng
(triệu tấn)
Thế giới
Châu Á
Tỷ lệ (%)
608.124
408.716
67,21
631.037
427.518
67,75
667.633
451.687
67,66
691.894
477.210
68,97
698.127
487.251
69,79
(Theo nguồn: FAO - Databases, 2002) [6]
Ghi chú: Tỷ lệ %: tỷ lệ châu Á/Thế giới.
Cùng với số lượng, vấn đề chất lượng rau quả cũng đang được người tiêu dùng trên toàn thế giới rất quan tâm. Tháng 09/2003, Tổ chức bán lẻ châu Âu (EUREP) đã đề xuất tiêu chuẩn Thực hành nông nghiệp tốt (GAP) nhằm giải quyết mối quan hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông nghiệp và khách hàng của họ. Sản xuất rau an toàn (RAT) theo hướng GAP có thể được hiểu là sản phẩm khi đưa ra thị trường phải đảm bảo 3 yêu cầu: “An toàn cho môi trường, an toàn cho người sản xuất và an toàn cho người tiêu dùng”.
Dựa trên những quy định của EUREPGAP phiên bản 2 (1/2004), tại Hiệp hội các nước Đông nam Á (ASEAN), các tiêu chuẩn về sản xuất rau đã được chuẩn hóa ở mức độ chung nhất cho khu vực và yêu cầu người nông dân phải tuân thủ, được gọi là ASEANGAP. Các tiêu chuẩn này được đưa ra phù hợp với các nước thành viên ASEAN đến năm 2020. Sản phẩm cuối cùng mà khu vực nhằm đến là môi trường, kỹ thuật canh tác và an toàn cho xã hội.
2.1.2. Tình hình sản xuất rau ở Việt Nam
Việt Nam chính là trung tâm khởi nguyên của nhiều loại rau trồng, nhất là các cây thuộc họ bầu bí. Song do chịu ảnh hưởng của một nền nông nghiệp lạc hậu và sự tự túc trong nhiều thế kỷ qua, cho nên sự phát triển rau xanh ở nước ta kém xa so với trình độ canh tác của thế giới. Những năm gần đây mặc dù ngành trồng rau có khởi sắc, nhưng trên thực tế vẫn chưa theo kịp nhiều ngành khác trong sản xuất nông nghiệp.
Trong đề án phát triển rau quả và hoa, cây cảnh giai đoạn 1999-2010 do Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn đề ra mục tiêu cho ngành sản xuất rau đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt ngày 3/9/1999 là: "Đáp ứng nhu cầu rau có chất lượng cao phục vụ cho tiêu dùng trong nước, nhất là vùng dân cư tập trung (đô thị, khu công nghiệp…) và xuất khẩu. Phấn đấu đến năm 2010 đạt mức tiêu thụ bình quân đầu người là 85kg rau tươi/năm, giá trị kim ngạch xuất khẩu đạt 690 triệu USD". (Phạm Thị Thùy -2006) [15].
Theo số liệu thống kê năm 2000 thì diện tích trồng rau cả nước là 445 nghìn ha, tăng 70% so với năm 1990 (261.090ha) [15]. Bình quân mỗi năm tăng 14,8 nghìn ha (mức tăng 7%/năm) trong đó các tỉnh phía Bắc có 249.200 ha, chiếm 56% diện tích canh tác, các tỉnh phía Nam 196.000 ha chiếm 44%.
Năm 1998 có năng suất cao nhất là 144,8 tạ/ha bằng 80% so với mức trung bình toàn thế giới (xấp xỉ 180 tạ/ha). Nếu so với năm 1990 là 123,5 tạ thì năng suất bình quân cả nước trong 10 năm chỉ tăng 11,5 tạ/ha. Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh, Đà Lạt - Lâm Đồng… là các tỉnh có năng suất rau cao hơn cả nhưng cũng chỉ đạt mức 160 tạ/ha. Năng suất thấp nhất là các tỉnh ở miền Trung, chỉ bằng một nửa năng suất trung bình của cả nước.
Sản lượng rau cao nhất là vào năm 2000 đạt 6,007 triệu tấn so với năm 1990 (2,3 triệu tấn) đã tăng 81%. Mức tăng sản lượng trung bình hàng năm trong cả 10 năm qua là xấp xỉ 260 nghìn tấn, vùng trồng rau chính ở nước ta tập trung chủ yếu được hình thành từ hai vùng chính:
- Vùng rau chuyên canh ven thành phố và các khu công nghiệp, chiếm 38 - 40% diện tích và 45 - 50% sản lượng. Tại đây, rau được tập trung phục vụ cho dân cư là chủ yếu với chủng loại rau rất phong phú và đạt chất lượng cao.
- Vùng rau luân canh với cây lương thực được trồng chủ yếu trong vụ đông xuân tại các tỉnh phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long và miền Đông Nam Bộ. Đây là vùng rau hàng hoá lớn cung cấp nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, phát huy được lợi thế này thì ngành sản xuất rau sẽ có tốc độ phát triển nhảy vọt.
Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2004, diện tích trồng rau của cả nước là 614,5 nghìn ha, gấp đôi năm 1994 (297,3 nghìn ha), chiếm khoảng 7% đất nông nghiệp và 10% đất cây hàng năm [6]. Với năng suất 144,1 tạ/ha (bằng 90% năng suất trung bình toàn thế giới), sản lượng rau cả nước đạt 8,855 triệu tấn/ha, gấp 2,5 lần so với năm 1994 (3,52 triệu tấn). Như vậy, trong 10 năm, mức tăng bình quân đạt 13,57%/năm.
Tính đến năm 2005, tổng diện tích rau các loại trên cả nước đạt 635,8 nghìn ha, sản lượng là 9640,3 nghìn tấn; so với năm 1999, diện tích tăng 175,5 nghìn ha (tốc độ tăng 3,61%/năm), sản lượng tăng 3071,5 nghìn tấn (tốc độ tăng 7,55%/năm).
Trong đó, vùng sản xuất rau lớn nhất là Đồng bằng sông Hồng (chiếm 24,9% diện tích và 29,6% sản lượng rau cả nước), tiếp đến là Đồng bằng sông Cửu Long (chiếm 25,9% diện tích và 28,3 sản lượng rau cả nước).
Theo báo cáo của Văn phòng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, diện tích gieo trồng rau, đậu cả nước tăng lên liên tục từ quý III năm 2006, vượt so với cùng kỳ năm 2005. Năm 2006 cả nước đã gieo trồng được 675 nghìn ha rau đậu các loại, tăng 3,3% so với năm 2005. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, diện tích trồng rau trên đất nông nghiệp cả năm 2006 của Việt Nam là 644,0 nghìn ha; năng suất trung bình cao nhất từ trước đến nay (149,9 tạ/ha). Tổng sản lượng rau cả nước đạt 9,65 triệu tấn, đạt 144 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% GDP ngành nông nghiệp trong khi diện tích chỉ chiếm 6%.
B¶ng 2.2. DiÖn tÝch, n¨ng suÊt, s¶n lîng c¸c lo¹i rau ph©n theo vïng
STT
Vùng
Diện tích (1.000 ha)
Năng suất (tạ/ha)
Sản lượng (1.000 tấn)
1999
2005
1999
2005
1999
2005
Cả nước
459,6
635,1
126
151,8
5792,2
9640,3
1
§BSH
126,7
158,6
157
179,9
1988,9
2852,8
2
Trung du, MNPB
60,7
91,1
105,1
110,6
637,8
1008
3
B¾c trung bé
52,7
68,5
81,2
97,8
427,8
670,2
4
Nam trung bé
30,9
44
109
140,1
336,7
616,4
5
T©y nguyªn
25,1
49
177,5
201,7
445,6
988,2
6
§«ng nam bé
64,2
59,6
94,2
129,5
604,9
772,1
7
§BSCL
99,3
164,3
136
166,3
1350,5
2732,6
Nguồn: Tổng cục Thống kê (2005) [6]
Hiện nay, sản xuất rau theo hướng nông nghiệp công nghệ cao đã bước đầu được hình thành, các phương thức áp dụng như sản xuất trong nhà màn, nhà lưới chống côn trùng, sản xuất trong nhà plastic nhưng không cố định để hạn chế các yếu tố môi trường bất lợi, trồng rau bằng kỹ thuật thủy canh, màng dinh dưỡng, nhân giống và sản xuất các loại cây quý hiếm, năng suất cao bằng công nghệ nhà kính của Israel có kiểm soát các điều kiện môi trường…
Tại các đô thị, diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp (Hà Nội mỗi năm mất khoảng 1.000 ha, TP. Hồ Chí Minh đến năm 2010 giảm 24.420 ha so với năm 2000), mặt khác năng suất rau còn thấp, chỉ bằng 87% so với năng suất trung bình thế giới, tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch khá cao (20 - 30%), nên sản xuất rau theo hướng công nghệ cao là một hướng đi đúng (theo Trần Khắc Thi, Viện Nghiên cứu Rau quả).
Về mặt tiêu thụ, nhìn chung, ngành trồng rau đã đóng góp một khối lượng sản phẩm đáng kể cho xuất khẩu ở nước ta. Từ năm 1957, rau quả Việt Nam đã có mặt tại Trung Quốc. Thời kỳ 1986 - 1990, thực hiện Hiệp định hợp tác đã ký giữa hai Chính phủ Việt Nam và Liên Xô cũ (tháng 01/1985) về xuất khẩu sản phẩm rau quả sang Liên Xô, một khối lượng lớn rau đã được bán, góp phần không nhỏ vào kim ngạch xuất khẩu cho đất nước.
Bảng 2.3. Kim ngạch xuất khẩu rau quả năm 1990 - 2004 (triệu USD)
Năm
Kim ngạch
Năm
Kim ngạch
1990
52,3
1997
68,2
1991
33,3
1998
53,0
1992
32,2
1999
104,9
1993
23,6
2000
213,126
1994
20,8
2001
329,972
1995
56,1
2002
218,521
1996
102,2
2003
182,554
(Nguồn: Tổng cục Thống kê) [6].
Tính đến năm 2002, nước ta đã có khoảng 60 cơ sở chế biến rau quả với tổng công suất 290.000 tấn sản phẩm/năm, trong đó, doanh nghiệp nhà nước chiếm khoảng 50%, doanh nghiệp tư nhân 16% và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 34%. Ngoài ra còn có hàng chục ngàn hộ gia đình làm chế biến rau quả với quy mô nhỏ [4].
Hiện nay, sản phẩm rau tươi tiêu thụ chủ yếu ở thị trường trong nước còn sản phẩm chế biến thì chiếm tỷ lệ không đáng kể. Năm 2005, rau quả chế biến xuất khẩu chỉ đạt 235 triệu USD, trong đó phần lớn là sản phẩm quả chế biến. Sản phẩm rau xuất khẩu rất hạn chế về chủng loại, hiện chỉ có một số chủng loại như: cà chua, ngô ngọt, ngô rau, ớt, dưa hấu… ở dạng sấy khô, đóng lọ, đóng hộp, muối mặn, cô đặc, đông lạnh và chỉ có một số là xuất khẩu tươi.
Hội thảo “Trái cây Việt Nam: cơ hội và thách thức trong hội nhập kinh tế quốc tế” tại Mỹ Tho, ngày 20 tháng 04 năm 2010 cho thấy kim ngạch xuất khẩu từ năm 2004 đến nay tăng trưởng khá đều. Ước tính chung 6 năm (2004-2009) tổng kim ngạch xuất khẩu rau quả đạt 1,82 tỷ USD, tăng trưởng bình quân đạt 20 %/năm.
Cụ thể: năm 2004: 179 triệu USD; năm 2005: 235 triệu USD; năm 2006: 259 triệu USD; năm 2007: 306 triệu USD; năm 2008: 407 triệu USD; năm 2009: 439 triệu USD.
Đa số các doanh nghiệp xuất khẩu nhận thức được tầm quan trọng về quản lý chất lượng sản phẩm, an toàn vệ sinh thực phẩm, một số lớn doanh nghiệp chế biến xuất khẩu đã được chứng nhận HACCP, ISO, BRC,Kosher, Halal…Doanh nghiệp cũng rút nhiều kinh nghiệm, quen dần tập quán mua bán hàng hóa của các thị trường chính: EU, Hoa Kỳ, Trung Đông, biên mậu phía Bắc… Sản phẩm rau quả Việt Nam xuất khẩu ngày càng đa dạng hơn, mới lạ hơn (Hiệp hội Rau quả Việt Nam- Báo cáo tình hình xuất khẩu rau quả 2009).
2.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn về sản xuất rau an toàn
2.2.1. Một số yêu cầu và chỉ tiêu chất lượng rau sạch, rau an toàn
Theo quy định của Bộ NN&PTNT, sản phẩm rau xanh sạch, an toàn khi phải đáp ứng được các yêu cầu sau đây:
+ Sạch, hấp dẫn về hình thức: tươi không dập nát, hỏng thối, sạch bụi bẩn tạp chất, thu đúng độ chín, có chất lượng cao nhất, không có triệu chứng bệnh, có bao bì đẹp hấp dẫn.
+ Sạch, an toàn về chất lượng: khi sản phẩm rau có chất lượng đúng như đặc tính giống đồng thời có các dư lượng thuốc BVTV, hàm lượng nitrat, hàm lượng kim loại nặng..., không vượt ngưỡng cho phép theo tiêu chuẩn vệ sinh y tế, được các cơ quan có đầy đủ thẩm quyền chức năng xác nhận và bảo đảm an toàn cho người tiêu dùng và môi trường thì được coi là rau đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm, gọi tắt là rau an toàn (RAT).
Về một số chỉ tiêu của rau tươi phải đảm bảo quy định cho phép như sau:
- Hàm lượng Nitrat (NO3ˉ) tích lũy trong sản phẩm rau.
B¶ng 2.4. Møc giíi h¹n tèi ®a cho phÐp hµm lîng nitrat (NO3ˉ)trong s¶n phÈm rau t¬i
STT
Loại rau
Mức giới hạn tối đa cho phép (mg/kg)
Phương pháp thử
(Theo TCVN 5247:1990)
1
Xà lách
1.500
-
2
Rau gia vị
600
-
3
Bắp cải, Su hào, Suplơ, Củ cải , tỏi
500
-
4
Hành lá, Bầu bí, Ớt cay, Cà tím
400
-
5
Ngô rau
300
-
6
Khoai tây, Cà rốt
250
-
7
Đậu ăn quả, Măng tây, Ớt ngọt
200
-
8
Cà chua, Dưa chuột
150
-
9
Dưa bở
90
-
10
Hành tây
80
-
11
Dưa hấu
60
-
(Nguån: Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ngày 28 tháng 12 năm 2007)
Sản xuất theo RAT là một bộ phận của ngành sản xuất nông nghiệp, bên cạnh những đặc điểm chung, sản xuất RAT còn có những yêu cầu riêng:
- Phải xử lý kỹ vườn ươm để phòng chống sâu, bệnh cho cây giống.
- Là loại cây trồng yêu cầu kỹ thuật cao, đầu tư vật chất cũng như lao động lớn hơn cây trồng khác.
- Là sản phẩm chứa nhiều chất dinh dưỡng nên có nhiều loại sâu bệnh hại, cần phải sử dụng thuốc BVTV, phân bón đúng quy định (về liều lượng, chủng loại, tần suất phun…).
- Đòi hỏi của thị trường tiêu thụ rất nghiêm ngặt, người sản xuất phải tôn trọng và đáp ứng đúng các tiêu chuẩn về chất lượng thì sản phẩm mới tồn tại được trên thị trường.
- Rau an toàn là sản phẩ