Đề tài Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam

Việc kiểm tra, thửnghiệm các thiết bị điện và điện tửgia dụng được thực hiện ởtất cảcác nước trên thếgiới. Mặt khác việc thửnghiệm và kiểm tra các thiết bị điện và điện tửgia dụng phải tuân thủtheo tiêu chuẩn của từng quốc gia và phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tếnhưtiêu chuẩn IEC. Trên cơsở đó các nước hình thành các trung tâm kiểm định và thửnghiệm cho các thiết bị điện và điện tửgia dụng, các trung tâm kiểm định và thửnghiệm tại các vùng. tại các tỉnh. Bên cạnh đó thì các nhà sản xuất các thiết bịtrước khi đưa ra thịtrường họ cũng phải thửnghiệm và kiểm định thiết bịcủa mình. Trên cơsở đó các thiết bị phải được chứng nhận của quốc gia đó hoặc là phải được chứng nhận của quốc gia mà các thiết bị đó được nhập khẩu vào. Tất cảcác thiết bị điện và điện tửgia dụng đều phải tuân thủmột quy định hết sức chặt chẽtrước khi đưa ra thị trường. Hiện nay tại nước ta việc kiểm tra thửnghiệm các thiết bị điện và điện tửgia dụng được triển khai qua các trung tâm kỹthuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng các khu vực trên cơsởquy chuẩn kỹthuật quốc gia vềan toàn đối với các thiết bị điện và điện tửgia dụng. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này vẫn còn đang ởtình trạng dựthảo chờý kiến đóng góp đểthông qua. Mặt khác các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã được trang bịcác thiết bịthửnghiệm và kiểm định tương đối tốt nhưng việc quan tâm đến các thiết bị điện và điện tửgia dụng vẫn còn bỏngỏ, điều này dẫn đễn các thiết bị điện và điện tửgia dụng vẫn chưa được siết chặt theo các quy chuẩn chất lượng dẫn đến các thiết bịchưa có sựthống nhất làm cho chất lượng của các thiết bị điện và điện tửgia dụng trên thịtrường của chúng ta còn lộn xộn khó có thểphân biệt giữa hang chất lượng và kém chất lượng. Thiết bịtiêu thụnăng lượng hiệu suất cao và thiết bịtiêu thụ năng lượng hiệu suất thấp. Điều này cần phải đòi hỏi xây dựng năng lực cho các trung tâm kiểm tra và thửnghiệm cho các thiết bị điện và điện tửgia dụng ngày một nâng cao đểtiến tới một thịtrường với các thiết bịcó chất lượng tốt và hiệu quảcao Trên cơsởkhảo sát đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra và thửnghiệm thiết Đềtài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thửnghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã sốI150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------3 bị điện và điện tửgia dụng điển hình. Từ đó xây dựng các khung pháp lý lộtrình bắt buộc thửnghiệm và kiểm tra các thiết bịvà điện tửtiết kiệm năng lượng. Định hướng phát triển các trung tâm kiểm tra và thửnghiệm các thiết bị điện và điện tửgia dụng

pdf71 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bé C«ng th−¬ng tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam ViÖn n¨ng l−îng M· sè: I-150 Đề tài 7175 17/3/2009 Hµ néi - 12/2008 Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đức Song Trưởng phòng: Trần Mạnh Hùng Viện trưởng: Phạm Khánh Toàn NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ Hà nội, 12-2008 Bé C«ng th−¬ng tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam ViÖn n¨ng l−îng Mã số: I-150 Đề tài NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2 Bé C«ng th−¬ng tËp ®oµn ®iÖn lùc ViÖt Nam ViÖn n¨ng l−îng M· sè: I-150 Đề tài Hµ néi - 12/2008 Chủ nhiệm đề tài: ThS. Nguyễn Đức Song Trưởng phòng: Trần Mạnh Hùng Viện trưởng: Phạm Khánh Toàn NGHIÊN CỨU KHẢO SÁT, ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG ĐIỂN HÌNH TẠI VIỆT NAM Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 1 MỤC LỤC Nội dung Trang MỞ ĐẦU: SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI 2 BỐ CỤC NỘI DUNG ĐỀ TÀI 4 Chương I KH¶O S¸T Vµ §¸NH GI¸ HIÖN TR¹NG N¡NG LùC KIÓM TRA THö NGHIÖM THIÕT BÞ §IÖN GIA DôNG T¹I VIÖT NAM 5 Chương II ĐÁNH GIÁ HỆ THỐNG CÁC VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT VÀ TIÊU CHUẨN KỸ THUẬT LIÊN QUAN 14 Chương III ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIÉT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG 20 Chương IV XÂY DỰNG HỆ THỐNG QUẢN LÝ TẠI CÁC CƠ SỞ CHẾ TẠO THIẾT BỊ GIA DỤNG TRONG NƯỚC 23 Kết luận 68 Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 2 MỞ ĐẦU SỰ CẦN THIẾT NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Việc kiểm tra, thử nghiệm các thiết bị điện và điện tử gia dụng được thực hiện ở tất cả các nước trên thế giới. Mặt khác việc thử nghiệm và kiểm tra các thiết bị điện và điện tử gia dụng phải tuân thủ theo tiêu chuẩn của từng quốc gia và phải tuân theo các tiêu chuẩn quốc tế như tiêu chuẩn IEC. Trên cơ sở đó các nước hình thành các trung tâm kiểm định và thử nghiệm cho các thiết bị điện và điện tử gia dụng, các trung tâm kiểm định và thử nghiệm tại các vùng. tại các tỉnh. Bên cạnh đó thì các nhà sản xuất các thiết bị trước khi đưa ra thị trường họ cũng phải thử nghiệm và kiểm định thiết bị của mình. Trên cơ sở đó các thiết bị phải được chứng nhận của quốc gia đó hoặc là phải được chứng nhận của quốc gia mà các thiết bị đó được nhập khẩu vào. Tất cả các thiết bị điện và điện tử gia dụng đều phải tuân thủ một quy định hết sức chặt chẽ trước khi đưa ra thị trường. Hiện nay tại nước ta việc kiểm tra thử nghiệm các thiết bị điện và điện tử gia dụng được triển khai qua các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng các khu vực trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn đối với các thiết bị điện và điện tử gia dụng. Tuy nhiên các tiêu chuẩn này vẫn còn đang ở tình trạng dự thảo chờ ý kiến đóng góp để thông qua. Mặt khác các trung tâm kỹ thuật tiêu chuẩn đo lường chất lượng đã được trang bị các thiết bị thử nghiệm và kiểm định tương đối tốt nhưng việc quan tâm đến các thiết bị điện và điện tử gia dụng vẫn còn bỏ ngỏ, điều này dẫn đễn các thiết bị điện và điện tử gia dụng vẫn chưa được siết chặt theo các quy chuẩn chất lượng dẫn đến các thiết bị chưa có sự thống nhất làm cho chất lượng của các thiết bị điện và điện tử gia dụng trên thị trường của chúng ta còn lộn xộn khó có thể phân biệt giữa hang chất lượng và kém chất lượng. Thiết bị tiêu thụ năng lượng hiệu suất cao và thiết bị tiêu thụ năng lượng hiệu suất thấp. Điều này cần phải đòi hỏi xây dựng năng lực cho các trung tâm kiểm tra và thử nghiệm cho các thiết bị điện và điện tử gia dụng ngày một nâng cao để tiến tới một thị trường với các thiết bị có chất lượng tốt và hiệu quả cao Trên cơ sở khảo sát đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra và thử nghiệm thiết Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 3 bị điện và điện tử gia dụng điển hình. Từ đó xây dựng các khung pháp lý lộ trình bắt buộc thử nghiệm và kiểm tra các thiết bị và điện tử tiết kiệm năng lượng. Định hướng phát triển các trung tâm kiểm tra và thử nghiệm các thiết bị điện và điện tử gia dụng Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 4 BỐ CỤC NỘI DUNG ĐỀ TÀI CHƯƠNG I: Khảo sát và đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng tại Việt Nam Chương II: Đánh giá hệ thống các văn bản QPPL và tiêu chuẩn kỹ thuật liên quan Chương III: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng Chương IV: Xây dựng hệ thống quản lý tại các cơ sở chế tạo thiết bị điện gia dụng trong nước Kết luận PHẠM VI GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI Trong khuôn khổ nghiên cứu ban đầu của đề tài, do điều kiện hạn chế về thời gian và kinh phí, về số liệu thực tế thu thập, đề tài giới hạn trong phạm vi nghiên cứu chủ yếu sau: Điều tra, nghiên cứu hiện trạng năng lực kiểm tra thiết bị gia dụng điển hình là Tủ lạnh và điều hoà không khí Để đạt được những kết quả nghiên cứu của đề tài, chủ nhiệm đề tài thay mặt nhóm nghiên cứu xin cám ơn sự tham gia và đóng góp ý kiến tích cực cho đề tài, đó là các đồng nghiệp và các cộng sự, các đơn vị và cá nhân cơ quan trong ngành như Bộ Công Thương, Cục Điều tiết Điện lực, Tập đoàn Điện lực Việt nam, Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 5 CHƯƠNG I KHẢO SÁT VÀ ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NĂNG LỰC KIỂM TRA THỬ NGHIỆM THIẾT BỊ ĐIỆN GIA DỤNG TẠI VIỆT NAM I Mở đầu Trong xã hội ngày nay, người tiêu dùng ngày càng quan tâm đến sản phẩm, hàng hoá từ các khía cạnh an toàn, tác động đến sức khoẻ và môi trường, bền vững, tiết kiệm năng lượng, tương thích và phù hợp với mục đích sử dụng. Xuất phát từ nhu cầu này, các hoạt động chứng nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật được tiến hành nhằm vào ba mục đích chính sau đây: 1. Giúp cho người người tiêu dùng có được quyết định đúng đắn khi lựa chọn sản phẩm, hàng hoá trên thị trường; 2. Giúp cho các nhà cung ứng sản phẩm, hàng hoá biết được mức chấp nhận của thị trường để phấn đấu và làm thoả mãn nhu cầu cũng như các yêu cầu luật định, đặc biệt là yêu cầu về an toàn và tiết kiệm năng lượng của sản phẩm, hàng hoá; 3. Giúp cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền thực thi nhiệm vụ quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hoá. Nằm trong xu thế chung này, sản phẩm điện, điện tử là một trong các mặt hàng được người tiêu dùng đặc biệt quan tâm về khía cạnh an toàn khi sử dụng. Cũng chính vì lý do này mà sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử cũng thường là mặt hàng được các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền tại các quốc gia đưa vào trong nhóm các mặt hàng chịu sự quản lý chặt chẽ về an toàn. Một trong biện pháp quản lý phổ biến thường được lựa chọn là sử dụng các kết quả chứng nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp với tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật do tổ chức chứng nhận độc lập tiến hành. II. Chứng nhận sản phẩm, hàng hoá phù hợp tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật Về bản chất, chứng nhận sản phẩm là hoạt động thông qua đó một tổ chức, đóng vai trò là một bên thứ ba độc lập, đưa ra sự đảm bảo bằng văn bản rằng một sản Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 6 phẩm, hàng hoá phù hợp với các yêu cầu quy định trong một tiêu chuẩn hoặc quy chuẩn kỹ thuật. Tiêu chuẩn là tự nguyện áp dụng còn quy chuẩn kỹ thuật là bắt buộc áp dụng. Các yêu cầu bắt buộc áp dụng thường được sử dụng trong các trường hợp liên quan đến an toàn, vệ sinh, sức khoẻ và môi trường. Hoạt động chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn có thể bao gồm nhiều hoạt động chức năng khác nhau như chọn mẫu sản phẩm, đánh giá mẫu sản phẩm, đánh giá quá trình sản xuất hay hệ thống quản lý chất lượng, xem xét kết quả đánh giá và ra quyết định, giám sát sau chứng nhận. Nội dung cơ bản trong các hệ thống chứng nhận sản phẩm có thể bao gồm một trong những nội dung sau: - Thử nghiệm mẫu sản phẩm điển hình - Thử nghiệm mẫu sản phẩm đại diện của lô hàng - Đánh giá quá trình sản xuất hoặc đánh giá hệ thống chất lượng - Thử nghiệm mẫu sản phẩm lấy từ thị trường hoặc lấy tại nơi sản xuất trong quá trình giám sát. Tuỳ vào mức độ tin cậy đối với mục đích sử dụng của từng chủng loại sản phẩm và mức độ rủi ro liên quan đến khía cạnh về an toàn, sức khoẻ và tác động đến môi trường của sản phẩm, hoạt động chứng nhận sản phẩm hợp chuẩn sẽ có sự kết hợp giữa một số nội dung này để tạo nên 7 hệ thống chứng nhận sản phẩm cụ thể. Tiêu chuẩn quốc tế ISO/IEC Guide 67 có đưa ra mô hình định hướng cho 7 hệ thống chứng nhận sản phẩm. Nguyên tắc xác định và sự khác biệt của các hệ thống chứng nhận này được mô tả khái quát trong Sơ đồ 1. Dựa vào đặc điểm chính của từng mô hình, có thể phân chia 7 mô hình chứng nhận trên vào 2 nhóm chính là nhóm 1 (mô hình 1A và 1B) và nhóm 2 (mô hình 2, 3, 4, 5). Riêng mô hình 6 là một trường hợp rất đặc biệt minh hoạ cho một hệ thống chứng nhận sản phẩm gần giống với chứng nhận hệ thống và chỉ áp dụng trong trường hợp sản phẩm là dịch vụ. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 7 Với các hệ thống chứng nhận trong Nhóm 1, mức độ tin cậy của kết quả chứng nhận chỉ đơn thuần dựa trên kết quả thử nghiệm mẫu sản phẩm (thử nghiệm điển hình hoặc thử nghiệm đại diện theo Lô sản phẩm) và do vậy khó đánh giá được tính đại diện của mẫu sản phẩm cũng như khó chứng minh được cho sự ổn định của các đặc tính của sản phẩm vì thiếu các biện pháp giám sát. Ngoài ra, các phương pháp này cũng không có hiệu quả vì sẽ tốn kém quá nhiều chi phí thử nghiệm cho từng lô hàng. Chính vì lý do này mà thông thường biện pháp thử nghiệm theo lô thường chỉ được áp dụng trong điều kiện kiểm soát chất lượng sản phẩm, hàng hoá nhập khẩu theo từng lô và có rủi ro thấp hoặc thử nghiệm mẫu điển hình để kiểm tra mẫu nhất định trong kiểm tra nhà nước về chất lượng. Các hệ thống chứng nhận thuộc nhóm 2 có đặc điểm chung là mức độ tin cậy của kết quả chứng nhận được đảm bảo hơn vì dựa trên đồng thời kết quả thử nghiệm điển hình và đánh giá điều kiện sản xuất trước chứng nhận. Đặc điểm này cho phép tiên lượng được khả năng duy trì ổn định các đặc tính sản phẩm đã được xác nhận trong báo cáo thử nghiệm. Điểm khác biệt giữa các mô hình này nằm ở việc áp dụng các biện pháp khác nhau trong giám sát sản phẩm sau chứng nhận. Trong các hệ thống này, có thể nhận thấy rằng nếu được áp dụng ở mức độ đầy đủ nhất, Hệ thống 5 sẽ là hệ thống chứng nhận sản phẩm chặt chẽ và tin cậy nhất trong các hệ thống chứng nhận. Ngoài tính chặt chẽ có độ tin cậy cao, hệ thống 5 còn cho phép kết hợp và vận dụng linh hoạt các biện pháp giám sát để tận dụng tối đa các đặc điểm kiểm soát của hệ thống 3 và hệ thống 4 khi áp dụng để xem xét khả năng tác động của quá trình phân phối đến chất lượng của sản phẩm. Các đặc điểm trên đây chính là lý do dẫn tới việc tại sao hầu hết các tổ chức chứng nhận trên thế giới áp dụng hệ thống 5 một cách phổ biến cho chứng nhận phần lớn các sản phẩm hàng hoá (PSB của Singapore, Sirim của Malaysia, BSI của Anh, CQC của Trung Quốc, BIS của Ấn Độ,...). Xét về mức độ rủi ro và tầm quan trọng của việc đảm bảo an toàn đối với các sản phẩm điện - điện tử trong sử dụng, hệ thống 5 là hệ thống phù hợp để triển khai các hoạt động chứng nhận sản phẩm điện - điện tử. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 8 III. Chứng nhận sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử trong ASEAN EE MRA Trong xu thế toàn cầu hoá về kinh tế và thương mại, một trong những mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia là tháo gỡ các rào cản đối với thương mại tạo nên bởi các các biện pháp thuế quan, kiểm soát giá thành, độc quyền buôn bán hay các biện pháp kỹ thuật. Trong các vấn đề nêu trên, rào cản kỹ thuật là một trong những vấn đề được WTO, APEC và các nước trong khối ASEAN đặc biệt quan tâm. Về bản chất, rảo cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại sẽ nảy Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 9 sinh khi không có sự minh bạch và rõ ràng trong chính sách và quy chế quản lý của mỗi quốc gia, không hài hòa và thống nhất về các tiêu chuẩn – quy định đối với sản phẩm/hàng hoá và có sự không đồng đều và tương xứng về hạ tầng cũng như năng lực của các hoạt động đánh giá sự phù hợp. Trong ASEAN, tại Hội nghị thượng định ASEAN lần thứ VI tổ chức tại Hà Nội - Việt Nam vào ngày 16/12/1998, các nước thành viên ASEAN đã ký kết Hiệp định khung về Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau nhằm mục đích chấp nhận hay thừa nhận các kết quả đánh giá sự phù hợp do các tổ chức đánh giá sự phù hợp của các nước thành viên thực hiện. Mục đích chính của hiệp định là nhằm hướng tới việc thực hiện khẩu hiệu hội nhập về chất lượng “Một lần đánh giá, cấp một chứng chỉ và có gia trị ở mọi nơi”. Triển khai thực hiện theo định hướng này, với mục tiêu thuận lợi hoá thương mại, giảm chi phí và thời gian kiểm tra hàng hoá điện - điện điện tử xuất - nhập khẩu trong khu vực, mười nước thành viên ASEAN đã thống nhất thông qua Thoả thuận thừa nhận lẫn nhau về thiết bị điện - điện tử của ASEAN (ASEAN Sectoral Mutual Recognition Arrangement for Electrical and Electronic Equipment viết tắt là ASEAN EE MRA) vào ngày 5/4/2002 tại Bangkok – Thailand. Thoả thuận này là một bước tiến quan trọng cho phép chính phủ của các nước thành viên ASEAN vừa duy trì được mục tiêu quản lý an toàn của các sản phẩm điện - điện tử, vừa tạo thuận lợi cho các bên tham gia trong quá trình thương mại với các khả năng giảm thiểu thời gian và chi phí. Xét về lợi ích của các bên, việc hình thành một thoả thuận như ASEAN EE MRA là cần thiết vì theo xu thế chung, mỗi một quốc gia đều có mục tiêu quản lý hoạt động sản xuất, thương mại và quảng cáo liên quan đến sản phẩm điện, điện tử nhằm đảm bảo người tiêu dùng và cộng đồng nói chung được đảm bảo một quyền lợi tối thiểu và chính đáng là quyền sử dụng các sản phẩm điện, điện tử an toànvà tiết kiệm năng lượng. Có thể xem xét trường hợp của Singapore như một ví dụ điển hình để thấy được sự liên quan giữa vai trò quản lý nhà nước và các hoạt động chứng nhận sản phẩm điện, điện tử cũng như lợi ích của cơ chế theo ASEAN EE MRA trong việc tạo thuận lợi trong quá trình triển khai thực hiện mục tiêu quản lý này. Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 10 Ở Singapore, mục tiêu của Hệ thống đăng ký bảo vệ an toàn người tiêu dùng của Singapore (CPS Scheme) là nhằm bảo vệ mối quan tâm của người tiêu dùng về sự an toàn của các sản phẩm điện, điện tử được quy định thuộc nhóm các sản phẩm, hàng hoá bắt buộc phải được kiểm soát hoàn toàn phù hợp với một tiêu chuẩn an toàn cụ thể. CPS Scheme, được điều hành bởi SPING Singapore thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp (MTI) với vai trò là cơ quan quản lý an toàn, áp dụng đối với 45 nhóm sản phẩm điện điện tử. Mỗi sản phẩm điện, điện tử thuộc nhóm này đều được quy định rõ phải phù hợp với một tiêu chuẩn quốc gia và/hoặc tiêu chuẩn quốc tế tương đương cũng như phù hợp với một số yêu cầu đặc thù của cơ quan quản lý nhà nước (Tham khảo Phụ lục 1 về Danh sách nhóm sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử bắt buộc phải được quản lý tại Singapore). Tất cả các nhà sản xuất, nhập khẩu, bán lẻ và thương mại có liên quan đến việc quảng cáo hoặc cung cấp bất kỳ sản phẩm điện - điện tử nào thuộc danh mục này trước tiên đều phải đăng ký với cơ quan quản lý an toàn như một Nhà cung cấp được đăng ký. Sau đó, nhà cung cấp được đăng ký tiến hành đăng ký cho từng kiểu loại sản phẩm cụ thể với cơ quan quản lý an toàn. Hồ sơ đăng ký với phải được kèm theo một Chứng nhận về Sự phù hợp (COC) do một tổ chức đánh giá sự phù hợp được chỉ định ban hành. Chỉ các sản phẩm đã được đăng ký chính thức mới được phép gắn dấu an toàn (Safety Mark) và được phép quảng cáo hoặc cung cấp trong phạm vi của lãnh thổ Singapore. Về nguyên tắc, Singapore có thể chỉ định một tổ chức đánh giá sự phù hợp bên ngoài lãnh thổ để ban hành COC sử dụng trong hoạt động đăng ký này theo nguyên tắc của một thoả thuận thừa nhận tương ứng như thoả thuận ASEAN EE MRA. IV. Trung tâm Chứng nhận Phù hợp Tiêu chuẩn QUACERT với quá trình chuẩn bị năng lực trong việc tham gia vào ASEAN EE MRA với tư cách là tổ chức chứng nhận sản phẩm. hàng hoá được chỉ định. Theo ASEAN EE MRA, việc chỉ định các tổ chức chứng nhận của các nước thành viên để đưa vào Danh sách các tổ chức chứng nhận được chỉ định của ASEAN sẽ do Cơ quan chỉ định quốc gia của các nước thực hiện theo trình tự Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: Nghiên cứu khảo sát, đánh giá hiện trạng năng lực kiểm tra thử nghiệm thiết bị điện gia dụng điển hình tại Việt Nam - Mã số I150 ------------------------------------------------------------------------------------------------------------------ 11 quy định. Giấy chứng nhận do tổ chức chứng nhận được chỉ định cấp ra sẽ là bằng chứng về việc sản phẩm, hàng hoá điện - điện tử đã phù hợp với một tiêu chuẩn an toàn cụ thể và do vậy có thể được nước nhập khẩu chấp nhận mà không cần tiến hành các thủ tục đánh giá khác theo quy định. Về nguyên tắc, Giấy chứng nhận sản phẩm phù hợp tiêu chuẩn cụ thể sẽ chỉ đ