Từ lâu hoa Lan đã được tôn vinh là “Mỹ Nữ Sơn Lâm” của các loài hoa, đây không chỉ là một loại hoa vương giả có vẻ đẹp lộng lẫy, mê hồn mà còn tượng trưng cho bản tính hướng thiện của con người. 
Trong dân gian, đã lưu truyền nhiều câu chuyện có liên quan đến loài hoa này. Người đầu tiên ca ngợi hoa Lan là đức Khổng Phu Tử (Trung Quốc - 551 B.C), ví hoa Lan là loài hoa quân tử.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 88 trang
88 trang | 
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 3253 | Lượt tải: 1 
              
            Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu kỹ thuật phát sinh phôi soma và tạo hạt nhân tạo ở cây lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp. ), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 1 
1 Phần 1. Mở đầu 
1.1 Đặt vấn đề 
Từ lâu hoa Lan đã được tôn vinh là “Mỹ Nữ Sơn Lâm” của các loài hoa, đây 
không chỉ là một loại hoa vương giả có vẻ đẹp lộng lẫy, mê hồn mà còn tượng trưng 
cho bản tính hướng thiện của con người. 
Trong dân gian, đã lưu truyền nhiều câu chuyện có liên quan đến loài hoa này. 
Người đầu tiên ca ngợi hoa Lan là đức Khổng Phu Tử (Trung Quốc - 551 B.C), ví hoa 
Lan là loài hoa quân tử...Và trước đó nữa, vua Thần Nông (Trung Quốc - 2800 B.C) 
đã dùng hoa Lan trị bệnh như là một liều thuốc tiên, nên từ đó dân gian đã âm thầm 
gọi hoa Lan là vua của các loài hoa... Tương truyền nước ta cũng có kể rằng: khi vua 
Trần Nhân Tông rời kinh thành về Yên Tử, Quảng Ninh trong đêm ngủ mộng Ngài 
thấy có người đến yết kiến và dâng tặng một giò hoa rất đẹp. Sáng ra, nghi nghi hoặc 
hoặc hoặc nhà vua đi sâu vào trong núi thì bắt gặp tại một khe sâu có một loài 
hoa lạ, đẹp và vô cùng thuần khiết. Đời sau người ta gọi loài hoa này là lan Trần mộng 
(giấc mộng của vua Trần) để chỉ điển tích rũ sạch bụi trần bước vào cõi thiền thuần 
khiết của Ngài. 
Do đó, thú chơi Lan mang một ý nghĩa rất đặc biệt, bởi khi chăm Lan người ta 
không chỉ chăm chút cái đẹp cho hoa mà còn đang dưỡng một cái Tâm trong sáng cho 
mình. 
Ngày nay, chúng ta có thể thấy hoa lan ở khắp mọi nơi và dễ bị choáng ngợp 
trước vẻ đẹp quyến rũ, biến hóa muôn màu muôn vẻ của các loài lan như Cattleya, Hồ 
Điệp , Dendrobium, Mokara, Vanda, Cymbidium, Oncidium.... Hoa lan được ưa 
chuộng phải chăng bởi đó là biểu tượng của niềm khát khao cuộc sống phong lưu và 
hạnh phúc bền bỉ. 
Hoa lan là một món quà của tạo hóa, nó không chỉ là một loài hoa đẹp có giá trị 
về mặt tinh thần mà còn có giá trị kinh tế cao và hiện đang có thị trường tiêu thụ mạnh 
trong nước cũng như xuất khẩu. 
Tại khu vực Đông Nam Á ngành hoa lan phát triển rất mạnh, Thái Lan là nước 
xuất khẩu lan nhiều nhất thế giới (có đến 1.000 giống hoa lan), tại Malaysia thì chính 
 2 
phủ đã qui hoạch hẳn 300 ha đất ở Johor và giao cho Hiệp hội hoa lan tổ chức thành 
khu “Trung Tâm Sản Xuất Hoa Cảnh Xuất Khẩu”, ngành trồng hoa lan ở Đài Loan 
cũng đang tăng nhanh tốc độ từ 15-20%, đạt doanh thu hằng năm hơn 9,3 tỷ đài tệ. 
Ở Việt Nam, nghề trồng Lan phát triển chậm hơn các nước rất nhiều. Việc 
trồng lan trên địa bàn TP.HCM lâu nay chủ yếu là do tự phát nên diện tích trồng còn 
nhỏ và trình độ tay nghề nông dân chưa đồng đều, ngoài ra người trồng lan vẫn chưa 
chủ động được nguồn giống, vì vậy việc trồng lan rất khó khăn, đặc biệt là trồng lan 
Hồ Điệp. Loại lan này trồng rất khó và phải đầu tư lớn, từ việc cung cấp dưỡng chất và 
giữ ẩm cho cây đến thiết bị nhà ươm, chăm sóc… đều phải nhập ngoại và chịu thuế 
khá cao. Đặc biệt, sau 2 năm trở đi cây mới cho thu hoạch thì có thể lúc đó thị trường 
đã bão hòa, lợi nhuận thu được không tương xứng với vốn và công sức bỏ ra. 
Theo tình hình đó đã có nhiều công trình nghiên cứu nuôi cấy in vitro lan Hồ 
Điệp nhằm tạo ra nguồn hoa mới ổn định. Từ nuôi cấy mô, nguồn gene từ các dòng lan 
sưu tập sẽ được lưu giữ lại để nâng cao chất lượng giống, đồng thời tổ chức nhân 
nhanh để cung cấp cho nhu cầu thị trường trong và ngoài nước. Tuy đã có một số 
thành tựu đáng kể nhưng thực tế vẫn còn nhiều hạn chế như chất lượng giống không 
đồng đều và không thể thực hiện trên quy mô lớn. 
Dựa vào thực tế đã nêu trên, với đề tài “Nghiên cứu kỹ thuật phát sinh phôi 
soma và tạo hạt nhân tạo ở cây lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp. )”, chúng tôi mong 
muốn góp một phần vào nền công nghiệp sản xuất hoa lan Hồ Điệp. Trong đề tài này, 
lan Hồ Điệp được sản xuất bằng phương pháp nhân giống in vitro tốc độ cao tạo cây 
giống có đặc điểm về kiểu gen và kiểu hình đồng nhất với nguồn mẫu ban đầu. Từ đó, 
có thể cho ra đời nhiều giống cây hoa lan Hồ Điệp mới có chất lượng tốt để ngày càng 
đáp ứng được nhu cầu của những người yêu hoa Lan. 
Hiện nay trên thế giới, các công trình nghiên cứu về phôi soma đã đạt được 
những thành công nhất định trên thực vật hai lá mầm, trong khi ở những cây một lá 
mầm vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Vì những ứng dụng tốt đẹp mà phôi soma có thể 
mang lại, trong đề tài này chúng tôi thử nghiệm một phương pháp tạo phôi soma trên 
cây hoa lan Hồ Điệp sao cho việc tạo phôi soma trở nên thật đơn giản và hiệu quả. 
Từ kết quả thu nhận được trong việc tạo phôi soma cây lan Hồ Điệp, chúng tôi 
đi xa hơn nữa, bằng cách sử dụng các phôi soma ấy để tạo hạt nhân tạo. Công nghệ hạt 
 3 
nhân tạo là phương pháp tạo một dạng hạt mô phỏng hạt tự nhiên, có một phôi sinh 
dưỡng hoặc "chồi ngủ" được bọc trong một lớp dung dịch alginate (một chất có tác 
dụng tạo lớp vỏ cứng bên ngoài cho mầm hạt) có chứa chất dinh dưỡng, phôi này sau 
đó nảy mầm thành cây con hoàn chỉnh. Đây là một vấn đề đang được các nhà khoa học 
trên thế giới quan tâm trong ứng dụng bảo quản phôi vô tính, chất mầm thực vật dài 
hạn. Đồng thời mở ra một hướng mới cho việc sử dụng những hạt vô tính thay cho các 
hạt hữu tính có khả năng nẩy mầm thấp và không đồng loạt. 
Khi thực hiện đề tài này, chúng tôi hy vọng sẽ mang đến những hiểu biết mới 
về quá trình hình thành phôi vô tính trên cây lan Hồ Điệp nói riêng và hoa lan nói 
chung, đồng thời đem lại những ứng dụng thiết thực cho ngành nuôi cấy mô thực vật 
tại Việt Nam. 
1.2 Mục đích và yêu cầu 
1.2.1 Mục đích 
- Tìm hiểu vai trò tác động của chất điều hòa sinh trưởng lên sự hình thành 
mô sẹo cũng như phát sinh phôi soma của cây lan Hồ Điệp. 
- Tạo hạt nhân tạo có ý nghĩa trong công tác duy trì nguồn mẫu, nguồn gen 
thực vật quí hiếm trong một thời gian dài phục vụ cho những mục đích sử dụng khác 
trong tương lai. 
- Làm cơ sở cho việc kiểm chứng sự khác nhau giữa cây hoa lan Hồ Điệp in 
vitro có nguồn gốc từ phôi soma với cây hoa lan Hồ Điệp từ các nguồn mô khác. 
- Làm cơ sở để nghiên cứu tiếp khả năng tạo mô sẹo và phát sinh phôi soma 
của các loại cây thân thảo một lá mầm khác. 
1.2.2 Yêu cầu 
- Tạo được cây hoa lan Hồ Điệp có đặc điểm về kiểu gen và kiểu hình đồng 
nhất với nguồn mẫu ban đầu. Từ đó, có thể tạo ra số lượng lớn cây con có chất lượng 
tốt, đồng thời làm giảm giá thành cây con. 
- Hình thành quy trình nhân giống vô tính in vitro và tạo hạt nhân tạo cây hoa 
lan Hồ Điệp, để góp phần nghiên cứu giải quyết nhu cầu giống phục vụ cho việc tiêu 
thụ hoa trong nước và xuất khẩu. 
 4 
Phần 2 Tổng quan tài liệu 
2.1 Giới thiệu về cây lan Hồ Điệp 
Cây lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp.) là loại cây đơn trục sống biểu sinh, thuộc : 
Ngành : Hạt kín (Angiospermae). 
Lớp : Một lá mầm (Monocotyledoneae). 
Bộ : Lan (Orchidales). 
Họ : Phong lan (Orchidaceae). 
Cây phong lan Hồ Điệp (Phalaenopsis sp.) sinh trưởng và phát triển tốt trong 
điều kiện khí hậu Việt Nam. Hồ Điệp có hoa đẹp, đa dạng, màu sắc phong phú lại lâu 
tàn, trung bình trên mỗi phát hoa có từ 7 – 15 hoa, thời gian hoa tươi trên cây kéo dài 
từ 3 – 4 tháng. Đó là tính chất hơn hẳn của phong lan Hồ Điệp so với các loại phong 
lan khác, giúp cho lan Hồ Điệp có giá trị kinh tế cao ở trong nước cũng như ở nước 
ngoài. 
Khả năng tự sinh cây lan con trong thiên nhiên rất thấp. Thông thường để tạo số 
lượng lớn cây con của giống lan này, người ta dùng phương pháp gieo hạt trong nuôi 
cấy in vitro. Tuy nhiên những cây con mọc từ hạt thường tăng trưởng không đồng đều, 
lâu trổ hoa, các đặc điểm của hoa không thuần nhất. Nhân giống bằng con đường tạo 
mô sẹo và phát sinh phôi soma có thể khắc phục các nhược điểm trên. 
2.1.1 Nguồn gốc và sự phân bố 
Cây phong lan Hồ Điệp có nguồn gốc ở Tây Nam Châu Á, trải rộng trên 
những vùng núi cao ở Trung Quốc và Tây Tạng đến Châu Úc, trên vùng kinh tuyến 
bao gồm giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương. Người ta còn gặp giống này ở 
Sumatra, Bornéo, Célèbes, Nouvelle Calédonie (Marry Noble, 1971). 
Đây là những cây sống biểu sinh, trên những cây cao trong rừng dầy có ẩm độ 
cao hoặc rất gần đất, trên những cây nhỡ (arbuter), hay sống bám trên những hốc đá, 
hay trên những đám rêu dày, một vài loài sống ở vùng ven biển. Lan Hồ Điệp ít thích 
hợp với nắng hơn so với những loại phong lan có giả hành. Nhiệt độ thích hợp cho sự 
 5 
tăng trưởng và phát triển là 15oC – 38oC và giống này thường sống ở cao độ 200m-
400m (William và Kramer, 1983). 
Tên Phalaenopsis có nguồn gốc từ Phalaina (phalène) và d’Opsis (apparence), 
được Blume (nhà thực vật học người Hà Lan) đặt vào năm 1852 khi ông khám phá một loài 
lan đặc biệt có hoa giống cánh bướm, đó là Phalaenopsis amabilis. 
Đa số các tác giả đều đồng ý xếp chi Hồ Điệp có một nhụy, kiểu phát hoa bên và 
có cấu tạo đơn trục. Trong chi này có khoảng 70 loài, được phân bố trong những vùng và 
khu vực khác nhau. Các loài này thường xuyên lai chéo với nhau, do đó phả hệ của những 
cây nhận được cũng rất phức tạp. Thế hệ con cháu của chúng cũng không thuần nhất. Tuy 
nhiên sự lai tạo đưa đến một lợi ích lớn để cung cấp những cá thể luôn đổi mới và những 
đặc tính quyến rũ của hoa (Perlz, 1974). 
2.1.2 Vị trí lan Hồ Điệp trên thị trường 
So với đa số các loại lan trên thị trường hiện nay, thì lan Hồ Điệp nổi bật hơn, 
bởi các đặc tính của hoa đa dạng, màu sắc phong phú, hoa lâu tàn, trung bình hoa tươi 
trên cành có thể kéo dài từ 3-4 tháng (Broly, 1982). Trục phát hoa dài, đường kính to, 
mang nhiều hoa to, trung bình 7-15 hoa, do đó rất thuận lợi cho việc trang trí, và có thể 
cắt cành xuất khẩu, chuyên chở xa mà không ảnh hưởng đến chất lượng hoa. Hồ Điệp 
có giá trị kinh tế cao hơn một số giống lan khác. Nếu biết dùng biện pháp kỹ thuật để 
thúc đẩy việc ra hoa sớm thì sẽ có lợi nhiều trong việc kinh doanh. 
 6 
Hình 2.1 Một số loại lan Hồ Điệp phổ biến. 
 7 
2.2 Nuôi cấy mô tế bào thực vật 
2.2.1 Khái niệm 
Nuôi cấy mô tế bào thực vật hay còn gọi là nuôi cấy in vitro là công cụ cần thiết 
trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu cơ bản và ứng dụng của ngành công nghệ sinh học. 
Nhờ áp dụng kĩ thuật nuôi cấy mô, con người đã thúc đẩy thực vật sinh sản nhanh hơn 
gấp nhiều lần so với tự nhiên. Do đó tạo ra hàng loạt cá thể mới giữ nguyên tính trạng 
di truyền của cơ thể mẹ, làm rút ngắn thời gian đưa giống mới vào sản xuất. Hơn nữa 
dựa vào kĩ thuật nuôi cấy mô có thể duy trì và bảo quản nhiều giống cây trồng quí 
hiếm để phục tráng giống cây trồng. 
Phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật bắt đầu từ một mảnh nhỏ thực vật vô 
trùng được đặt trong môi trường dinh dưỡng thích hợp. Chồi mới hay mô sẹo mà mẫu 
cấy này sinh ra bằng sự tăng sinh được phân chia và cấy chuyền để nhân giống. 
2.2.2 Lịch sử phát triển 
Năm 1838, hai nhà sinh vật học Đức là Schleiden và Schwann đề xướng học 
thuyết tế bào và nêu rõ: Mọi sinh vật phức tạp đều gồm nhiều sinh vật nhỏ, các tế bào 
hợp thành, các tế bào phân chia mang thông tin di truyền chứa trong tế bào đầu tiên, 
đó là trứng sau khi thụ tinh và là những đơn vị độc lập từ đó có thể xây dựng lại toàn 
bộ cơ thể. 
Năm 1902, Haberlandt đề xướng phương pháp nuôi cấy mô tế bào thực vật để 
chứng minh tính toàn năng của tế bào, nghĩa là mỗi tế bào đều mang đầy đủ thông tin 
di truyền của cá thể. Ông tiến hành trên cây họ hòa thỏa (cây một lá mầm) một lọai 
cây khó thực hiện và ông bị thất bại. 
Năm 1922, Kote (học trò Haberlandt) và Robbins (nhà khoa học người Mỹ) đã 
lặp lại thí nghiệm của Haberlandt và nuôi cấy được đỉnh sinh trưởng tách ra từ đầu rễ 
của một loại cây thuộc họ hòa thảo tạo ra hệ rễ nhỏ và có cả rễ phụ. Tuy nhiên sự sinh 
trưởng như vậy chỉ tồn tại trong một thời gian sau đó chậm lại và ngừng hẳn mặc dù 
tác giả đã chuyển sang môi trường mới. 
Năm 1934, White đã nuôi cấy thành công đầu rễ cây cà chua (Lycopersicum 
esculentum). 
 8 
Năm 1937, Gautheret và Nobecout đã tạo ra và duy trì được sự sinh trưởng mô 
sẹo cây cà rốt trong một thời gian dài trong môi trường thạch cứng. 
Năm 1941, Overbeck đã chứng minh được vai trò của chất kích thích sinh 
trưởng trong nuôi cấy phôi họ cà. Trong thời gian này chất hích thích sinh trưởng nhân 
tạo thuộc nhóm auxin đã được nghiên cứu và tổng hợp hóa học thành công. Và năm 
1948 Steward đã xác định được tác dụng của nước dừa trong nuôi cấy mô sẹo cây cà 
rốt 
Năm 1955, người ta tìm ra tác dụng kích thích phân bào của kinetin.Sau đó các 
chất cytokinine khác như BAP, 2 IP, Zeatin cũng được phát hiện. 
Năm 1957, SKoog và Miller công bố kết quả nghiên cứu về ty lệ giữa 
kinetin/auxin đối với sự hình thành các cơ quan từ mô sẹo trên cây thuốc lá. 
Từ năm 1954, đến năm1959 kỹ thuật tách và nuôi cấy tế bào đơnđã được phát 
triển, các tác giả đã gieo tế bào đơn và nuôi cấy tạo được cây hoàn chỉnh. 
Năm 1966, Guha và Mahheswari nuôi cấy thành công tế bào đơn bội từ nuôi 
cấy túi phấn cây cà độc dược. 
Năm1967, Bougin và Nistsh tạo thành công cây đơn bội từ túi phấn cây thuốc 
lá. 
2.2.3 Ứng dụng 
Năm 1986, một số lượng lớn cây trồng sản xuất bằng phương pháp nuôi cấy mô 
đã được tiêu thụ tên thị trường thương mại với hàng chục triệu dollar. Kỹ thuật này 
thể hiện một số ưu điểm đã được ứng dụng: 
- Nhân giống vô tính với tốc độ nhanh. 
- Tạo cây sạch bệnh và kháng bệnh. 
- Cảm ứng và tuyển lựa dòng đột biến. 
- Sản xuất cây đơn bội qua nuôi cấy túi phấn. 
- Lai xa. 
- Lai tế bào soma và tạo dòng protoplast. 
- Gây biến tính thực vật qua hấp thụ DNA và ngoại lai. 
- Cố định nitrogen. 
- Cải thiện hiệu quả của quang tổng hợp. 
- Bảo quản nguồn gen quý. 
 9 
2.2.4 Các phương pháp nuôi cấy in vitro 
 Nuôi cấy đỉnh sinh trưởng 
Mẫu cấy bao gồm: đỉnh sinh dưỡng, chồi đỉnh, chồi bên, có kích thước khoảng 
0.58 - 1 cm. Đây là phương pháp dễ dàng nhất, mẫu sau khi vô trùng và được nuôi cấy 
trong môi trường thích hợp cho loại cây đó thì sau một thời gian nuôi cấy tạo thành 
một hay nhiều chồi. Sau đó, nuôi cấy trong môi trường có bổ sung chất kích thích sinh 
trưởng thì sẽ tạo thành nhiều chồi, rễ, tạo thành cây hoàn chỉnh. 
 Nuôi cấy mô sẹo 
Mẫu cấy là những tế bào đỉnh sinh trưởng hay nhu mô được tách ra trong môi 
trường giàu auxin thì mô sẹo được hình thành. Mô sẹo là những tế bào vô tổ chức có 
màu trắng. Khối mô sẹo này có khả năng tái sinh thành cây hoàn chỉnh trong môi 
trường không có chất kích thích sinh trưởng tạo mô sẹo. Nuôi cấy mô sẹo được thực 
hiện đối với những cây không có khả năng nuôi cấy từ đỉnh sinh trưởng. cây tái sinh từ 
mô sẹo có nhiều chồi hơn so với cây tái sinh từ đỉnh sinh trưởng, tuy nhiên mức độ 
biến dị tế bào soma của phương pháp này rất cao. 
 Phương pháp nuôi cấy tế bào đơn 
Những khối sẹo được nuôi cấy trong môi trường lỏng, đặt trong máy lắc thì 
khối sẹo dứơi tác dụng cơ học và hóa học sẽ tách ra nhiều tế bào đơn lẻ gọi là tế bào 
đơn. Những tế bào đơn này nuôi cấy trong môi trường đặc biệt thì sẽ tăng sinh khối. 
Sau một thời gian nuôi cấy trong môi trường lỏng tế bào đơn tách ra và đặt trải trong 
môi trường thạch thì sẽ phát sinh thành những tế bào mô sẹo. Những tế bào mô sẹo 
này được nuôi cấy trong môi trường cytokinin/auxin thích hợp thì sẽ tái sinh thành cây 
hoàn chỉnh. Trong chọn giống cây trồng người ta dựa vào phương pháp này để tạo ra 
giống mới bằng cách đột biến tế bào đơn bằng hóa chất hay phóng xạ. 
 Nuôi cấy protoplast- chuyển gen 
Protoplast (tế bào trần ), thực chất là tế bào đơn được tách vỏ cellulose, có sức 
sống và duy trì chức năng sẵn có. Protoplast có thể tái sinh trực tiếp từ thân, lá, rễ bằng 
cơ học, hoặc từ những tế bào đơn sẵn có. Trong môi trường thích hợp các protoplast 
 10 
có khả năng tái sinh màng tế bào, tiếp tục phân chia và tái sinh thành cây hoàn chỉnh. 
Trong chọn giống cây trồng người ta sử dụng phương pháp này để cải tiến giống cây 
trồng bằng cách cho dung hợp protoplast ở 2 protoplast cùng loài hoặc khác loài. 
Protoplast có khả năng hấp thu tế bào ngoại lai để cải thiện đặc tính của một số 
loại cây trồng mà không thông qua các phương pháp chuyển gen khác. 
 Nuôi cấy tế bào đơn bội 
Hạt phấn của cây trồng được nuôi cấy trong môi trường thích hợp tạo thành mô 
sẹo, những mô sẹo này có khả năng tái sinh thành cây hoàn chỉnh có bộ nhiễm sắc thể 
n gọi là cây đơn bội. Trong nuôi cấy mô thực vật người ta sử dụng những mô sẹo này 
xử lý colchicin để tạo thành cây đa bội. 
2.3 Các yếu tố ảnh hƣởng trong nuôi cấy in vitro 
2.3.1 Chất điều hoà sinh trưởng 
 Chất sinh trưởng thực vật hay còn gọi là chất điều hòa sinh trưởng thực vật là 
các hợp chất hữu cơ (bao gồm các sản phẩm thiên nhiên của thực vật và các hợp chất 
tổng hợp nhân tạo) có tác dụng điều tiết các quá trình sinh trưởng và phát triển, làm 
biến đổi một quá trình sinh lý thực vật nào đó, ở những nồng độ rất thấp. Chúng không 
phải là các chất dinh dưỡng hay các sinh tố dùng trong thực vật. 
 Một số chất điều hoà sinh trưởng thường dùng: 
(1) Auxin 
Auxin là một nhóm các chất được tổng hợp chủ yếu ở đầu thân, đầu rễ, được 
vận chuyển đến các bộ phận khác nhau của cơ thể để kích thích sự tăng trưởng của tế 
bào. 
 11 
Các phản ứng auxin và sự tăng trưởng có liên quan với vô số quá trình sinh lý 
và trao đổi chất khác và mối quan hệ nhân quả giữa auxin, ARN và chuyển hóa protein 
không phải hoàn toàn rõ ràng. Phản ứng chủ yếu và nhanh chóng nhất đối với việc xử 
lý auxin là làm tăng độ kéo dài của tế bào, điều này xảy ra chỉ một vài phút sau khi xử 
lý. Một đặc trưng quan trọng là vách tế bào, là một vị trí quan trọng chịu sự tác động 
của các chất điều hòa sinh trưởng thực vật (Torry và csv, 1981). Auxin làm giảm pH 
do kích thích sự bài xuất proton H+, pH hoạt hóa các enzym tác động nới lỏng vách tế 
bào và enzym tổng hợp vách tế bào, nhờ đó khởi động quá trình giản nở tế bào (Roger 
Prat, 1993). 
Auxin hoạt hóa sự sinh tổng hợp các hợp chất cao phân tử (protein, xenluloza, 
pectin, …) và ngăn cản sự phân giải chúng (Grodzinxki, 1981). 
(2) Cytokinin 
Đây là chất hoạt hóa sự phân chia tế bào (Mitsuhashi và csv, 1969; Mai Trần 
Ngọc Tiếng, 1989), đồng thời làm tăng quá trình chuyển hóa acid nucleic và protein 
(Vũ Văn Vụ và csv, 1993). Cytokinin được sử dụng khá nhiều trong kỹ thuật nuôi cấy 
mô, những chất thường được dùng là Kinetin và BA (Benzyl Adenin). 
Cytokinin phá vỡ trạng thái ngủ của hạt, kích thích hạt nẩy mầm, làm tăng sự 
nở hoa. Cytokinin gây nên sự hình thành chồi mầm trong nhiều mô bao gồm mô sẹo 
sinh trưởng (cals) trong mô nuôi cấy, hay việc tạo thành các mô bứu ở các cây gỗ lâu 
năm (Nester và csv, 1985; Taiz L. và csv, 1991). 
Cytokinin kích thích sự tổng hợp mới enzym Rubisco (Ribulozo-1,5-biphotphat 
cacboxylaza/oxygenaza) hoặc ở mức sao chép (làm tăng hoạt tính ARN-polymeraza) 
hoặc ở mức dịch mã (thành lập các polyriboxom) (Parthier, 1985). Ảnh hưởng của 
Cytokinin thấy rõ khi phối hợp sử dụng với auxin (Meredith và csv, 1970). Skoog và 
csv (1948) ghi nhận lượng benzyl amino purine cao có tác dụng kích thích sự tạo chồi, 
đồng thời ức chế sự phân hóa tạo rễ. 
 12 
 Thidiazuron [1-phenyl-3-(1,2,3-thidiazol-5-yl)urea] [TDZ] 
Thidiazuron [1-phenyl-3-(1,2,3-thidiazol-5-yl)urea] là một hóa chất tổng hợp 
dạng tinh thể thường tan trong ethanol và ít tan trong nước. Vào những năm 1970, 
TDZ được sử dụng như một thương phẩm làm rụng lá phục vụ cho quá trình thu 
hoạch bông vải. Đến gần đây, nó được sử dụng rộng rãi trong nuôi cấy mô do có hoạt 
tính cytokinin và auxin mạnh hơn hẳn các cytokinin và auxin cơ bản thông dụng khác. 
Về cấu trúc, phân tử TDZ khác hẳn các auxin và các cytokinin dạng adenin 
với hai nhóm chức năng khác nhau: phenyl và thidiazol. TDZ sẽ bị giảm hoạt tính khi 
bị thay thế bất kỳ một trong hai nhóm này bằng các vòng thơm khác (Murthy và csv, 
1998). 
Đối với cây in vitro, TDZ được thấy là có khả năng thay thế cả cytokinin và 
auxin hoặc kết hợp các chất điều hòa sinh trưởng thực vật khác nhau để kích hoạt các 
quá trình phát sinh hình thái trong nuôi cấy mô. 
- Tạo mô sẹo: thông thường auxin được dùng để cảm ứng sự phân chia tế bào 
và tăng trưởng mô sẹo. TDZ cũng có khả năng cảm ứng tạo mô sẹo ở nhiều hệ thống 
nuôi cấy khác nhau với tốc độ tăng sinh tế bào cao hơn nhiều