Đề tài Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế Việt Nam

Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước mới quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp trong nước là rất rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham gia sân chơi chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng, phải tự hoàn thiện mình chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ từ phía nhà nước.

doc40 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2561 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho tập đoàn kinh tế Việt Nam Mục lục Phần I. Hàn Quốc I.Giới thiệu về Hàn Quốc 1.1. Đất nước - con người 1.2.Chính trị 1.3.Kinh tế II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc 2.1.Khái niệm 2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol 2.3. Đặc điểm Chaebol III. Ưu nhược điểm và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn Quốc 3.1.Chế độ tập trung hoá và tính hình thức cao trong việc ra quyết định 3.2.Vị trí độc quyền trong nước 3.3.Khuynh hướng đa dạng hoá của Chaebol IV. Đánh giá hoạt động của mô hình Chaebol từ sau khủng hoảng năm 1997 4.1.Những thành tựu đạt được sau cải tổ 4.1.1.Về cơ cấu kinh doanh 4.1.2.Về cơ cấu vốn 4.1.3.Về quản lý công ty 4.2.Những tồn tại chủ yếu 4.2.1.Trên phương diện vĩ mô 4.2.2.Trên phương diện vi mô 4.3.Tình hình hiện nay 4.3.1.Nguy cơ tan rã 4.3.2.Cơ cấu sở hữu thay đổi 4.3.3.Chaebol thâm nhập vào các ngành, lĩnh vực kinh doanh khác Phần II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam I.Khả năng vận dụng kinh nghiệm Hàn Quốc trong việc quản lý các tổng công ty theo mô hình tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam 1.1.Bài học kinh nghiệm thực tiễn từ việc cải tổ Chaebol 1.1.1. Định hướng lại vai trò của chính phủ - một điều kiện then chốt cho thành công của cải tổ 1.1.2. Đảm bảo tính ổn định và nhất quán của chính sách 1.1.3.Chính phủ cần tạo dựng được sự đồng thuận cao trong giới kinh doanh và xã hội đối với công cuộc cải tổ 1.1.4.Tăng cường tính rõ ràng và mềm dẻo trong việc hoạch định chính sách 1.1.5.Tiếp tục tạo dựng môi trường vĩ mô thuận lợi cho khu vực tổng công ty 1.2.Khả năng vận dụng bài học kinh nghiệm Hàn Quốc vào quản lý các tổng công ty Việt Nam 1.2.1.Tổng quan về các tổng công ty Việt Nam hiện nay 1.2.2.Vận dụng vào Việt Nam II.Sự phù hợp của mô hình Chaebol vào Việt Nam Từ viết tắt WTO : Tổ chức thương mại thế giới NICs: Các nước công nghiệp mới OECD: Hợp tác kinh tế và phát triển IMF: Quỹ tiền tệ thế giới CEO: Lãnh đạo cấp cao GDP: Tổng sản phẩm quốc dân PPP: Sức mua tương đương AFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN ACFTA: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc FTC: Uỷ ban thương mại Hàn Quốc Lời mở đầu Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước mới quan trọng cho sự phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp trong nước là rất rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham gia sân chơi chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực không ngừng, phải tự hoàn thiện mình chứ không thể trông chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ từ phía nhà nước. Một thành phần kinh tế giữ vai trò quan trọng về phía các doanh nghiệp là các tổng công ty lớn, mà hiện nay đa phần là tổng công ty nhà nước. Không nằm ngoài xu hướng phát triển chung, các doanh nghiệp này muốn phát triển thành tập đoàn kinh tế lớn mạnh thì phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để cải cách có hiệu quả. Hàn Quốc là một nước láng giềng xa của Việt Nam trong khu vực Châu Á nhưng những bài học về cải tổ mô hình tập đoàn gia đình của họ - các Chaebol thì không hề xa lạ với thực trạng tổng công ty của ta. Hàn Quốc hiện là một trong 30 nước OECD với thu nhập bình quân đầu người cao ( hơn 16.000 USD) và tốc độ tăng trưởng khá ổn định ( 3 - 4%/ năm). Đạt được thành tựu ấy phải kể đến vai trò rất lớn của các Chaebol và một chính phủ rất năng động. Sự kết hợp chặt chẽ hai yếu tố: doanh nghiệp và chính phủ mà chính phủ vẫn giữ vai trò kiểm soát là biện pháp tỏ ra khá hữu hiệu để đưa nền kinh tế Hàn Quốc đi lên. Nhìn vào thành công của Hàn Quốc và ngẫm lại thực trạng của mình là một điều cần thiết. Để làm được những kỳ tích mà Hàn Quốc đã làm được, chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp Việt Nam còn phải học hỏi nhiều những kinh nghiệm của người đi trước. Thiết nghĩ, để tìm ra lối đi cho các tổng công ty với mong ước phát triển thành tập đoàn lớn mạnh thì việc nên làm là nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc, tìm ra những ưu điểm và nét tương đồng để vận dụng linh hoạt và tránh những nhược điểm mà họ đã mắc phải. Nhận thấy tính cấn thiết của vấn đề, chúng em đã nghiên cứu đề tài " Nghiên cứu mô hình Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm cho các Tập đoàn kinh tế Việt Nam" nhằm hiểu rõ hơn về các Chaebol Hàn Quốc và tổng công ty nước ta trong xu hướng toàn cầu hoá. I.Giới thiệu về Hàn Quốc 1.1.Đất nước - con người Sau hơn bốn thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển kinh tế, Hàn Quốc đã đạt được nhiều thành tựu đáng kinh ngạc và được cả thế giới biết đến như " Kỳ tích trên sông Hàn". Hơn 48 triệu người dân Hàn Quốc hoàn toàn có quyền tự hào về những gì đất nước mình làm được, từ một quốc gia nông nghiệp nghèo vươn lên một tầm cao mới với vị thế một trong bốn con hổ Châu Á và một trong 24 nước OECD. Hàn Quốc tên chính thức là Đại Hàn Dân Quốc nằm trên bán đảo Triều Tiên - trải dài 1000km từ Bắc tới Nam ở phần Đông Bắc lục địa Châu Á. Phía bắc Hàn Quốc giáp với cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, phía đông giáp với biển Đông (biển Nhật Bản), phía nam và đông nam giáp với eo biển Triều Tiên - ngăn cách Hàn Quốc với Nhật Bản, và phía tây giáp với Hoàng Hải. Thủ đô Seoul là thành phố lớn nhất tập trung nhiều dân cư, đồng thời là trung tâm kinh tế của cả nước. Diện tích 99.382km2, trong đó có vô số đảo nhỏ ngoài khơi phía Nam và phía tây. Đảo lớn nhất trong số này là đảo Cheju (1845 km2). Nổi tiếng với nhiều dòng sông và ngọn núi kỳ vĩ, người Hàn thường ví đất nước mình như một tấm gấm thêu đẹp đẽ. Đỉnh cao nhất của Hàn Quốc là Halla-san, cao 1950 mét nằm trên đảo Cheju. Thủ đô Seoul là trái tim của Hàn Quốc có con sông Hangang dài 494km chạy qua, được coi là con đường sinh mệnh giúp cho sự phát triển của đất nước. Hàn Quốc có bốn mùa rõ rệt, mùa hè nóng ẩm, còn mùa đông lạnh và khô hanh. Nhiệt độ bình quân khoảng từ 6 độ C đến 16 độ C. Mùa thù là khoảng thời gian dễ chịu nhất trong năm vì nhiệt độ mát mẻ và bầu trời luôn trong xanh. Dân số Hàn Quốc theo số liệu tháng 6 năm 2006 là 48.846.823 người. Những năm gần đây tỷ lệ gia tăng dân số đã giảm xuống đáng kể. Năm 2005 tỷ lệ này là là 0,44% so với 3% của những năm 1960. Ước tính đến năm 2020 tỷ lệ gia tăng dân số sẽ giảm xuống chỉ còn 0,01%. Tỷ lệ tử vong trẻ sơ sinh và của phụ sản giảm mạnh. Tuổi thọ trung bình của người dân Hàn Quốc được cải thiện đáng kể. Năm 1960 tuổi thọ nam giới là 51, nữ giới là 54. Đến năm 2000, tuổi thọ trung bình nam giới là 74,4 và của nữ giới là 81,2.Tuy nhiên tháp dân số của Hàn Quốc có xu hướng hình chuông vì tỷ lệ sinh thấp và tuổi thọ trung bình kéo dài. Xu hướng này giống với các nước phát triển. Phần lớn người dân Hàn Quốc đều có tín ngưỡng tôn giáo. Trong số 51% những người theo tôn giáo thì 49% theo đạo Phật, 49% theo Kitô giáo, 1% là tín đồ đạo Khổng, còn lại là tôn giáo khác. Các giá trị đạo Khổng ngày nay vẫn ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống thường ngày của người dân xứ Hàn, người con trai cả đảm nhận trách nhiệm trụ cột trong gia đình. Thêm vào đó tâm lý trọng nam cũng vẫn khá phổ biến ở Hàn Quốc. Trong thành phần dân cư Hàn Quốc thì người Triều Tiên chiếm đại đa số. Dân tộc thiểu số duy nhất là bộ phận nhỏ người Hoa. Nhờ kinh tế phát triển nên chể độ ăn uống và chăm sóc y tế đều được cải thiện. Trong những năm gần đây, ngân sách dành cho Bộ Y Tế và Phúc lợi đã tăng lên. Năm 2005, ngân sách Chính phủ dành cho Bộ Y Tế lên tới 8906 tỷ won ( tương đương 9,2 tỷ USD). Tỷ lệ chi cho y tế trong chi tiêu toàn hộ gia đình cũng tăng theo. Năm 2003 chi tiêu cho y tế bình quân đầu người là 840.133 won, tăng gần 10 lần so với chi năm 1985 chỉ là 85.000 won. 1.2.Chính Trị Dù ngày nay là một nước cộng hoà nhưng suốt chiều dài lịch sử, Hàn Quốc đã trải qua nhiều năm tháng dưới chế độ độc tài hay phi dân chủ. Chỉ mãi đến cuối thập niên 80 của thế kỷ XX, các nguyên tắc dân chủ mới bắt đầu được tôn trọng. Người đứng đầu nước là tổng thống do dân trực tiếp bầu ra năm năm một lần và chỉ được giữ một nhiệm kỳ duy nhất. Tổng thống là người hoạch định chính sách và người làm luật chủ yếu. Tổng thống hiện nay của Hàn Quốc là ông Roh Moo-hyun ( Lỗ Vũ Huyền). 1.3.Kinh tế Nền kinh tế Hàn Quốc là một nền kinh tế thị trường trong đó nhà nước đóng một vai quan trọng. Nếu cách đây 30 năm tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc chỉ đứng ngang với với các nước nghèo ở Châu Phi và Châu Á thì hiện nay, tổng sản phẩm quốc nội của Hàn Quốc xếp thứ 10 trên thế giới. Năm 2005 GDP danh nghĩa của Hàn Quốc ước đạt khoảng 789 tỷ USD, GDP tính theo sức mua tương đương (PPP) ước đạt khoảng 1.097 tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người tính theo GDP danh nghĩa và theo sức mua tương đương lần lượt là 16.270 USD và 22.620 USD(xếp thứ 33 và 34 thế giới). Có rất nhiều yếu tố đã tạo nên sự phú cường của Hàn Quốc trong đó có ba yếu tố chính là xuất cảng ngày càng nhiều, mức tiêu thụ tăng cao và đầu tư tăng trong lĩnh vực gia cư. Từ thập niên 1960, chính phủ Hàn Quốc đã có sự nâng đỡ các tập đoàn kinh tế trong nước tạo điều kiện thuận lợi nhất cho thành phần này đáp ứng chỉ tiêu sản xuất do chính phủ đề ra. Vì vậy,nền kinh tế Hàn Quốc chịu sự chi phối của các tập đoàn kinh tế này hay còn được gọi là các Chaebol. Năm 1997,nền kinh tế Hàn Quốc bị tác động nghiêm trọng của cuộc khủng hoảng tài chính ở Châu Á. Trong đó phần lớn hậu quả được cho là do tập đoàn chaebol đã không uyển chuyển trong việc thực thi các đường lối kinh tế. Để tháo gỡ khó khăn,chính phủ đã phải chấp nhận vay khẩn cấp của Quỹ Tiền tệ Quốc tế(IMF) 57 tỷ USD với những điều kiện ngặt nghèo, tíên hành cải cách mạnh mẽ, xây dựng nền kinh tế thị trường dân chủ, phá bỏ quyền lực của các tài phiệt, coi trọng các công ty vừa và nhỏ, giảm sự can thiệp của nhà nước, chống câu kết chính trị- kinh doanh, mặt khác, đã áp dụng chính sách thắt lưng buộc bụng, huy động quốc dân quyên góp tiền vàng ủng hộ chính phủ. Kết quả là Hàn Quốc đã thành công trong việc khắc phục khủng hoảng trong thời gian 3 năm(1998-2000), trả xong nợ của IMF. Dự trự ngoại tệ đã đạt 133 tỷ USD(tháng 7/2003). Bảng 1: Tốc độ tăng GDP qua các thời kỳ (%)  Thời kỳ 1980-1984 1985-1989 1990-1994 1995-1999 2000-2005 Tốc độ tăng GDP 6,51 6,39 7,77 5,18 4,6 Năm 2005, mức tăng trưởng GDP của Hàn Quốc là 3,9% với tổng số 801,2 tỷ USD, mức thu nhập bình quân theo đầu người là 20.400 USD/năm. Lĩnh vực sản xuất nông nghiệp đóng góp 3,7% GDP, công nghiệp là 40,1% và dịch vụ là 56,3%. Riêng lĩnh vực công nghiệp, tốc độ tăng trưởng là 7,3% trong năm 2005.    . Trung tâm Thông tin và Dự báo Kinh tế - xã hội Quốc gia II.Mô hình Chaebol Hàn Quốc 2.1.Khái niệm : Chaebol (hay Jaebol) là tên của các tổ hợp công nghiệp có quy mô lớn thuộc sở hữu của gia đình hoặc nhóm gia đình ở Hàn Quốc. Đây là một hình thức khối kinh tế tư nhân của Hàn Quốc. Tiếng Hàn Quốc có nghĩa là “khối kinh doanh” hoặc tơ rớt (như tơ rớt dầu), thường được dùng với nghĩa “đại doanh nghiệp” (tiếng Anh là “big business”). Các đại doanh nghiệp kiểu “gia đình trị” này đóng vai trò then chốt trong nền kinh tế Hàn Quốc từ những năm 1960, một số đã trở thành những tên tuổi nổi tiếng thế giới như Samsung, Hyundai và LG… Mỗi Chaebol bao gồm từ 40-50 công ty không có liên quan với nhau về mặt kinh tế kỹ thuật nhưng thuộc sở hữu của một gia đinh, dòng họ. Về kết cấu, các Chaebol Hàn Quốc là các khối kinh tế tư nhân, trong đó các thành viên của một gia đình đóng vai trò chủ đạo. Một nghiên cứu của Shin(1985) cho thấy: 26% chủ tịch của các công ty nòng cốt là các nhà sáng lập, 19% là con cái của họ, 21% là tuyển dụng từ nội bộ công tyvà 35% là số tuyển dụng từ bên nngoài.Mặc dù, hơn 50% CEO không phải là thành viên của gia đình nhưng những vị trí quản lý trọng yếuở tất cả các công ty đều do người sáng lập nắm giữ. Về nguồn gốc truyền thống, chúng vẫn là các doanh nghiệp kiểu gia đình phong kiến di thực lại và phát triển lên dưới chế độ TBCN. Các dòng họ sáng lập ban đầu là những tộc trưởng tạo dựng công ty, do đó cơ cấu tổ chức của nó mang hình thức tập đoàn đẳng cấp.Tuy vậy, nếu xét theo phương thức tác nghiệp, thì mỗi Chaebol đều có phương thức quản lý kinh doanh riêng. Ví dụ như Chaebol Hyundai với phương thức kinh doanh tự thân, tức là dựa chủ yếu vào nguồn lực của bản thân tập đoàn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Còn Chaebol Daewoo thì theo phương thức liên doanh liên kết với các Công ty nước ngoài thông qua cung cấp các giấy phép kỹ thuật và các hiệp định hợp tác kỹ thuật, nên kết cấu sở hữu kiểu Daewoo mang tính đa nguyên, từ đó mà ảnh hưởng đến địa vị quản lý và lợi ích phân chia trong tập đoàn. Bảng 2: Danh sách các Chaebol được xếp vào danh mục 500 công ty lớn nhất thế giới năm 1996 Chaebol Tổng thu nhập(triệu USD) Lợi nhuận(triệu USD) Tổng tài sản(triệu USD) Tổng lao động sử dụng(người) Daewoo 65.160,2 468,3 73091,6 186.314 Sunkyong 44.031,0 313,0 30.170,0 33.299 Samsung 34.286,5 64,7 11.211,8 11.904 Hyundai 27.278,5 7,7 1693,1 707 Samsung Electronics 24.710,3 135,3 25.937,1 37.5 Samsung Life Insurrance 17.530,0 52,2 33.941,1 9.853 LG International 17.311,1 26.9 1644,8 3.836 LG Electronics 14.765,5 36,5 16.662,1 65.284 Hyundai Motor 14.491,2 65,8 10.131,1 47.174 (Nguồn: theoUNSTAD,1998) 2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của Chaebol Giữa thế kỷ XX, nền kinh tế Hàn Quốc là nền kinh tế nhỏ và dựa vào nông nghiệp là chủ yếu. Tuy nhiên, vào năm1961, các chính sách của Tổng thống Park Chung Hee đã thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá mau lẹ thông qua hoạt động kinh doanh quy mô lớn. Chính sách công nghiệp hoá của chính phủ đề ra theo hướng đầu tư mới, nghĩa là chaebol được bảo đảm vay vốn từ khu vực ngân hàng. Nhờ đó, chaebol đã đóng vai trò chủ đạo trong việc phát triển các ngành công nghiệp, thị trường mới và sản xuất hàng xuất khẩu, góp phần quan trọng đưa Hàn Quốc trở thành một trong những con hổ Đông Á. Mặc dù chương trình công nghiệp hoá chủ đạo của Hàn Quốc mới bắt đầu từ đầu những năm 1960 nhưng sự phân biệt đẳng cấp trong các doanh nghiệp đã xuất hiện trong nền kinh tế- chính trị từ những năm 1950. Trong suốt thời kỳ là thuộc địa của Nhật hiếm có người dân Hàn Quốc nào sở hữu hoặc điều hành doanh nghiệp quy mô lớn. Sau khi quân Nhật rút khỏi Hàn Quốc năm 1945, một số doanh nhân Hàn Quốc chiếm được tài sản từ các cơ sở sản xuất của Nhật, một số trong đó đã phát triển thành Chaebol vào những năm 1990. Khi quân đội lên nắm chính phủ năm 1961, các lãnh đạo quân đội thông báo rằng họ sẽ nhổ tận gốc nạn tham nhũng từng gây rắc rối cho chính quyền Rhee và loại bỏ những bất công trong xã hội. Nhiều nhà tư bản công nghiệp lãnh đạo đã bị bắt và buộc tội tham nhũng song chính phủ mới nhận thấy cần phải có sự giúp đỡ từ phía các nhà doanh nghiệp để hoàn thành các kế hoạch đầy tham vọng về việc hiện đại hoá nền kinh tế của chính phủ. Chính phủ đã đi đến một sự thoả hiệp mà theo đó các lãnh đạo doanh nghiệp bị buộc tội phải nộp tiền phạt cho chính phủ. Kể từ đó, sự hợp tác giữa các lãnh đạo doanh nghiệp và các quan chức chính phủ ngày càng chặt chẽ trong quá trình hiện đại hoá nền kinh tế. Sự hợp tác giữa Chaebol và chính phủ đóng vai trò thiết yếu đối với sự tăng trưởng kinh tế về sau. Do áp lực từ yêu cầu cấp bách đưa nền kinh tế từ công nghiệp nhẹ và sản xuất hàng tiêu dùng sang công nghiệp nặng và hoá chất, công nghiệp sản xuất hàng hoá thay thế nhập khẩu, các chính khách và các nhà lập kế hoạch của chính phủ đã dựa vào ý kiến và sự hợp tác với lãnh đạo các Chaebol. Chính phủ cung cấp kế hoạch chi tiết về việc phát triển công nghiệp còn Chaebol thực hiện các kế hoạch đó. Tuy nhiên, quá trình công nghiệp hoá do Chaebol dẫn đầu vô hình chung đã thúc đẩy tập trung độc quyền vốn và các hoạt động kinh tế sinh lợi vào tay của một số hữu hạn các tập đoàn kinh tế. Park đã sử dụng Chaebol như một phương tiện tăng trưởng kinh tế, khuyến khích xuất khẩu, đi ngược lại chính sách của Rhee là dựa vào nhập khẩu, trên cơ sở đó cũng thiết lập hạn ngạch. Chaebol có thể phát triển được là nhờ hai nhân tố: các khoản vay vốn nước ngoài và các đặc ân. Tiếp cận khoa học công nghệ nước ngoài cũng đóng vai trò quyết định đối với sự phát triển của Chaebol trong suốt thập niên 80. Với chiêu bài “Chủ nghĩa tư bản dẫn đường”, chính phủ chọn ra các công ty đảm nhận dự án và quỹ dẫn vốn từ các khoản vay nước ngoài. Chính phủ đảm bảo sự đền đáp mà một công ty nên làm đối với các chủ nợ nước ngoài của mình. Các khoản vốn vay bổ sung luôn sẵn sàng được huy động từ các ngân hàng trong nước. Vào nửa cuối thập niên 80, Chaebol đã chi phối ngành công nghiệp và đặc biệt thịnh hành trong các lĩnh vực sản xuất - kinh doanh và công nghiệp nặng. Sự phát triển mạnh mẽ của Chaebol bắt đầu từ đầu những năm 1960, gắn liền với việc mở rộng xuất khẩu của Hàn Quốc. Tính đa dạng hoá của sản phẩm là nhân tố quyết định sự phát triển của Chaebol, các yếu tố như đổi mới, sẵn sàng phát triển dòng sản phẩm mới giữ vai trò then chốt. Trong những năm 1950-1960, Chaebol tập trung vào hàng dệt may; đến giữa thập niên 70- 80, công nghiệp nặng, hoá chất và quốc phòng chiếm ưu thế, sang thập niên 90, sự phát triển thực sự diễn ra trong công nghiệp điện tử và công nghiệp kỹ thuật cao. Chaebol cũng là nguyên nhân của sự thay đổi từ thâm hụt thương mại năm 1985 thành thặng dư thương mại năm 1986. Tuy nhiên, cán cân tài khoản vãng lai đã giảm từ hơn 14 tỷ USD năm 1988 xuống còn 5 tỷ USD năm 1989.Cuối thập niên 80, Chaebol đã độc lập và vững mạnh về tài chính nên không cần sự hỗ trợ và bảo đảm tín dụng của chính phủ nữa. Đến thập niên 1990, Hàn Quốc là một trong các NICs lớn mạnh nhất, tự hào về mức sống có thể so sánh với các nước công nghiệp. Tổng thống Kim Young-sam đã bắt đầu thử thách Chaebol nhưng cho đến cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 thì những hạn chế của hệ thống này mới bộc lộ rõ nét. Trong số 30 Chaebol lớn nhất thì 11 đã sụp đổ từ giữa tháng 7 năm 1997 đến tháng 6 năm 1999. Chaebol được đầu tư chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất hướng tới xuất khẩu, bỏ qua thị trường trong nước và đặt nền kinh tế trước mọi sự suy sụp của thị trường nước ngoài. Trong quá trình cạnh tranh lẫn nhau, các Chaebol đã tạo ra công suất vượt quá khả năng chống chịu của mình: vào thời kỳ tiền khủng hoảng Hàn Quốc với số dân xếp thứ 26 trên thế giới đã có 7 nhà máy sản xuất ô tô lớn. Nhiều Chaebol đã mắc nợ chồng chất do rót vốn mở rộng hoạt động của mình, không chỉ các ngân hàng công nghiệp nhà nước mà cả các ngân hàng độc lập và các chi nhánh cung cấp dịch vụ tài chính thuộc sở hữu của các ngân hàng đó. Hậu quả của khủng hoảng khi các Chaebol không trả được nợ làm cho các ngân hàng không thể thu lại nợ và xoá sổ nợ xấu mà không bị phá sản. Thí dụ điển hình nhất là sự sụp đổ của tập đoàn Daewoo giữa năm 1999 với khoản nợ chưa thanh toán là 80 tỷ USD. Vào thời điểm đó, đây là vụ phá sản doanh nghiệp lớn nhất trong lịch sử. Các cuộc điều tra cũng cho thấy nạn tham nhũng lộng hành trong các Chaebol, đặc biệt là hối lộ và kế toán không trung thực. 2.3.Đặc điểm Mặc dù kinh doanh theo những phương thức khác nhau, nhưng các Chaebol vẫn có các đặc trưng chủ yếu sau: -Các Công ty thành viên của Chaebol hoạt động kinh doanh chuyên ngành hoặc đa ngành (chủ yếu là đa ngành) Mọi quyết định quan trọng của Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp cao nhất, tức chủ tịch và mọi nhân viên bắt buộc phải tuân thủ. Tuy nhiên các quan chức ở các cấp làm việc cũng góp phần quan trọng trong quá trình đi đến quyết định cuối cùng Chaebol là các thực thể độc lập và có quyền lực cao trong nền kinh tế, chính trị, song đôi khi chaebol cũng hợp tác với chính phủ trong các lĩnh vực quy hoạch và đổi mới. Chính phủ đã có nhiều nỗ lực trong việc khuyến khích cạnh tranh giữa các chaebol trong một số lĩnh vực nhất định để tránh tình trạng độc quyền tuyệt đối. Vai trò của đại doanh nghiệp đã mở rộng tới vũ đài chính trị. Năm 1988 một thành viên của một tập đoàn gia đinh kiểu chaebol, Chong Mong-jun, Chủ tịch các cơ sở công nghiệp nặng Hyundai, đã thành công trong việc chạy đua vào Quốc hội. Các nhà lãnh đạo doanh nghiệp khác cũng được chọn làm thành viên Quốc hội thông qua hệ thống bầu cử theo tỉ lệ. Hyundai thậm chí đã
Tài liệu liên quan