Như đã biết đất nước ta là một nước nghèo, các trang thiết bị lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn
16 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu quan điểm và các giải pháp tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU
Như đã biết đất nước ta là một nước nghèo, các trang thiết bị lạc hậu, nguồn tài chính hạn hẹp nên các doanh nghiệp Nhà nước hầu như không có khả năng cạnh tranh trên thị trường và đổi mới công nghệ cũng như sản phẩm. Ngân sách Nhà nước không có khả năng cấp vốn và bao cấp các doanh nghiệp Nhà nước như trước đây. Các ngân hàng cho vay cũng phải có các điều kiện bảo đảm như tài sản thế chấp, khả năng kinh doanh để tính khả năng thu hồi vốn. Hầu hết các doanh nghiệp ở trong tình trạng không có vốn nhưng cũng không có cách nào để huy động. Đối mặt với những khó khăn đó, cổ phần hóa được coi là một giải pháp nhằm tạo ra môi trường huy động vốn dài hạn cho các doanh nghiệp để đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ. Vì vậy đây là lựa chọn tất yếu có tính khách quan. Cổ phần hóa là một nội dung quan trọng trong công cuộc đổi mới. Cổ phần hóa thu hút được một nguồn vốn nhất định trong công nhân viên tại doanh nghiệp và ngoài xã hội, tạo ra một động lực trong quản lý và phát huy tốt hơn tính sáng tạo, cần cù của người lao động việc làm của người lao động đảm bảo tốt hơn nên doanh thu lợi nhuận và các khoản nộp ngân sách, tích lũy vốn của doanh nghiệp và chính thu nhập của người lao động sẽ tăng lên chuyển đổi hình thức sở hữu với quy chế quản lý mới, người lao động sẽ phát huy ý thức kỷ luật, tự giác, chủ động tinh thần tiết kiệm trong lao động góp phần làm cho hiệu quả trong sản xuất kinh doanh ngày càng cao, mang lợi ích thiết thực cho bản thân mình, công ty Nhà nước và xã hội.
NỘI DUNG
I. Nghiên cứu lí luận về doanh nghiệp Nhà nước và cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế ở Việt Nam
1. Doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm: Theo điều 1 của luật doanh nghiệp Nhà nước quy định.
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động côn gích, nhằm thực hiện mục tiêu kinh tế xã hội do Nhà nước gia….
- Doanh nghiệp Nhà nước, có tư cách pháp nhân, pháp quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý.
b. Vị trí và vai trò của doanh nghiệp Nhà nước trong nền kinh tế nhiều thành phần.
Sự hình thành và phát triển doanh nghiệp Nhà nước của mỗi quốc gia tuy có những đặc điểm riêng nhất định, song có đặc điểm chung là thường tập trung vào những ngành, những lĩnh vực then chốt, giữ vị trí vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.
Trả qua nhiều năm xây dựng và phát triển, doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta đã trở thành một lực lượng kinh tế hùng hậu, nhất là trong các ngành sản xuất và dịch vụ quan trọng. Trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần của nước ta doanh nghiệp Nhà nước giữ vị trí hàng đầu và vai trò chủ đạo được thể hiện ở các mặt sau:
- Doanh nghiệp Nhà nước là lực lượng vật chất quan trọng, và là công cụ quản lý để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế quốc dân. Nhà nước điều tiết phát triển của các thành phần kinh tế thông qua các hệ thống pháp luật, kế hoạch và chính sách, đồng thời sử dụng doanh nghiệp Nhà nước như là một thực lực kinh tế, làm cơ sở đảm bảo cho những cân đối chủ yếu trong quá trình phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Doanh nghiệp Nhà nước là một trong số các nguồn chủ yếu cung cấp tài chính cho ngân sách Nhà nước. Nhờ có đóng góp to lớn về tài chính của các doanh nghiệp Nhà nước cho ngân sách, Nhà nước có thêm vốn đầu tư vào lĩnh vực kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật nhằm bảo đảm cung cấp các loại hàng hóa và dịch vụ công cộng cho xã hội, góp phần tích cực vào nâng cao tốc độ và hiệu quả phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Doanh nghiệp Nhà nước là nơi đặc biệt quan trọng thu hút viện trợ vốn đầu tư nước ngoài cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước: Để đáp ứng nhu cầu to lớn về vốn cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, cần tận lực khai thác các nguồn lực tài chính bên trong nước kết hợp thu hút nguồn nhân lực bên ngoài. Thu hút tài trợ các nguồn vốn bên ngoài vào các lĩnh vực như khai thác than, dầu khí, chế tạo hàng điện tử, ô tô, xe máy…
- Doanh nghiệp Nhà nước gánh vác trách nhiệm nặng nề trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, doanh nghiệp Nhà nước là trung tâm tiêu biểu của khoa học, công nghệ, là tấm gương sáng về quản lý, các doanh nghiệp không chỉ chịu phục vụ riêng cho mình, mà còn góp phần phổ biến trang bị khoa học, công nghệ mới…. Doanh nghiệp Nhà nước còn tạo ra công ăn việc làm cho người lao động, cải thiện cuộc sống, nâng cao văn hóa giáo dục, giảm sự chênh lệch thành thị và nông thôn…
2. Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
a. Khái niệm
Trước xu thế phát triển ngày càng cao của thị trường thế giới và những yêu cầu của nền kinh tế "mở" thì mô hình hoạt động cứng nhắc của các doanh nghiệp Nhà nước không còn phù hợp đặc biệt là ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Trên thế giới, xu thế cổ phần hóa đã diễn ra mạnh mẽ từ những năm 80, cổ phần hóa có thể hiểu là việc chuyển một doanh nghiệp Nhà nước thuộc sở hữu Nhà nước thành công ty cổ phần thuộc sở hữu tập thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động và huy động vốn đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và phát triển.
Như vậy, cổ phần hóa chính là phương thức thực hiện xã hội hóa sở hữu, chuyển đổi từ sở hữu toàn dân sang sở hữu tập thể. Đây là một công cụ huy động vốn đạt hiệu quả cao, tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
b. Vị trí và vai trò của cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước là lối ra phù hợp với khu vực kinh tế Nhà nước, nó có vị trí vai trò trên nhiều mặt sau:
- Cổ phần hóa giải tỏa được bế tắc khủng hoảng về vốn cho doanh nghiệp cổ phần hóa để tạo điều kiện cho nó mở rộng sản xuất kinh doanh, giảm nhẹ gánh nặng tài chính cho Nhà nước, Nhà nước có thể thu hồi vốn đầu tư ở doanh nghiệp để chuyển sang đầu tư các hoạt động ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy sang đầu tư cho các hoạt động ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển của toàn bộ xã hội, như đầu tư cho kết cấu hạ tầng kỹ thuật công trình phúc lợi, giáo dục khoa học..
- Cổ phần hóa thông qua đa dạng hóa sở hữu tạo động lực cho người lao động. Cổ phần hóa bảo đảm sở hữu hóa cho người lao động tại công ty, xí nghiệp bằng cách cho họ tham gia đầu tư mua cổ phiếu, thực hiện quyền làm chủ thực sự, có tính vật chất trên phần vốn đóng góp của họ và thực sự phấn đấu hăng hái cho nâng cao hiệu quả đồng vốn có.
- Cổ phần hóa cho phép dứt bỏ được chế độ bao cấp ngân sách của Nhà nước, gạt bỏ chỉ đạo nhiều chi phí kinh tế của các cơ quan chủ quản bên trên. Đồng thời làm cho doanh nghiệp thực sự trở thành chủ thể kinh doanh, chỉ hoạt động vì mục tiêu của doanh nghiệp.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cải tiến, đổi mới cộng tác lãnh đạo quản lý doanh nghiệp, tập trung vào đồng bộ thống nhất thực sự vì lợi ích chung và lợi ích riêng trong doanh nghiệp.
- Cổ phần hóa tạo điều kiện cho doanh nghiệp cổ phần được tự chủ, chủ động trong quan hệ tự nguyện liên doanh, liên kết kinh tế với các tổ chức và cá nhân trong và ngoài nước, mở ra khả năng tự nguyện hợp tác kinh doanh.
- Như vậy, cổ phần hóa con đường ngắn nhất vừa bảo tồn vốn cho Nhà nước, giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước, thu hút được nguồn vốn trong dân, còn tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, khuyến khích được mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
II. Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1. Trước thời kì đổi mới (trước 1986)
Từ năm 1986 trở về trước, khu vực kinh tế Nhà nước ở nước ta hoạt động trong cơ chế kế hoạch tập trung quan liêu bao cấp, tăng trưởng với tốc độ chậm, thất thường và hiệu quả kinh tế xã hội thấp.
Do chủ quan duy ý chí và nóng vội đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã phát triển ào ào, tràn lan nền kinh tế quốc dân làm cho số doanh nghiệp Nhà nước từ 7000 năm 1976 tăng lên 12.000 năm 1986. Điều này đã gây ra tình trạng lãng phí tiền của của Nhà nước vào xây dựng và trang bị các doanh nghiệp Nhà nước. Hơn nữa, quản lý các doanh nghiệp Nhà nước lại thực hiện theo cơ chế bao cấp trong một thời gian dài, làm cho hiệu quả sử dụng tài sản trong khu vực kinh tế Nhà nước còn thấp, thiếu vốn và chiếm dụng vốn lẫn nhau trở thành một hiện tượng phổ biến.
2. Từ thời kì đổi mới đến nay (từ 1986 đến nay)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đánh dấu các mốc quan trọng trong tiến trình đổi mới kinh tế xã hội của đất nước.
- Cùng với quá trình đổi mới và chuyển đổi cơ chế đã làm cho doanh nghiệp Nhà nước năng động hơn, hiệu quả hơn. Số lượng doanh nghiệp Nhà nước từ năm 1989 là 12.000, sau khi mạnh tay sắp xếp lại đã giảm đi quá nửa, nhưng tỷ trọng GDP của khu vực kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân lại tăng lên, từ 37,6% năm 1986 tăng lên 43,3% năm 1995, năm 2000 khoảng 39%; trong 5 năm 1991 - 1995 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của khu vực doanh nghiệp Nhà nước đạt 11,7%, trong đó của toàn bộ nền kinh tế quốc dân chỉ là 8,2%.
- Tuy đã đạt được nhiều kết quả, nhiều tích cực song trước xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế mà có không ít các doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ, làm mất vốn của Nhà nước, không có khả năng thanh toán công nợ. Theo báo cáo của Bộ Tài chính tại hội nghị ngành tài chính toàn quốc họp tại Hà Nội ngày 9 đến ngày 10/11/1998 số doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ có giảm dần từ 21% năm 1991 còn 16% năm 1995 nhưng đến năm 1996 lại tăng lên 22%. Năm 1997 có 1923 doanh nghiệp thua lỗ, chiếm 35% tổng số doanh nghiệp Nhà nước. Các doanh nghiệp Nhà nước có quy mô còn bé và không đồng đều, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, công nghệ, tay nghề kém, kinh nghiệm, quản lý còn nhiều bất cập đã làm cho các doanh nghiệp Nhà nước thua lỗ trầm trọng.
3. Đánh giá thành tựu, hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước
a. Đánh giá về những thành tựu của doanh nghiệp Nhà nước
Trong quá trình đổi mới và chuyển đổi cơ chế đã giúp cho các doanh nghiệp Nhà nước có hiệu quả kinh doanh ngày càng tăng và đóng góp vai trò quan trọng trong nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp Nhà nước trong lĩnh vực kết cấu hạ tầng kỹ thuật, năng lượng, dầu khí, giao thông bưu chính.. đã tạo điều kiện cho doanh nghiệp Nhà nước thuộc các thành phần kinh tế khác, phát triển đồng thời thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Các doanh nghiệp Nhà nước đóng góp GDP hàng năm cho khu vực kinh tế quốc dân, tạo ra nguồn vốn lớn cho Nhà nước thực hiện xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng các công trình phúc lợi xây dựng trường học, phát triển giáo dục, khoa học, công nghệ… tạo lập bình đẳng trong xã hội, gây dựng Nhà nước Việt Nam ngày càng văn minh giàu đẹp.
- Những thành tựu này góp phần củng cố vị thế của các doanh nghiệp Nhà nước trên trường quốc tế.
b. Đánh giá về những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước
Cùng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã làm cho nhiều doanh nghiệp Nhà nước ở nước ta kinh doanh thua lỗ, phá sản… chính vì lẽ đó mà làm cho thâm hụt ngân sách Nhà nước phải bù lỗ cho các doanh nghiệp Nhà nước, làm cho nạn thất nghiệp ngày càng nhiều, thiếu công ăn việc làm, nhiều tệ nạn trong xã hội gia tăng,nguồn vốn vay nước ngoài ngày càng lớn
- Những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước không chỉ làm thâm hụt ngân sách Nhà nước mà nó còn làm cho quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước bị chậm lại, kinh tế kém phát triển dẫn đến ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
- Những hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan gây ra. Nhưng nguyên nhân cực kỳ quan trọng gây ra tình hình trên là sức mua của nhân dân, sức mua của nông thôn còn thấp, thị trường chưa được mở rộng, cơ quan quản lý chưa hoạt động hiệu quả, trình độ ứng dụng khoa học còn non kém, thiếu nguồn vốn đầu tư…
Qua đây có thể thấy những thành tựu và hạn chế của doanh nghiệp Nhà nước, những tác động của những thành tựu và hạn chế đó tới nền kinh tế, tới cuộc sống, định hướng phát triển và chiến lược phát triển của nền kinh tế quốc dân.
4. Những vấn đề đặt ra trong việc củng cố sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước
Nhằm quán triệt các quan điểm và yêu cầu của Đảng và Nhà nước ta, đã đề ra những vấn đề trong việc củng cố sắp xếp các doanh nghiệp Nhà nước:
- Sắp xếp lại doanh nghiệp Nhà nước, duy trì và phát triển những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, giải thể và cho phá sản các doanh nghiệp Nhà nước bị thua lỗ kéo dài.
- Sát nhập các doanh nghiệp nhỏ vào các công ty lớn, thành lập các công ty ngành hàng nhằm tăng sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước, thị trường khu vực và thị trường thế giới.
- Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp theo hướng giao quyền tự chủ kinh doanh, từng bước xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản, cấp hành chính chủ quản nhiệm vụ là sự cách biệt giữa doanh nghiệp Trung ương và doanh nghiệp địa phương, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát của Nhà nước.
- Cổ phần hóa một bộ phận doanh nghiệp Nhà nước theo yêu cầu của xã hội hóa nền sản xuất, đặc biệt là xã hội hóa về vốn.
Sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là một vấn đề vừa có tính bức xúc, vừa có tính cơ bản. Đây là một công việc phức tạp, liên quan đến nhiều ngành, nhiều lĩnh vực và nhiều tầng lớp dân cư, nó đòi hỏi phải chi phí nhiều nguồn lực và không thể giải quyết một cách nhanh chóng. Để đạt được những vấn đề đặt ra trong việc củng cố sắp xếp lại các doanh nghiệp thì các doanh nghiệp phải giải quyết một số vấn đề chủ yếu như sau:
+ Vai trò chủ đạo của doanh nghiệp Nhà nước phải được khẳng định dựa trên cơ sở nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội và năng lực cạnh tranh là chủ yếu. Các doanh nghiệp Nhà nước là công cụ vô cùng quan trọng của Nhà nước để dẫn dắt nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Cách tiếp cận vấn đề sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước cần xuất phát từ quan hệ sở hữu, phải có quan điểm đúng đắn về cơ cấu sở hữu trong các doanh nghiệp Nhà nước. Đặc biệt, coi trọng quan hệ giữa doanh nghiệp Nhà nước và các thành phần kinh tế để tạo lên sức mạnh tổng hợp của toàn bộ nền kinh tế.
+ Tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng trong sản xuất kinh doanh giữa các thành phần kinh tế.
+ Xác định đại diện chủ sở hữu tài sản của Nhà nước tại doanh nghiệp Nhà nước trên cơ sở phân biệt quyền sở hữu và quyền sử dụng.
+ Hoàn thiện chức năng quản lý của Nhà nước về kinh tế trên cơ sở tách quyền sở hữu Nhà nước của các cơ quan Nhà nước với quyền sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, xóa bỏ chế độ cơ quan, cấp hành chính chủ quản, với doanh nghiệp là chủ thể sản xuất vốn lâu nay đã can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, biến doanh nghiệp trở thành vật phụ thuộc của cơ quan hành chính Nhà nước, gây nhiều phiền hà, cản trở, nhưng rút cục không chịu trách nhiệm đối với những hậu quả xấu đã xảy ra, cũng như đối với các phán quyết sai trí của mình.
+ Thiết lập một cơ quan độc lập để thực hiện chương trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước trong một số năm. Như đã biết, việc sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng của lực lượng sản xuất, do vậy cách tiếp cận vấn đề cũng phải xuất phát từ các quan hệủơ hữu, quan hệ quản lý và quan hệ phân phối; đặt toàn bộ các quan hệ đó trong mối quan hệ tương tác giữa các thành phần kinh tế trong quá trình vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. Nghiên cứu quan điểm và các giải pháp tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam
1. Các quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
Nói đến quan điểm về cổ phần hóa, trước hết ta phải khẳng định cổ phần hóa không phải là tư nhân hóa. Cổ phần hóa là một nội dung đa dạng hóa sở hữu, là quá trình chuyển đổi hình thức sở hữu của một chủ thể thành sở hữu của nhiều chủ thể, trong đó Nhà nước là một chủ sở hữu. Còn tư nhân hóa là chuyển sở hữu Nhà nước thành sở hữu tư nhân, Nhà nước không tham gia là chủ sở hữu một phần vốn và tài sản nào.
Qua những phân tích, đánh giá tình hình hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước sản xuất kém hiệu quả, ta thấy cổ phần hóa là con đường tối ưu để các doanh nghiệp này tồn tại và phát triển. Việc đẩy mạnh cổ phần hóa được Đảng và Nhà nước khẳng định tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996) là "Triển khai vững chắc và tích cực cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước để huy động thêm vốn tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, vốn huy động được dùng để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh". Cổ phần hóa là công cụ huy động vốn hiệu quả cao. Thực chất của vấn đề CPH là tối ưu hóa việc huy động khó khăn hoặc đang giảm sút như huy động vốn qua ngân hàng, đầu tư nước ngoài… quan điểm này cần được phổ biến rộng rãi đến các chủ thể có khả năng mua cổ phiếu.
Đứng trên góc độ người lao động thì Cổ phần hóa chính là một cơ hội để vươn lên làm chủ sản xuất. Động lực này thúc đẩy người lao động làm việc hăng say hơn, năng suất và chất lượng cao hơn. Do đó, cổ phần hóa phải tạo điều kiện cho người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp có như vậy thì mới phát triển được sản xuất.
Quan điểm của Đảng và Nhà nước chỉ rõ: "Cổ phần hóa một số doanh nghiệp Nhà nước không phải là tư nhân hóa nền kinh tế mà là quá trình giảm bớt sở hữu Nhà nước trong các doanh nghiệp Nhà nướcvà đa dạng hóa sở hữu. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và phân phối sản phẩm. thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn nhằm hiện đại hóa nền kinh tế, tạo động lực phát triển trong doanh nghiệp, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh". Đảng và Nhà nước cũng khẳng định "cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước không có nghĩa là làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước, mà là một trong các giải pháp quan trọng để tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn trong sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay nhằm phát huy vai trò chủ đạo thực sự của chúng trong nền kinh tế thị trường".
Như vậy, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước được Đảng và Nhà nước khẳng định và chỉ rõ như là giải pháp mang tính chất bước ngoặt để doanh nghiệp Nhà nước tồn tại và phát triển trong xu hướng xã hội hoá, hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế.
2. Các giải pháp cơ bản tiến hành cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước
a. Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
- Những doanh nghiệp Nhà nước làm ăn có hiệu quả, những nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính, những nhóm doanh nghiệp có khó khăn vè quản lý giá thành sản xuất lên cao thì đều thuộc nhóm doanh nghiệp cổ phần hóa còn những doanh nghiệp làm ăn thua lỗ kéo dài sẽ phải áp dụng các biện pháp sát nhập với các đơn vị khác rồi cổ phần hoá, hoặc bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoài doanh nghiệp hoặc cho phá sản. Hay cần phải thành lập các quỹ hỗ trợ để giải quyết khó khăn về tài chính,nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, làm ăn có lãi.
Khi tham gia vào cơ chế thị trường thì phải nhận thức rõ khâu quản lý là khâu có tính chất quyết định. Một người quản lý tốt phải nắm bắt chính xác tình hình của doanh nghiệp, khi có thua lỗ phải biết cách chuyển hướng sản xuất kinh doanh, khôi phục lại doanh nghiệp. Chính vì vậy việc lựa chọn người quản lý không phải dễ dàng. Ở nước ta hiện nay công tác đào tạo ngành quản trị kinh doanh vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu về chất lượng. Đây là một vấn đề cần được xem xét, giải quyết để có thể theo kịp sự phát triển của nền kinh tế.
b. Giải pháp cho những tồn tại về mặt tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hóa ở bất cứ một doanh nghiệp nào.
- Quán triệt tư tưởng xem cổ phần hóa là phương thức huy động vốn tối ưu và hiệu quả nhất:
+ Xét ở góc độ doanh nghiệp sản xuất kinh doanh dịch vụ, thiếu vốn khiến các hoạt động trở lên cầm chừng rất kém hiệu quả, không có khả năng mở rộng và phát triển sản xuất. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả nên các nhà đầu tư còn e dè sợ đồng tiền mình đầu tư sẽ không có hiệu quả, không sinh lời. Để vay được vốn ngân hàng doanh nghiệp phải gặp rất nhiều khó khăn như: phải thế chấp các khoản cho vay thường ngắn hạn, lãi suất cao nên sau khi k