Ngành dệt nhuộm đã có từ lâu đời vì nó gắn liền với một trong những nhu cầu cơ bản 
của con người là may mặc. Sản lượng dệt trên thế giới ngày càng tăng, không chỉ về chất 
lượng mà còn đa dạng về mẫu mã, màu sắc của sản phẩm. Ở Ấn Độ, hàng năm sản xuất 
khoảng trên 4000 triệu mét vải. Ở Việt nam, ngành công nghiệp dệt may đang trở thành một 
trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hàng năm sản xuất khoảng trên 2000 triệu mét vải 
và trong các năm tới sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, một vấn đề luôn đi kèm theo qui mô sản 
xuất là vấn đề chất thải của ngành này, trong đó có nước thải. Nước thải phát sinh trong ngành 
công nghiệp dệt nhuộm xuất phát từ các công đoạn hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm. Nếu 
lượng nước thải này chỉ xử lý sơ bộ, sau đó xả ra môi trường sau mỗi chu trình thì không chỉ 
gây thiệt hại cho nguồn tài nguyên nước mà còn làm ô nhiễm môi trường nước và không tận 
dụng hết thuốc nhuộm còn tồn dư. Hiện nay, các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm đòi 
2
hỏi khá nhiều chi phí, kỹ thuật phức tạp mà hiệu quả không cao. Thành phần gây ô nhiễm 
chính trong nước thải dệt nhuộm là lượng thuốc nhuộm tồn dư trong dòng thải sau công đoạn 
nhuộm. Do đó, việc tách thu hồi thuốc nhuộm tồn dư ngay tại công đoạn phát sinh là một 
trong những giải pháp hữu ích để xử lý và giảm thiểu ô nhiễm nước thải dệt nhuộm. So với 
các phương pháp xử lý thông thường, ngoài mục đích tách thuốc nhuộm dư trong nước thải 
nhuộm, kỹ thuật lọc màng còn cho phép tái sử dụng lại dung dịch nhuộm và nước sạch sau 
khi đã tách thuốc nhuộm, đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm và đã được áp dụng ở 
một số nước. Ở nước ta, việc áp dụng kỹ thuật lọc màng trong xử lý nước thải dệt nhuộm là 
vấn đề còn rất mới.
                
              
                                            
                                
            
 
            
                 17 trang
17 trang | 
Chia sẻ: hongden | Lượt xem: 1379 | Lượt tải: 3 
              
            Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nghiên cứu tách thu hồi thuốc nhuộm dư trong 
nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng 
giảm thiểu fouling cho quá trình lọc tách thuốc 
nhuộm qua màng 
Cù Thị Vân Anh 
Trường Đại học Khoa học Tự nhiên 
Luận văn Thạc sĩ ngành: Hóa môi trường; Mã số: 60 44 41 
Người hướng dẫn: TS. Trần Thị Dung 
Năm bảo vệ: 2012 
Abstract: Tổng quan về nước thải dệt nhuộm, phương pháp xử lý, màng lọc, các quá 
trình tách màng và biến tính bề mặt màng lọc. Trình bày phương pháp nghiên cứu: 
Đánh giá khả năng tách thuốc nhuộm của màng; xác định độ giảm năng suất lọc theo 
thời gian; đánh giá độ bền của màng trong các môi trường pH khác nhau; đánh giá khả 
năng phục hồi năng suất lọc bằng phương pháp rửa; biến tính bề mặt màng lọc; xác 
định lượng polyme được trùng hợp ghép lên bề mặt màng; xác định lượng thuốc 
nhuộm hấp phụ lên màng trong quá trình lọc; nghiên cứu cấu trúc và tính chất bề mặt 
màng. Đưa ra kết quả thực nghiệm và thảo luận: Xây dựng đường chuẩn xác định 
nồng độ thuốc nhuộm; khả năng tách loại thuốc nhuộm của màng ở các điều kiện khác 
nhau; Khả năng giảm fouling cho quá trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng. 
 Keywords: Hóa môi trường; Kỹ thuật màng lọc; Thuốc nhuộm; Xử lý nước thải 
Content 
MỞ ĐẦU 
 Ngành dệt nhuộm đã có từ lâu đời vì nó gắn liền với một trong những nhu cầu cơ bản 
của con người là may mặc. Sản lượng dệt trên thế giới ngày càng tăng, không chỉ về chất 
lượng mà còn đa dạng về mẫu mã, màu sắc của sản phẩm. Ở Ấn Độ, hàng năm sản xuất 
khoảng trên 4000 triệu mét vải. Ở Việt nam, ngành công nghiệp dệt may đang trở thành một 
trong những ngành công nghiệp mũi nhọn, hàng năm sản xuất khoảng trên 2000 triệu mét vải 
và trong các năm tới sẽ còn tăng thêm. Tuy nhiên, một vấn đề luôn đi kèm theo qui mô sản 
xuất là vấn đề chất thải của ngành này, trong đó có nước thải. Nước thải phát sinh trong ngành 
công nghiệp dệt nhuộm xuất phát từ các công đoạn hồ sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm... Nếu 
lượng nước thải này chỉ xử lý sơ bộ, sau đó xả ra môi trường sau mỗi chu trình thì không chỉ 
gây thiệt hại cho nguồn tài nguyên nước mà còn làm ô nhiễm môi trường nước và không tận 
dụng hết thuốc nhuộm còn tồn dư. Hiện nay, các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm đòi 
 2 
hỏi khá nhiều chi phí, kỹ thuật phức tạp mà hiệu quả không cao. Thành phần gây ô nhiễm 
chính trong nước thải dệt nhuộm là lượng thuốc nhuộm tồn dư trong dòng thải sau công đoạn 
nhuộm. Do đó, việc tách thu hồi thuốc nhuộm tồn dư ngay tại công đoạn phát sinh là một 
trong những giải pháp hữu ích để xử lý và giảm thiểu ô nhiễm nước thải dệt nhuộm. So với 
các phương pháp xử lý thông thường, ngoài mục đích tách thuốc nhuộm dư trong nước thải 
nhuộm, kỹ thuật lọc màng còn cho phép tái sử dụng lại dung dịch nhuộm và nước sạch sau 
khi đã tách thuốc nhuộm, đây là một phương pháp có nhiều ưu điểm và đã được áp dụng ở 
một số nước. Ở nước ta, việc áp dụng kỹ thuật lọc màng trong xử lý nước thải dệt nhuộm là 
vấn đề còn rất mới. 
Phương pháp tách bằng màng là một trong những kỹ thuật tách hiện đại và được ứng 
dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Trong khoảng vài chục năm trở lại đây, kỹ thuật lọc màng 
đã có những bước tiến bộ vượt bậc và được áp dụng rộng rãi ở qui mô công nghiệp cho nhiều 
mục đích khác nhau, như sản xuất nước sạch và siêu sạch, lọc hoá dầu, dược phẩm, thực 
phẩm, hoá chất, y tế, môi trường  Ưu điểm của phương pháp lọc bằng màng là có thể tách 
được các cấu tử có kích thước rất khác nhau, từ cỡ hạt tới cỡ ion mà không cần phải sử dụng 
thêm các hoá chất khác, các cấu tử cần tách không phải chuyển pha, là phương pháp tách hiện 
đại, tiết kiệm năng lượng và thân thiện với môi trường. 
 Trong luận văn này, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu tách thu hồi thuốc 
nhuộm dư trong nước thải nhuộm bằng màng lọc và khả năng giảm thiểu fouling cho quá 
trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng” 
 Trước hết xin trình bày một số giới thiệu về thuốc nhuộm và màng lọc. 
 1.1. Nước thải dệt nhuộm và các phương pháp xử lý nước thải dệt nhuộm 
1.1.1. Công nghệ sản xuất và nguồn phát sinh nước thải 
 Thông thường công nghệ dệt nhuộm gồm ba quá trình cơ bản: Kéo sợi, dệt vải và xử 
lý (nấu tẩy), nhuộm và hoàn thiện vải. Các công đoạn chính gồm: 
- Làm sạch nguyên liệu. 
- Kéo sợi, đánh ống, mắc sợi. 
- Hồ sợi dọc. 
- Dệt vải. 
- Giũ hồ. 
- Nấu vải. 
- Làm bóng vải. 
- Tẩy trắng. 
- Nhuộm vải và hoàn thiện: 
 3 
Nguồn nước thải phát sinh trong công nghệ dệt nhuộm là từ các công đoạn hồ 
sợi, giũ hồ, nấu, tẩy, nhuộm và hoàn tất, trong đó lượng nước thải chủ yếu do quá trình giặt 
sau mỗi công đoạn, và nước thải công đoạn giặt sau nhuộm chiếm từ 20 đến 60 % tổng lượng 
nước thải. 
1.1.2. Đặc trưng nước thải dệt nhuộm 
 Những đặc trưng nước thải dệt nhuộm theo bảng sau: 
Bảng 1.1. Các chất gây ô nhiễm và đặc tính của nước thải ngành dệt-nhuộm [14 ] 
Công đoạn Chất ô nhiễm trong nước thải Đặc tính của nước thải 
Hồ sợi, giũ hồ Tinh bột, glucose, carboxy metyl xenlulo, 
polyvinyl alcol, nhựa, chất béo và sáp 
BOD cao (34 đến 50 % tổng 
BOD) 
Nấu tẩy NaOH, chất sáp và dầu mỡ, tro, soda, silicat 
natri và xơ sợi vụn 
Độ kiềm cao, màu tối, BOD 
cao (30 % tổng BOD) 
Tẩy trắng Hypoclorit, hợp chất chứa clo, NaOH, 
AOX, axit  
Độ kiềm cao, chiếm 5 % 
BOD 
Làm bóng NaOH, tạp chất Độ kiềm cao, BOD thấp 
(dưới 1% tổng BOD) 
Nhuộm Các loại thuốc nhuộm, axit axetic và các 
muối kim loại 
Độ màu rất cao, BOD khá 
cao, TS cao 
In Chất màu, tinh bột, dầu, đất sét, muối, kim 
loại, axit  
Độ màu cao, BOD cao và dầu 
mỡ 
Hoàn thiện Vết tinh bột, mỡ động vật, muối Kiềm nhẹ, BOD thấp 
1.1.3. Các phương pháp ngăn ngừa, giảm thiểu và xử lý nước thải dệt nhuộm 
Các phương pháp ngăn ngừa, giảm thiểu ô nhiễm nước thải ngành dệt nhuộm có thể 
thực hiện trong quá trình sản xuất như: 
- Giảm nhu cầu sử dụng nước bằng cách thường xuyên kiểm tra hệ thống nước cấp, 
tránh rò rỉ nước. Sử dụng công nghệ tẩy, nhuộm, giặt hợp lý. Tuần hoàn, sử dụng lại các dòng 
nước giặt ít ô nhiễm và nước làm nguội. 
 - Hạn chế sử dụng các hóa chất trợ, thuốc nhuộm ở dạng độc hay khó phân hủy sinh 
học. Giảm các chất gây ô nhiễm nước thải trong quá trình tẩy, giảm ô nhiễm kiềm trong nước 
thải từ công đoạn làm bóng. 
 4 
 - Thu hồi và sử dụng lại dung dịch hồ từ công đoạn hồ sợi và giũ hồ, phương pháp lọc 
màng dùng để thu hồi PVA được ứng dụng lần đầu tiên ở Mỹ năm 1974 và cho đến nay đã 
được áp dụng ở nhiều nước châu Âu. 
 - Sử dụng nhiều lần dịch nhuộm vừa tiết kiệm hóa chất, thuốc nhuộm và giảm được ô 
nhiễm môi trường. Các loại thuốc nhuộm cho phép sử dụng lại nhiều lần gồm: Thuốc nhuộm 
axit dùng cho len và polyamit, thuốc nhuộm bazo dùng cho polyacrylonitril, thuốc nhuộm 
trực tiếp cho mặt hàng bông, thuốc nhuộm phân tán cho sợi tổng hợp như polyester. Cho đến 
nay, việc thu hồi thuốc nhuộm từ dịch nhuộm bằng phương pháp lọc màng đã được thực hiện 
thành công ở một số nước để thu hồi thuốc nhuộm indigo từ quá trình nhuộm sợi bông. Sau 
khi nhuộm thì phần thuốc nhuộm không gắn vào sợi sẽ đi vào nước giặt với nồng độ 0,1 ppm. 
Để thu hồi thuốc nhuộm, dùng phương pháp lọc màng để nâng nồng độ thuốc nhuộm sau lọc 
lên 60 đến 80 ppm và có thể đưa vào bể nhuộm để sử dụng lại. 
 Do đặc thù của công nghệ, nước thải ngành dệt nhuộm chứa tổng hàm lượng chất rắn, độ 
màu, BOD, COD cao. Việc lựa chọn phương pháp xử lý cần phải dựa vào nhiều yếu tố như 
lượng nước thải, đặc tính nước thải, tiêu chuẩn thải  Về nguyên lý, hiện có các phương 
pháp sau được áp dụng để xử lý nước thải dệt nhuộm: 
* Phương pháp đông keo tụ: Đây là phương pháp khá thông dụng trong xử lý nước thải dệt 
nhuộm. Trong phương pháp này người ta dùng phèn nhôm hoặc phèn sắt cùng với sữa vôi 
khử màu và một phần COD. Điều chỉnh pH thích hợp cho từng loại phèn và loại nước thải cần 
xử lý. 
* Phương pháp hấp phụ: Cơ sở của quá trình là hấp phụ chất tan lên bề mặt chất rắn xốp 
(chất hấp phụ). Các chất hấp phụ thường là than hoạt tính, than nâu, đất sét, cacbonat, magie, 
trong đó than hoạt tính có bề mặt riêng lớn từ 400 đến 500 m2/g. 
* Phương pháp oxi hóa: Các chất nhuộm vải hầu hết đều là các chất bền hóa học nên phải 
dùng các chất oxi hóa mạnh như clo, ozon, peroxit....để oxy hóa thuốc nhuộm. 
* Phương pháp sinh học: Dùng để xử lý các chất có thể phân hủy sinh học như hồ tinh bột.... 
* Phương pháp màng lọc: Phương pháp này đã được ứng dụng trong xử lý nước thải ngành 
dệt nhuộm với mục đích thu hồi các chất tái sử dụng lại như hồ tinh bột, PVA, thu hồi muối 
và thuốc nhuộm. Một số kết quả nghiên cứu về việc áp dụng kỹ thuật lọc màng NF và RO đã 
cho thấy phương pháp này khá hiệu quả, có thể giảm COD tới 99,5 %. Việc áp dụng công 
nghệ màng có thể giảm lượng nước sạch tiêu tốn cho quá trình nhuộm vải tới 70%. Kỹ thuật 
lọc màng có thể áp dụng để xử lý nước thải nhuộm tốt hơn rất nhiều so với các phương pháp 
thông thường. 
 5 
1.2. Giới thiệu về màng lọc và các quá trình phân tách màng 
 Màng lọc là một loại vật liệu được sử dụng trong quá trình tách một hỗn hợp đồng thể 
hay dị thể (lỏng – lỏng, lỏng – rắn, khí – rắn, khí – khí). Một cách khái quát, có thể coi màng 
là một lớp chắn có tính thấm chọn lọc đặt giữa hai pha – pha đi vào (feed) và pha thấm qua 
(filtrate). Trong quá trình tách, màng có khả năng lưu giữ được một số cấu tử trong hỗn hợp 
và cho các cấu tử khác đi qua. Quá trình vận chuyển chất qua màng được thực hiện một cách 
tự nhiên hay cưỡng bức nhờ động lực giữa hai phía màng. Động lực của quá trình tách qua 
màng là chênh lệch áp suất, chênh lệch nồng độ, chênh lệch nhiệt độ hay chênh lệch điện 
trường. 
 Các quá trình màng động lực áp suất chủ yếu gồm: lọc thường, vi lọc, siêu lọc, lọc nano, 
thẩm thấu ngược. Việc phân chia thành các quá trình màng dựa theo kích thước lỗ màng và 
cũng chỉ mang tính tương đối. Ngoài ra còn một số quá trình khác như điện thẩm tách, thẩm 
tách và bốc hơi qua màng. 
1.3 Biến tính bề mặt màng lọc 
Để nâng cao tính năng tách của màng, giảm mức độ tắc màng nói chung, đặc biệt là 
trong quá trình tách các chất hữu cơ, ngoài các phương pháp rửa cơ học và lựa chọn chế độ 
thủy động thích hợp, gần đây việc nghiên cứu biến tính bề mặt màng là một giải pháp rất được 
quan tâm nghiên cứu. 
 Phương pháp biến tính bề mặt có nhiều ưu điểm: Cải thiện được tính chất bề mặt vật 
liệu mà không gây ảnh hưởng đến tính chất bên trong vật liệu như khả năng bám dính, độ 
thấm nước, tính thích ứng sinh học, chống fouling ... mà không cần phải chế tạo lại toàn bộ 
khối vật liệu, nhưng vẫn có được bề mặt vật liệu với các tính chất mong muốn; hơn nữa 
phương pháp này sẽ giảm bớt chi phí chế tạo vật liệu vì chỉ cần tác động lên bề mặt mà không 
cần phải chế tạo toàn bộ khối vật liệu [36]. 
 Hiện nay có rất nhiều phương pháp biến tính bề mặt vật liệu đang được nghiên cứu và 
phát triển, có thể chia thành ba nhóm chính là: Phương pháp vật lý – hóa học; Phương pháp 
cơ học và phương pháp sinh học. Trong đó, đa dạng và phổ biến nhất là phương pháp vật lý – 
hóa học, phương pháp này được chia thành ba nhóm nhỏ: thứ nhất là các phương pháp pha 
khí – vật liệu được xử lý trong các môi trường khí chứa các phần tử hoạt động (gốc tự do, 
electron, các phân tử bị kích thích) hay dưới các bức xạ điện từ (tia UV, tia γ, điện quang); 
thứ hai là các phương pháp pha lỏng và khối – bao gồm các kỹ thuật tạo lớp phủ vật lý hoặc 
thực hiện các phản ứng hóa học trên bề mặt vật liệu; thứ ba là kết hợp hai phương pháp thứ 
nhất và thứ hai tạo ra các lớp polyme trùng hợp ghép trên bề mặt vật liệu, ngoài ra người ta 
 6 
còn có thể biến tính bề mặt vật liệu trong những môi trường khí được phóng điện với tần số 
cao – môi trường plasma, kỹ thuật này có tác dụng chủ yếu là ăn mòn bề mặt, tạo các liên kết 
ngang trên bề mặt và phủ một lớp polyme mới lên trên bề mặt của vật liệu nền. Phương pháp 
cơ học chủ yếu là làm nhám bề mặt vật liệu (roughing). Phương pháp biến tính sinh học gồm 
có: hấp phụ vật lý các phân tử sinh học (protein, lipid, receptor,...) lên bề mặt vật liệu, tạo liên 
kết hóa học của các phân tử sinh học với các nhóm bề mặt hay nuôi cấy tế bào trên bề mặt vật 
liệu [11]. 
 Hiện nay, việc nghiên cứu biến tính bề mặt màng lọc polyme là một vấn đề thu hút 
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong lĩnh vực chế tạo màng do những ưu thế đặc 
biệt của phương pháp này. Một số kỹ thuật đã và đang được nghiên cứu là: kỹ thuật trùng hợp 
bề mặt, kỹ thuật phủ bề mặt, kỹ thuật plasma, kỹ thuật xử lý ozon, kỹ thuật trùng hợp ghép 
quang dùng tia UV... 
1.4 . Mục tiêu nghiên cứu 
 Nội dung của luận văn tập trung vào việc nghiên cứu khả năng tách loại thuốc nhuộm 
trong dung dịch nước bằng phương pháp lọc màng và đánh giá khả năng giảm fouling cho quá 
trình lọc tách thuốc nhuộm qua màng. 
 Các kỹ thuật thực nghiệm được trình bày như sau: 
 2.2. Phương pháp nghiên cứu 
 2.2.1. Đánh giá khả năng tách thuốc nhuộm của màng 
 Tính chất tách của màng được đánh giá qua màu của dịch lọc (hoặc độ lưu giữ hoặc hiệu 
suất lọc) và năng suất lọc với các nồng độ khác nhau của dung dịch thuốc nhuộm cũng như 
mức độ cô đặc dung dịch so với dung dịch ban đầu. Độ lưu giữ của màng được xác định bởi 
công thức: 
 Với thuốc nhuộm phân tán, khả năng tách của màng được đánh giá qua độ trong và màu 
của dịch lọc. 
 Năng suất lọc của màng được xác định bằng cách đo thể tích dịch lọc vận chuyển qua 
màng trong một khoảng thời gian tại áp suất xác định, sau đó áp dụng công thức: 
2.2.2. Xác định độ giảm năng suất lọc theo thời gian 
 Độ giảm năng suất lọc theo thời gian là một chỉ tiêu khá quan trọng trong các quá trình 
lọc màng, cho phép đánh giá mức độ cũng như khả năng tắc màng sau một thời gian lọc. Độ 
giảm năng suất lọc càng nhỏ, màng càng sử dụng được lâu (ít bị tắc hơn), lọc được nhiều 
 7 
dung dịch hơn, chu kỳ rửa màng dài hơn, tiết kiệm thời gian và chi phí cho quá trình lọc. 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành xác định độ giảm năng suất lọc bằng phương pháp 
đo thể tích dịch lọc theo thời gian, cứ sau mỗi 5 phút lại ghi thể tích dịch lọc một lần. Sau đó 
áp dụng công thức (2.2) để tính năng suất lọc tại thời điểm tương ứng. 
2.2.3. Đánh giá độ bền của màng trong các môi trường pH khác nhau 
 Màng được ngâm trong các dung dịch có pH khác nhau (từ 2 đến 10) trong 30 phút, sau đó 
tiến hành đánh giá các thông số năng suất lọc và độ lưu giữ của màng sau khi ngâm so với 
năng suất lọc và độ lưu giữ của màng ban đầu. 
2.2.4. Đánh giá khả năng phục hồi năng suất lọc bằng phương pháp rửa 
 Màng sau khi lọc được rửa lần lượt bằng nước cất và các dung dịch rửa Na5P3O10 2%, axit 
xitric 2%, sau mỗi lần rửa đo độ thấm nước của màng. Khả năng phục hồi năng suất lọc của 
màng được xác định bằng cách so sánh độ thấm nước của màng trước và sau khi rửa. 
2.2.5. Biến tính bề mặt màng lọc 
 Bề mặt màng được biến tính bằng phương pháp trùng hợp ghép dưới bức xạ tử ngoại. Các 
dung dịch monome được sử dụng trong quá trình trùng hợp bao gồm axit acrylic và axit 
maleic. Ảnh hưởng của thời gian và phương thức tiến hành trùng hợp đến tính năng tách của 
màng được đánh giá qua các thông số: Khả năng lưu giữ (tách) thuốc nhuộm, năng suất lọc và 
độ giảm năng suất lọc của màng trong quá trình tách. 
 Chiếu bức xạ tử ngoại 
 Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trực tiếp trong những khoảng thời gian xác định, để 
màng ở nhiệt độ phòng sau khoảng 24 tiếng đồng hồ và tiến hành đánh giá khả năng tách của 
màng. 
 Trùng hợp ghép song song: 
 Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trong điều kiện xác định, sau đó ngâm trong các 
dung dịch monome đồng thời chiếu bức xạ tử ngoại trong những khoảng thời gian khác nhau, 
sấy khô màng và giữ màng ở nhiệt độ phòng sau khoảng 24 tiếng đồng hồ tiến hành đánh giá 
khả năng tách của màng. 
 Trùng hợp ghép nối tiếp: 
 Màng nền được chiếu bức xạ tử ngoại trong điều kiện xác định, sau đó ngâm màng trong 
các dung dịch monome ở các khoảng thời gian khác nhau, sấy khô màng và giữ màng ở nhiệt 
độ phòng, sau khoảng 24 tiếng đồng hồ tiến hành đánh giá khả năng tách của màng. 
 Các thí nghiệm thử màng thực hiện ở áp suất 25bar, diện tích màng lọc là 1.32×10–3 m2, 
nồng độ dung dịch thuốc nhuộm Red 3BF 30ppm. 
 8 
2.2.6. Xác định lượng polyme được trùng hợp ghép lên bề mặt màng 
 Lượng polyme trùng hợp ghép lên màng ảnh hưởng đến mức độ chặt khít của bề mặt 
màng sau khi biến tính. Lượng polyme ghép càng nhiều, bề mặt màng sẽ càng chặt khít. 
Lượng polyme trùng hợp ghép được xác định bằng chênh lệch khối lượng màng trước và sau 
khi trùng hợp trên một đơn vị diện tích bề mặt màng: 
2.2.7. Xác định lượng thuốc nhuộm hấp phụ lên màng trong quá trình lọc 
 Lượng thuốc nhuộm bị hấp phụ lên màng là nguyên nhân gây ra độ giảm năng suất lọc 
của màng theo thời gian. Màng hấp phụ ít thuốc nhuộm hơn sẽ có tốc độ giảm năng suất lọc 
chậm hơn. Do đó, đây cũng là một thông số quan trọng để đánh giá tính chất lọc của màng. 
 Lượng thuốc nhuộm hấp phụ lên màng được xác định bằng cách so sánh khối lượng của 
màng trước và sau khi lọc (màng được rửa sạch bằng nước cất và sấy nhẹ đến khô hoàn toàn 
rồi đem cân khối lượng trên cân phân tích) : 
2.2.8. Nghiên cứu cấu trúc và tính chất bề mặt màng 
 Cấu trúc hình thái của bề mặt màng được quan sát qua các ảnh chụp hiển vi điện tử quét 
(SEM) và ảnh chụp hiển vi lực nguyên tử (AFM) với các độ khuếch đại khác nhau. 
 Để xác định các nhóm chức mới xuất hiện trên bề mặt màng sau khi trùng hợp bề mặt, sử 
dụng thiết bị đo phổ hồng ngoại phản xạ ngoài FTIR-ATR, với độ phân giải 4 cm-1, góc quét 
phổ 300. 
Các kết quả và thảo luận được tóm tắt trong phần sau: 
3. Khảo sát điều kiện tách loại thuốc nhuộm 
3.1 Ảnh hưởng của nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch 
Kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất lọc qua màng khá ổn định và có xu hướng 
giảm dần khi nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch ban đầu tăng. Ở cùng điều kiện, trong 3 
loại thuốc nhuộm, dung dịch Blue MERF cho năng suất lọc thấp nhất, dung dịch Yellow 3GF 
cho năng suất lọc cao nhất. Sự giảm năng suất lọc khi nồng độ thuốc nhuộm trong dung dịch 
tăng lên là do sự phân cực nồng độ giữa hai phía màng và một phần do sự hấp phụ của thuốc 
nhuộm lên màng trong quá trình tách, làm tăng trở lực chuyển khối qua màng. Kết quả thực 
nghiệm cũng cho thấy, trong tất cả các thí nghiệm, dịch lọc thu được đều không có màu. Điều 
đó có nghĩa là trong vùng nồng độ khảo sát, màng có khả năng lưu giữ được gần như hoàn 
toàn thuốc nhuộm trong dung dịch. 
3.2. Ảnh hưởng của mức độ cô đặc dung dịch 
 Kết quả xác định năng suất lọc và độ giảm năng suất lọc theo thời gian cho thấy, trong 
vùng nồng độ khảo sát, năng suất lọc giảm dần khi mức độ cô đặc tăng, tuy nhiên độ giảm 
năng suất lọc nói chung không lớn lắm. 
 9 
3.3. Ảnh hưởng của áp suất dòng qua module màng 
 Kết quả thực nghiệm cho thấy, năng suất lọc của màng tăng khá mạnh theo áp suất dòng 
qua module, ví dụ, khi áp suất dòng qua module tăng từ 0.5 atm đến 2.5 atm thì năng suất lọc 
tăng khoảng 2.5 lần, trong khi màng vẫn có thể lưu giữ được gần như hoàn toàn thuốc nhuộm 
trong dung dịch. Trên thiết bị lọc màng tự lắp đặt, do công suất của máy bơm nhỏ nên chúng 
tôi không khảo sát được ở các áp suất dòng vào cao hơn. 
 Thực tế, các loại màng lọc thương mại chế tạo dùng cho lọc nano và thẩm thấu ngược có 
thể làm việc được ở áp suất khá cao. Màng thương mại Filmtech TW30 dùng cho lọc nano có 
thể làm việc được ở áp lực nén qua màng tối đa khoảng 20 bar. Do đó, trong các hệ thống 
dùng cho lọc công nghiệp, thường sử dụng các loại bơm cao áp để bơm và nén dung dịch qua 
màng ở áp lực cao để thu được lưu lượng dòng dịch lọc qua màng lớn. 
3.4. Ảnh hưởng của loại thuốc nhuộm 
Kết quả đo và so sánh năng suất lọc của màng với các loại dung dịch thuốc nhuộm 
trực tiếp và phân tán được đưa ra ở Hình 3.10 cho thấy, với các dung dịch thuốc nhuộm có 
nồng độ thấp (50 ppm) năng suất lọc của màng đối với hai loại dung dịch thuốc nhuộm không 
khác nhau nhiều,