Nghiên cứu Văn học đã có một lịch sử lâu đời. Từ trước đến nay, có nhiều phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo nhiều quan điểm khác nhau.Cách nghiên cứutheo quan điểm ngữ văn chỉ thiên về việc giảng giải từ ngữ, phân tích văn pháp, coi nhẹ những vấn đề có liên quan đến nôi dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Cách nghiên cứu theo phân tâm học Feurd chỉ tập trung khám phá những ẩn ức tình dục ẩn tàng trong tác phẩm. Cách nghiên cứu tác phẩm theo chủ nghĩa cấu trúc thì chỉ phân tích “cái biểu đạt” (hình thức) bỏ qua “cái được biểu đạt” (nội dung). Những người xã hội học dung tục thì chỉ biết đối chiếu một cách máy móc hiện thực khách quan với nội dung tác phẩm văn học. Chủ nghĩa ấn tượng lại quan niệm tác phẩm văn học nghệ thuật không phải đi sâu khám phá bản chất hiện thực mà chẳng qua chỉ ghi dấu lại những ấn tượng trong phút giây ban đầu của người nghệ sĩ trước hiện thực và vì thế nghiên cứu tác phẩm cũng chỉ cần đi sâu khám phá ấn tượng ấy.
Tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng đối với hiện thực khách quan và chủ quan nhà văn, tác phẩm không khi nào phản ánh và biểu hiện một cách trực tuyến mà phải dựa vào một di sản tinh thần nhất định của dân tộc và nhân loại.
Quán triệt chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và mỹ học Mác Lênin, phương pháp luận nghiên cứu văn học hiện đại ngày nay càng phát triển và đặt ra nhiều vấn đề tiếp cận tác phẩm văn học nghệ thuật một cách toàn diện. Tác phẩm văn học là tổng hoà của hàng loạt tương quan: tương quan nội tại cấu trúc, tương quan bên ngoài gồm: hiện thực khách quan, chủ quan nhà văn, công chúng, di sản văn hoá.
15 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2842 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu tìm hiểu tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA VĂN HỌC
---------------
BÀI GIỮA KỲ
NGHIÊN CỨU TÌM HIỂU TÁC PHẨM VĂN HỌC
DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ
Giáo viên hướng dẫn : TS. Trần Nho Thìn
Học viên : Phạm Thị Phương
Lớp : Cao học Văn K50
Hà Nội -2007
PHẦN MỞ ĐẦU
Nghiên cứu Văn học đã có một lịch sử lâu đời. Từ trước đến nay, có nhiều phương pháp nghiên cứu tác phẩm văn học theo nhiều quan điểm khác nhau.Cách nghiên cứutheo quan điểm ngữ văn chỉ thiên về việc giảng giải từ ngữ, phân tích văn pháp, coi nhẹ những vấn đề có liên quan đến nôi dung tư tưởng của tác phẩm văn học. Cách nghiên cứu theo phân tâm học Feurd chỉ tập trung khám phá những ẩn ức tình dục ẩn tàng trong tác phẩm. Cách nghiên cứu tác phẩm theo chủ nghĩa cấu trúc thì chỉ phân tích “cái biểu đạt” (hình thức) bỏ qua “cái được biểu đạt” (nội dung). Những người xã hội học dung tục thì chỉ biết đối chiếu một cách máy móc hiện thực khách quan với nội dung tác phẩm văn học. Chủ nghĩa ấn tượng lại quan niệm tác phẩm văn học nghệ thuật không phải đi sâu khám phá bản chất hiện thực mà chẳng qua chỉ ghi dấu lại những ấn tượng trong phút giây ban đầu của người nghệ sĩ trước hiện thực và vì thế nghiên cứu tác phẩm cũng chỉ cần đi sâu khám phá ấn tượng ấy.
Tác phẩm văn học là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, nhưng đối với hiện thực khách quan và chủ quan nhà văn, tác phẩm không khi nào phản ánh và biểu hiện một cách trực tuyến mà phải dựa vào một di sản tinh thần nhất định của dân tộc và nhân loại.
Quán triệt chủ nghĩa duy vật biện chứng, chủ nghĩa duy vật lịch sử và mỹ học Mác Lênin, phương pháp luận nghiên cứu văn học hiện đại ngày nay càng phát triển và đặt ra nhiều vấn đề tiếp cận tác phẩm văn học nghệ thuật một cách toàn diện. Tác phẩm văn học là tổng hoà của hàng loạt tương quan: tương quan nội tại cấu trúc, tương quan bên ngoài gồm: hiện thực khách quan, chủ quan nhà văn, công chúng, di sản văn hoá.
Năm tương quan này không tách rời nhau mà lấy tương quan nội tại làm tiêu điểm. Các cách tiếp cận trên đều có mặt mạnh, mặt yếu. Tuy nhiên, để khám phá, tìm ra giá trị đích thực của mỗi tác phẩm văn chương cũng còn nhiều điều cần bàn cãi. Đặc biệt ngày nay, trong xu thế hội nhập cùng phát triển với những tiến bộ của nghiên cứu văn học và thời đại, với những cải tổ và cải cách, đổi mới ở Việt Nam và trên toàn cầu, cần có một cách nhìn, cách đánh giá mới hơn, hữu hiệu, chân xác ,khoa học hơn về tác phẩm văn chương.
Nhìn lại lịch sử nghiên cứu văn học nước ta từ cách mạng tháng Tám, tất cả mọi vấn đề xã hội văn hoá văn nghệ đều được nhìn nhận đánh giá lại, với một nhãn quan mới. Dưới ánh sáng quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, các nhà nghiên cứu phê bình đã nhận thức được văn học cũng là một hình thái ý thức xã hội thuộc kiến trúc thượng tầng nó phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội, nó là công cụ cuộc đấu tranh ấy. Phân tích tác phẩm văn học theo phương pháp xã hội học tức là theo quan điểm dân tộc và giai cấp. Phương pháp này tuy có nhiều ưu điểm nhưng không khỏi rơi vào sự quy kết một cách cực đoan. Con đường đi tìm chân lý nghệ thuật vẫn là con đường khó và phức tạp, đòi hỏi những tìm tòi, những trăn trở. Trong nhiều chuyên luận của mình,phó giáo sư tiến sĩ Trần Nho Thìn đã đi sâu nghiên cứu, vận dụng cách tiếp cận văn hoá học đối với tác phẩm văn chương, đặc biệt trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá”. Tiếp cận tìm hiểu kỹ vấn đề, giúp chúng ta có một cái nhìn cách đánh giá khoa học hơn, chân xác hơn đối với giá trị văn học truyền thống, mở ra một hướng nghiên cứu mới vừa hợp với xu thế phát triển, vừa giữ gìn được bản sắc truyền thống văn hoá.
Tìm hiểu kỹ, vận dụng vấn đề lý luận trong nhiều chuyên luận của GSTS Trần Nho Thìn, mà chủ yếu cuốn “Văn học Trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá”. Chúng tôi áp dụng phân tích một tác phẩm văn chương trung đại dưới góc nhìn văn hoá học mà ở đây là thơ Hồ Xuân Hương với bài “Hang Cắc cớ”.
NỘI DUNG
I. KHÁI NIỆM VĂN HOÁ VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN VĂN HOÁ HỌC.
Văn hoá gắn liền với tất cả các hoạt động nhằm phát triển và hoàn thiện con người, phát triển và hoàn thiện xã hội.
Trong cuộc sống của mình, con người luôn luôn tạo ra các giá trị. Đó là đạo lý làm người, là những chuẩn mực, là phong tục tập quán, tín ngưỡng… Nhờ đó, con người có sự gắn kết chặt chẽ với nhau trong một cộng đồng, trong một dân tộc, trong một làng quê, trong một dòng họ, một gia đình. Sức mạnh của cá nhân, của cộng đồng cũng được hình thành từ đó.
Như vậy văn hoá trước hết là các hoạt động nhằm phát huy nhu cầu năng lực tinh thần cơ bản của con người, tạo ra các chuẩn mực, các giá trị, nâng cao khả năng hiểu biết và sáng tạo của con người. Tổ chức văn hoá giáo dục khoa học của Liên Hợp quốc đã đưa ra một định nghĩa văn hoá như sau: “Văn hoá là tổng thể sống động các hoạt động sáng tạo (của cá nhân và cộng đồng) trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế kỷ hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ thống giá trị, truyền thống, thị hiếu, những đặc tính riêng của mỗi dân tộc”.
Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội “Văn hoá là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” - Hồ Chí Minh.
Theo TS Trần Nho Thìn văn hoá là một hệ thống mở “Nhân học văn hoá”, “nhân chủng học văn hoá”. Văn hoá Việt còn là sản phẩm của giao lưu ảnh hưởng văn hoá Trung Quốc, Ấn Độ… Vì thế khái niệm văn hoá tương đối rộng. Văn hoá là phạm trù giá trị làm cho con người thoát ra khỏi tình trạng mông muội. Văn hoá bao gồm văn minh, kinh tế, sức khoẻ, ăn uống, văn học… chứ không phải mình lễ hội và nói đến văn hoá là nói đến tập tục tín ngưỡng tôn giáo, nói đến đời sống tinh thần …
Bất kỳ một giá trị văn học nào cũng đều thoát thai từ một môi trường văn hoá, từ một đời sống văn hoá nhất định.
Tác phẩm là con đẻ tinh thần của người nghệ sĩ, là sản phẩm của một thời đại. Nhà văn đắm mình trong không khí thời đại, nắm vững tinh thần thời đại cùng với môi trường, vốn sống, vốn văn hoá… hình thành tư tưởng thẩm mĩ trong sáng tác văn chương.
Yếu tố văn hoá ảnh hưởng lớn đến sự thành công của tác phẩm. Cách tiếp cận văn hoá học trong nghiên cứu tác phẩm văn chương sẽ giúp chúng ta khám phá chân lý nghệ thuật một cách đúng hướng hơn. TS Trần Nho Thìn đã chỉ ra một số bước tiếp cận theo phương pháp văn hoá học đối với văn học Trung đại Việt Nam như sau:
- Đối với văn học trung đại cần phục nguyên tái hiện không gian văn hoá cũng như những nhân tố thời đại tác động.
- Tìm ra mối liên hệ giữa tác phẩm với văn hoá thời đại.
- Xác định cơ sở văn hoá xã hội đã hình thành nên tác phẩm (đề tài, chủ đề, hình thức nghệ thuật, cách cảm nhận, mọi yếu tố cấu thành tác phẩm...)
II. THƠ HỒ XUÂN HƯƠNG DƯỚI GÓC NHÌN VĂN HOÁ PHÂN TÍCH BÀI THƠ HANG CẮC CỚ
1. Vài nét về Hồ Xuân Hương
Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một nhà thơ lớn một gương mặt độc đáo trong thơ ca trung đại Việt Nam cũng như nền văn học dân tộc, Những tài liệu để lại hiện nay cho thấy bà sống vào khoảng cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Bà là con Hồ Thi Diễn, người làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An. Hồ Thi Diễn là một ông đồ nghèo đi dạy học ở vùng Hải Dương (Kinh Bắc ngày trước) lấy một cô gái họ Hà làm vợ lẽ và sinh ra Hồ Xuân Hương. Có một thời gia đình ở gần Hồ Tây Hà Nội.
Hồ Xuân Hương thông minh nhưng không được học nhiều, giao du rộng rãi với các nho sĩ, đấng mày râu nhưng cuộc đời tình riêng lại hết sức éo le ngang trái. Bà hai lần lấy chồng, hai lần đều làm lẽ và là nạn nhân của xã hội phong kiến thối nát trọng nam khinh nữ. Hồ Xuân Hương nổi tiếng với những sáng tác bằng thơ Nôm, từng được mệnh danh là” bà chúa Thơ Nôm”. Bà là một trong những nhà thơ - nhà nhân đạo chủ nghĩa tiêu biểu cho giai đoạn văn học nửa cuối thế kỷ XVIII, nửa đầu thế kỷ XIX. Sáng tác của bà đặt ra một cách sâu sắc và thấm thía những vấn đề riêng tư, những nỗi bất công ngang trái và người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng, đồng thời lên tiếng bảo vệ đề cao người phụ nữ, bênh vực quyền bình đẳng và quyền được hưởng hạnh phúc của họ. Thơ Hồ Xuân Hương là một hiện tượng nghệ thuật kỳ lạ, nghệ thuật thơ bà vừa đa dạng và độc đáo tạo ra một vẻ “duyên dáng Xuân Hương” khi trào phúng hóm hỉnh chua cay, lúc trữ tình đằm thắm xót xa. Tiếng nói trong thơ bà thẳng thắn nhiều lúc táo bạo thể hiện một bản lĩnh nghệ thuật vững vàng. Thơ bà sáng tác theo thể đường luật nhưng dân tộc hoá cao độ, góp phần đáng kể vào việc cách tân nghệ thuật thơ trung đại: đưa cái trần tục thô ráp hàng ngày vào một thể thơ vốn đài các quý phái.
Về ngôn ngữ bà đã vận dụng thành công ca dao tục ngữ, thành nữ, lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân. Thơ bà mang đậm sắc thái văn hoá dân gian. Bằng một tư duy nghệ thuật độc đáo, thơ Hồ Xuân Hương đa tầng đa nghĩa và là một hiện tượng lạ đối với giới nghiên cứu phê bình văn học. Việc nghiên cứu đánh giá thơ bà là vấn đề khó và phức tạp, đặc biệt có rất nhiều ý kiến đánh giá xoay quanh vấn đề dâm và tục trong thơ Hồ Xuân Hương. Nhưng ở đây trong khuôn khổ bài viết chúng tôi chỉ đi sâu tìm hiểu thơ Hồ Xuân Hương dưới góc nhìn văn hoá về yếu tố dâm và tục.
2. Phân tích bài thơ Hang Cắc Cơ bằng phương pháp văn hoá học.
“Hang Cắc Cớ” là bài thơ có thể xem tiêu biểu cho bản sắc thơ Hồ Xuân Hương. Ở đó nó hội tụ nhiều nét tinh hoa trong phong cách thơ bà: Một tình yêu thiên nhiên dữ dội trong lối biểu hiện, dục tính trong tài hoa miêu tả, ỡm ờ mà khiêu khích người khác giới, lập lờ hai mặt trong nỗi khát khao tình dục, sự hoà điệu giữa nhạc và hoạ…
Hang Cắc Cớ
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Giọt nước hữu tình rơi lõm bõm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
(Hang Cắc Cớ)
Bài thơ mang biểu tượng lấp lửng hai mặt. Trước hết là nghĩa thực được gợi ra từ nhan đề bài thơ “Hang Cắc Cớ” không ai nói là sai được. Nó rất thật, rất đúng. Nhưng những ngôn từ cứ lồ lộ “nứt đôi mảnh” “kẻ hầm rêu mốc” “giọt nước hữu tình” “con đường vô ngạn” “hớ hênh” “đẽo đá” “trơ toen hoẻn”, cùng với vần om, chòm, phòm, bõm, om, các từ láy “hõm hòm hom”, toen hoẻn, phập phòm, lõm bõm đứng cạnh nhau hoà phối tạo nên một nghĩa ngầm. Mà người cho đó là rất tục, rất dâm. Yếu tố thanh tục trong thơ Hồ Xuân Hương được người ta bàn đến nhiều. Vận dụng thuyết phân tâm học của Feurd, các nhà nghiên cứu cho rằng Hồ Xuân Hương là một người đàn bà hết sức phóng túng. Thơ bà biểu hiện khủng hoảng về tính dục của một “thiên tài hiếu dâm đến cực điểm”. Đánh giá như vậy là thoá mạ hạ thấp giá trị văn chương của một hồn thơ trác Việt.
Cách nhìn xã hội học coi yếu tố dâm dục tiếng cười trào phúng trong thơ Hồ Xuân Hương là vũ khí đấu tranh giai cấp chống phong kiến, sức phản kháng chống lại sự bóp nghẹt quyền sống con người, phá phách cái xấu xa. Với nhu cầu hạnh phúc của con người nhất là người phụ nữ. Cách nhìn nhận này không phải lúc nào cũng đúng. Đôi lúc xa vào suy diễn thiếu thực tế. Nhìn nhận thơ Hồ Xuân Hương theo góc độ văn hoá học chúng ta sẽ có cái nhìn mới hơn khả quan hơn.
Hang Cắc Cớ còn gọi là hang Thanh Hoá ở xã Thuỵ Khê, huyện Sai Sơn, tỉnh Sơn Tây, nay là tỉnh Sơn Tây. Hang ở hòn núi có Chùa Thầy. Mỗi năm đều có hội Chùa Thầy. Mà đã đến hội Chùa Thầy ai mà chả qua hang Cắc Cớ nhưng cách cảm, cách tả của Hồ Xuân Hương quả là tài hoa và độc đáo. Cảm nhận đầu tiên về hang Cắc Cớ đó là cứ nhạc phát ra trong hang do sự cộng hưởng của âm thanh với không gian vòm, sâu, trầm, đục. Qua âm điệu của lời thơ được kết dệt thành bằng một thứ ngôn ngữ đặc biệt đậm sắc màu dân gian.
Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt ra đôi mảnh hỏm hòm hom
Mượn âm thanh để dựng lại không gian đó là nét đặc sắc trong thơ Hồ Xuân Hương. Cách hiệp vần chòm, hõm hòm hom, điệp âm gợi nên rờ rỡ cái hang tròn, sâu và nhỏ “trời đất sinh ra”, “nứt làm đôi mảnh” rất tự nhiên, hang của trời cho, của tạo hoá ban tặng. Càng vào sâu trong hang càng nghe những âm thanh lạ.
Kẽ hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồng gió thông reo vỗ phập phòm
Hang sâu, tối, ẩm nên rêu không phát triển được “rêu mốc” không sắc mầu, trơ đất đá mà ở đây Xuân Hương đã dùng chữ đến cạn cùng ngôn ngữ. Trơ toen hoẻn. Khác với Đèo Ba Dội có ánh sáng mặt trời dương thịnh nên rêu mọc xanh rì. Âm thanh trong hang cộng hưởng với tiếng gió thoảng “thông reo” tạo thành âm thanh khuếch đại “Luồng gió thông reo vỗ phập phòm”.”phập phòm” một thư âm thanh lạ phát ra trong cái nhịpgiao hoà của hang tối Thạch nhũ giỏ từng giọt ,từng giọt thành tiếng lõm bõm. Cách tả rất thực,rất sống động. Giọt nước hữu tình hay có cả tiếng lòng Xuân Hương. Hang càng vô càng tối “vô ngạn” hình như không có bờ bến mà thăm thẳm. Cách nhìn, cách cảm của Xuân Hương là cách nhìn cách cảm của dân gian vừa rất thực tế nhưng cũng rất dí dỏm.
Hai câu cuối có vẻ khiêu khích bỡn cợt.
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm
Nhưng sự đùa dỡn của Hồ Xuân Hương cũng có cơ sở của nó: đến hội Chùa Thầy mà không vào hang Cắc Cớ thì coi như chưa biết Chùa Thầy. Ngày xưa khi nam thanh nữ tú đến hội Chùa Thầy vào hang Cắc Cớ khi vào đốt đuốc vào trong hang thì tắt đuốc. Vì vậy Hồ Xuân Hương mới “Khen ai”. Dân gian đã từng có câu ca:
Ở Chùa Thầy có hang Cắc Cớ
Trai chưa vợ nhớ hội Chùa Thầy
Nhưng đó mới chỉ là nghĩa phô, nghĩa đen. Đằng sau câu chữ đầy ma lực, biến hoá oái oăm là nghĩa ngầm mà nhiều người vẫn cho đó là dâm tục. Cái hang hay biểu tượng của âm vật, tính giao đã “đá một chòm” rồi lại “đôi mảnh hỏm hòm hom” “rêu mốc trơ toen hoẻn”- cái xấu xí mà lại để ra, trơ ra không ngượng ngùng không xấu hổ, “rơi lõm bõm”, “tối om om”. Cả cách nói lái, lấp lửng “đẽo đá”, “hữu tình”, “hớ hênh” - bày ra để lộ ra, cái đáng phải che kín. Những ngôn từ cứ lồ lộ một cách tính nghịch làm cho người ta dễ nhận ra nghĩa ngầm, nghĩa tục. Khác với cách nhìn phân tâm học hay xã hội học, theo cách tiếp cận văn hoá học ta thấy nghĩa ngầm, biểu tượng hang mang ý nghĩa phồn thực sâu sắc.
Biểu tượng hang, “hang”, “giếng”, “động”… đó là những “siêu mẫu” tượng trưng cho bộ phận sinh sản. Thực tế ở nước ta thờ sinh thực khí như cột đá, các hốc cây, hốc đá trong hang động, các kẽ nứt trên đá như: Chùa Dạm (Hà Bắc), Sở Đầm, Hòn Đổ (Khánh Hoà)…
Tính dục có mặt ở đây như một yếu tố vũ trụ hiện hữu ở mọi con người. Hồ Xuân Hương hay nói tới hang, kẽ, lạch, giếng, thân em… nhưng ở đây là cái tự nhiên, cái sức sống, cái đẹp mang ý nghĩa phồn thực trong cái nhìn dân gian hết sức hồn nhiên tự nhiên.
Triết lý phồn thực, văn hoá dâm tục chính là nằm trong nguồn văn hoá dân gian. Nhiếu lễ hội dân gian nước ta có tục tắt đèn giữa đêm (tục dã đám) ở La Cả, La Khê, Hà Đông. Trong khi hội hè đang tiếp diễn mọi người được tự do. Nét văn hoá ấy trở thành phổ biến như một trào lưu nhất là khi chế độ phong kiến suy thoái đến cùng cực như ở nước ta cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế kỷ XIX. Các yếu tố dâm dục lấp lửng trong bài thơ nói riêng, trong toàn bộ thơ Hồ Xuân Hương nói chung gần gũi với tiếng cười nông dân trong thời buổi người ta không tìm ra cái gì vui hơn ngoài những thứ: ăn nằm, nói tục, hút điếu cày, ăn trầu, … vì thế ta cũng dễ nhận ra việc nhìn hang Cắc Cớ mà hình dung ra âm vật và tính giao là một lẽ thường tình tự nhiên. Đó là cái nhìn dân dã hết sức hồn nhiên vẫn thường diễn ra trong cuộc sống bình dị của người dân quê.
Những từ lấp láy, “hỏm hòm hom”, “toen hoẻn”, “phập phòm”, “lõm bõm”, “om om” vừa có giá trị tạo nhạc, vừa có giá trị tạo hình, vừa mô tả sống động cảnh vật tự nhiên, vừa gợi nghĩa ngầm hóm hỉnh, hồn nhiên, tinh nghịch. Ngôn ngữ gai góc sắc nhọn chắt ra từ lời ăn tiếng nói hàng ngày của quần chúng nhân dân : nứt, trơ, đẽo, hớ hênh, chòm, dòm. Nó không làm cho lời thơ thô thiển, rời rạc, trái lại cấu trúc ngôn ngữ chặt mà tinh, chữ dùng vừa chân thực, sống động, vừa gợi liên tưởng thú vị. Vì vậy, bài thơ như là một mảnh hồn cuộc sống, một cuộc sống đang ở độ sinh sôi tràn trề sinh lực. Ở đó con người và thiên nhiên giao hoà hữu tình. Trong thời đại phong kiến khủng hoảng trầm trọng thế kỷ XVIII, XIX mà lại có cái nhìn sự vật tươi vui hồn nhiên như Hồ Xuân Hương quả là hiếm có.
3. Biểu tượng phồn thực thể hiện độc đáo phong phú đa dạng trong thơ Nôm Hồ Xuân Hương.
Biểu tượng trong văn hoá là những hình ảnh cụ thể, sinh động nhưng mang ý nghĩa quy ước của nhà văn hoặc của người đọc, các từ ngữ thông thường khi đi vào văn bản đều có thể trở thành biểu tượng nghệ thuật mang nội dung cảm xúc và khái quát. Nhờ vào tính biểu tượng mà ngôn ngữ văn học nói chung, ngôn ngữ thơ ca nói riêng có khả năng biểu đạt sâu rộng và phong phú hơn so với ngôn ngữ thông thường.
Những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương được xây dựng từ thế giới cảm giác đậm chất dân gian và cực kỳ phong phú: Quả mít, bánh trôi nước, con ốc nhồi, cái quạt, đánh đu, đèo Ba Dội, hang Cắc Cớ, Thiếu ngữ ngủ ngày, tranh tố nữ … đó là những biểu tượng văn hoá dân gian, văn hoá tôn giáo đã ăn sâu vào tâm khảm tiềm thức của dân tộc Việt Nam từ bao đời. Từ những biểu tượng ấy, qua tư duy thơ Hồ Xuân Hương được biến hoá thần tài lấp lánh nhiều tầng nghĩa, đem đến nhiều cánh lý giải khác nhau. Thế giới thơ Hồ Xuân Hương là một thế giới đầy biểu tượng tồn tại dưới nhiều dạng thức khác nhau với những sắc màu khác nhau muôn hình vạn trạng.
Trong thơ Hồ Xuân Hương luôn luôn tồn tại hiện tượng đa nghĩa, một hình ảnh kép, hoặc một biểu tượng sóng đôi: Hang Cắc Cớ, Kẽm Trống, Chùa Hương, Quán Thánh, Đèo Ba Dội, Hang Thanh Hoá… hiện thực vẫn sống động không ai chối cãi được nhưng nếu dừng ở đó chưa đủ. Nghĩa ngầm, nghĩa khác nảy sinh từ biểu tượng thứ nhất là biểu tượng thứ hai, theo kiểu tư duy liên tưởng, tưởng tượng, so sánh ý vị đem đến cho người ta cách hiểu bất ngờ mà tất cả đều hướng tới một mục đích nhất định, một ý nghĩa trào phúng chua cay. Trong thơ Hồ Xuân Hương là sự lấp lửng hai mặt thanh mà tục, tục mà thanh là sự kết hợp hài hoà giữa chất trữ tình đằm thắm và chất trào phúng sâu sắc.
Theo Đỗ Lai Thuý: những biểu tượng trong thơ Hồ Xuân Hương đều có cội nguồn xa xưa đó là hình ảnh liên quan đến âm dương vật và tính giao. Những hình ảnh thân thể phụ nữ nhất là bộ phận tính dục; những biến cố trong cuộc đời phụ nữ như dậy thì, chửa đẻ, chết chồng, cưới xin… trong thời gian như giao thừa chuyển màu, mùa xuân… chúng đều liên quan đến huyền thoại về vũ trụ. Trong các biểu tượng phồn thực hình ảnh âm vật trong thơ Hồ Xuân Hương liên quan đến tính chất sáng chế. Trong sự lưỡng phân trời đất thì trời là cha đất là mẹ. Con người cũng như muôn loài được sinh ra từ lòng đất mẹ từ hang động bang giếng thật tự nhiên. Từ xa xưa người ta đã coi hàng động bang giếng là nơi con người từ bụng mẹ đẻ ra. Hang động cũng là nơi cư trú che mưa che nắng của người sơ thuỷ. Các huyền thoại sáng chế này có mặt trong mọi tộc người trong buổi sơ khai.
Vì vậy ta không phải ngạc nhiên thơ Hồ Xuân Hương đầy những ám ảnh về biểu tượng hang động: Động Hương Tích, Hang Cắc Cớ, Đào Ba Dội, Hang Thanh Hoá, Kẽm Trống, Cửa Dó, Đá ông Chồng bà Chồng…
Hang động xưa vẫn là nơi thờ phật “người quen cõi phật chen chân xọc”. Hồ Xuân Hương đã đưa đạo phật về với thời nguyên thuỷ gắn với tín ngưỡng phồn thực với tính dục. Lúc mà người ta nhìn bông xen của phật người ta hiểu ngay đến biểu tượng âm vật sinh sôi nảy nờ, sự an lành thịnh vượng. Đối tượng tưởng như có vẻ phi lý nhưng thực ra hợp với truyền thống đạo phật. Hồ Xuân Hương đã đưa hình tượng hang động bang giếng - âm vật trở về với ý nghĩa cổ xưa mang tính vũ trụ.
Ở bài “Cái giếng”
Ngõ sâu thăm thẳm tới nhà ông
Giếng tốt thảnh thơi giếng lạ lùng
Cầu trắng phau phau đôi ván ghép
Nước trong leo lẻo một dòng thông
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Giếng ấy thanh tân ai có biết
Đố ai dám thả nạ dòng dòng.
Một cái giếng dân gian đào lấy nước ăn với tất cả tính chất đặc điểm rất thật của nó: giếng sâu, nước tốt trong, có cầu ván đứng múc nước, xung quanh cỏ gà mọc, dưới có cá diếc bơi, thật dễ hiểu nhưn