Đề tài Nghiên cứu tình hình phát triển công nghiệp nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt nam là một quốc gia lạc hậu, hơn 80% dân số sống ở nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách

doc24 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tình hình phát triển công nghiệp nông thôn trong công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU ----------------000--------------- Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá là con đường tất yếu phải tiến hành đối với bất cứ nước nào, nhất là những nước có xuất phát điểm từ nền nông nghiệp kém phát triển muốn xây dựng nền kinh tế phát triển hiện đại. Hiện nay ở nhiều nước, nhất là nước đang phát triển, phát triển công nghiệp nông thôn được coi là vấn đề tất yếu có ý nghĩa chiến lược lâu dài. Đối với Việt nam là một quốc gia lạc hậu, hơn 80% dân số sống ở nông thôn với một cơ cấu kinh tế độc canh thuần nông, năng suất lao động thấp, nhu cầu việc làm rất bức bách. Đại hội lần X Đảng Cộng sản Việt nam đã khẳng định tính đúng đắn đường lối CNH- HĐH nước ta, trong đó đặc biệt coi trọng phát triển công nghiệp nông thôn, từ đó làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế thực hiện CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn. Với đề tài này em mong góp phần vào những cố gắng chung đáp ứng nhu cầu nghiên cứu tình hình phát triển công nghiệp nông thôn trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đề tài gồm 3 phần: Quan điểm Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trước thời kỳ đổi mới Quan điếm Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá trong thời kỳ đổi mới Những vấn đề cơ bản của Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá hiện nay Với kiến thức đã được học tập và thời gian tiếp xúc với thực tế ít, nên tôi nhận thấy việc nghiên cứu đề tài này sẽ không tránh khỏi những mặt hạn chế. Vậy kính mong thầy cô giáo cho nhận xét, đóng góp ý kiến cho bài tiểu luận của Em được tốt hơn. Hà Nội - Tháng 6 - Năm 2010 Học viên: Phan Quang Trung CHƯƠNG I QUAN ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ TRƯỚC THỜI KỲ ĐỔI MỚI QUAN ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ CỦA NƯỚC TA GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1954 – 1975 Từ khi hoà bình được lập lại, miền Bắc đã chuyển sang cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hội nghị lần thứ XIV của Trung ương (11-1958) chủ trương: “đẩy mạnh công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với thành phần cơ cấu cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa với thành phần kinh tế cá thể của nông dân, thợ thủ công và cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với thành phần kinh tế tư bản tư doanh, đồng thời phải ra sức phát triển nền kinh tế quốc doanh là lực lượng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế quốc dân”, lấy hợp tác nông nghiệp làm khâu trung tâm trong toàn bộ công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đại hội III của Đảng đánh dấu một mốc lịch sử quan trọng của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và con đường giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Đường nối chung của Đảng trong thời kỳ này đối với công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phải sử dụng quyền dân chủ nhân dân làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản để thực hiện cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp nhỏ và công thương nghiệp tư bản tư doanh, phát triển thành phần kinh tế quốc doanh, thực hiện công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa bằng cách ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý, đồng thời ra sức phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, đẩy mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa về tư tưởng, văn hoá và kỹ thuật, biến nước ta thành một nước xã hội chr nghĩa có nền công nghiệp hiện đại, nông nghiệp hiện đại, văn hoá và khoa học cải tiến. Nhìn một cách tổng quát, thực hiện đường lối cách mạng do Đại hội Đảng III nêu trên, miền Bắc đã có những bước tiến và những bước phát triển nhanh các lĩnh vực kinh tế và xã hội, cơ sở vật chất trong công nghiệp, nông nghiệp và kết cấu hạ tầng được xây dựng và phát triển tương đối nhanh. Đại hội Đảng III coi trọng vai trò của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ, từ chỗ đồng thời phát triển với phát triển ưu tiên của công nghiệp nặng đến chỗ khẳng định lại vai trò cơ sở của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ đối với sự phát triển của công nghiệp nặng: “Ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý trên cơ sở phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ”. Ở giai đoạn này Đại hội Đảng IV bổ xung thêm vai trò kinh tế địa phương: “Xây dựng kinh tế trung ương đồng thời phát triển kinh tế địa phương”, sau đó nhấn mạnh sự kết hợp: “Kết hợp kinh tế trung ương với kinh tế địa phương trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất”. Như vậy, đường nối, quan điểm về cách mạng xã hội chủ nghĩa nói chung và về vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng ở miền Bắc được Đại hội Đảng III đề ra cho tới đầu những năm của thập kỷ bảy mươi đã được bổ xung, phát triển rõ rệt, có cả những sửa đổi đáng kể: Nếu như trước đây cho rằng đã xây dựng được quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa trước khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì nay thấy rằng xây dựng quan hệ sản xuất mới là quá trình nâu dài gắn với xây dựng lực lượng sản xuất mới. Trong xây dựng kinh tế, vai trò của nông nghiệp và công nghiệp nhẹ cũng như vai trò của kinh tế địa phương cũng được côi trọng hơn. QUAN ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ CỦA NƯỚC TA GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 1975 – 1985 Sau chiến tranh mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất, cả nước cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong điều kiện đất nước chịu những đảo lộn kinh tế và xã hội với quy mô lớn sau cuộc chiến tranh ác liệt, nâu dài, tình hình thế giới có những mặt diễn biến không thuận lợi. Đây cũng là thời điểm mô hình kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp bộc lộ một cách toàn diện mặt tiêu cực của nó mà hậu quả là xuất hiện cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội sâu sắc vào cuối những năm 70 đầu những năm 80. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đánh giá tình hình đất nước từ năm 1976 đến năm 1980 là thời kỳ nền kinh tế ở trạng thái trì trệ. Tình hình trì trệ ấy có nguyên nhân khách quan: nền kinh tế đang gách chịu hậu quả hết sức nặng nề của chiến tranh nâu dài. Nhưng nguyên nhân chủ yếu làm trầm trọng thêm tình hình khó khăn về kinh tế và xã hội vẫn là mô hình kinh tế, cơ chế kinh tế không phù hợp với quy luật kinh tế khách quan. Chính những khó khăn của đất nước buộc Đảng ta phải suy nghĩ, phân tích tình hình và nguyên nhân, tìm ra các giải pháp, từ đó thực hiện đổi mới các cơ sở, địa phương, đề ra những chính sách cụ thể, có tính chất đổi mới từng phần như: Khẳng định sự cần thiết của nền kinh tế nhiều thành phần ở miền Nam một trong một thời gia nhất định, cải cách một phần hợp tác xã qua Chỉ thị về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong một hợp tác xã, cải tiến công tác kế hoạch và hoạch toán kinh tế ở các xí nghiệp quốc doanh nhằm phát huy quyền chủ động sản xuất kinh doanh và quyền tự chủ về tài chính xí nghiệp, hai lần cải cách giá lương, coi đó là khâu đột phá có tính chất quyết định để chuyển hẳn nền kinh tế sang hoạch toán kinh tế và kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thời kỳ này, nước ta đã có những quan niệm, chủ trương ban đầu đổi mới mô hình kinh tế cũ theo tư tưởng “làm cho sản xuất bung ra”, nghĩa là đổi mới hình thức quan hệ sản xuất để giải phóng lực lượng sản xuất. Đại hội Đảng lần thứ VI là cột mốc mở ra cục diện mới của nước ta trên con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đại hội lần thứ VII của Đảng mở đầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng nhận thấy phải chấn hưng thương nghiệp, công nghiệp nhỏ, sử dụng và phát triển kinh tế tư bản tư nhân trong mức đọ cần thiết, đồng thời xây dựng và củng cố thành phần kinh tế nhà nước và kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng của nền kinh tế quốc dân. Thu hút vốn đầu tư của các nước tư bản và hướng sự phát triển ấy theo con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới những hình thức và trình độ khác nhau. Tuỳ theo trình độ lực lượng sản suất đạt được trong thực tế mà xã hội hoá sản xuất dưới những hình thức phù hợp với trình độ khác nhau của lực lượng sản để mở rộng đường cho lực lượng sản xuất phát triển hơn nữa, tiến đến trình độ xã hội hoá nền kinh tế trên cơ sở chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu dưới nhũng hình thức thích hợp, từ thấp đến cao. Thực hành nhiều chế độ phân phối khác nhau tuỳ theo sự phát triển của các quan hệ sở hữu, tiến dần đến sự thống trị của chế dộ phân phối theo số lượng và chất lượng lao động. Trong cơ chế mới, kế hoạch vẫn đóng vai trò quan trọng, là công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước nhưng chủ yếu mang tính chất định hướng, hướng dẫn sự phát triển của thị trường, các tổ chức kinh doanh, sản xuất. Nền kinh tế được quản lý bằng các phương pháp kinh tế là chủ yếu, với động lực thúc đẩy là sự kết hợp hài hoà lợi ích của toàn xã hội, lợi ích của tập thể và lợi ích riêng của từng cá nhân, lợi ích nâu dài và lợi ích trước mắt… Nền kinh tế mở hội nhập với nền kinh tế thế giới trên nguyên tắc vừa hợp tác, vừa cạnh tranh và đảm bảo tính độc lập, tự chủ theo định hướng xã hội chủ nghĩa. CHƯƠNG II QUAN ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HOÁ - HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI KHÁI NIỆM VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA CNH – HĐH Khái Niệm Ở thế kỷ thứ XVII, XVIII, khi cách mạng công nghiệp tiến hành ở Tây Âu, công nghiệp hoá được biểu hiện là một quá trình thay thế lao động thủ công bằng lâo động sử dụng máy móc. Những khái niện kinh tế nói chung và khái niệm công nghiệp hoá – hiện đại hoá nói riêng mang tính lịch sử, tức là luôn có sự thay đổi cùng với sự phát triển của nền sản xuất xã hội, của khoa học công nghệ. Do đó việc nhận thức đúng đắn khái niệm này trong từng giai đoạn phát triển của nền sản xuất xã hội có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn. Kế thừa và chọn lọc những tri thức văn minh của nhân loại, rút những kinh nghiệm trong lịch sử tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá và thực tiễn công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ bảy khoá VI và Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoặt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. Tính tất yếu Chủ nghĩa tư bản đã mất hàng trăm năm thực hiện công nghiệp hoá tư bản chủ nghĩa để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản. Ngày nay, các nước đi lên chủ nghĩa xã hội dù điểm xuất phát từ trình độ nào đều phải thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá, để xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với nước ta, công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng là tất yếu khách quan vì những lý do sau đây: Do yêu cầu khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất kém phát triển, tụt hậu xa so với các nước. Do yêu cầu cải tổ cơ cấu kinh tế, hình thành cơ cấu kinh tế mới, sản xuất lớn, hợp lý, hiện đại, tạo ra các sức sản xuất mới, khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước để phát triển sản xuất, nâmg cao năng suất lao động, cải tiến đời sống nhân dân. Do yêu cầu đẩy mạnh phát triển lực lượng sản xuất để hoàn thiện quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, tạo ra sự phù hợp giữa qua hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó hình thành những quan hệ sản xuất mới về kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá, tư tưởng. Do yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhanh chóng hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới tạo điều kiện tốt để thực hiện phân công, hợp tác quốc tế. Do yêu cầu xây dựng củng cố quốc phòng, hiện đại hoá quân đội, xây dựng lực lượng quân sự mạnh có vũ khí hiện đại đủ sức bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. PHÂN TÍCH BỐI CẢNH VÀ ĐẶC ĐIỂM CNH – HĐH Do những biến đổi của nền kinh tế thế giới và điều kiện cụ thể của đất nước, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay có các đặc điểm sau: Công nghiệp hoá gắn liền với hiện đại hoá. Sở dĩ như vậy là vì trên thế giới đang diễn ra cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, một số nước phát triển đã bắt đầu chuyển từ kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, nên phải tranh thủ ứng dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tiếp cân kinh tế tri thức để hiện đại hoá những nghành, những khâu, những lĩnh vực có điều kiện nhảy vọt. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp hoá là tất yếu với tất cả các nước chậm phát triển nhưng với mỗi nước, mục tiêu và tính chất của công nghiệp hoá có thể khác nhau. Ở nước ta, công nghiêppj hoá nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, tăng cường sức mạnh để bảo vệ nền độc lập dân tộc. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước. Điều này làm cho công nghiệp hoá trong giai đoạn hiện nay khác với công nghiệp hoá trong thời kỳ trước đổi mới. Trong cơ chế quản lý kinh tế hoạch hoá tập trung – hành chính, bao cấp, công nghiệp hoá được thực hiện theo kế hoạch, theo mệnh lệnh của Nhà nước. Trong cơ chế kinh tế hiện nay, Nhà nước vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nhưng công nghiệp hoá, hiện đại hoá không xuất phát từ chủ quan của Nhà nước, nó đòi hỏi phải vận dụng những quy luật khách quan mà trước hết là các quy luật thị trường. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, các thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện quốc tế hoá, khu vực hoá, hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, phân công lao động quốc tế. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện chiến lược kinh tế mở có thể đi nhanh nếu chúng ta biết tận dụng, tranh thủ được thành tựu của thế giới và sự giưps đỡ của quốc tế. TÁC DỤNG CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ – HIỆN ĐẠI HOÁ Từ những thập niên 60 của thế kỷ XX, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trung tâm xuyên suốt thời kỳ quá độ nên chủ nghĩa xã hội. Phân tích những tá dụng cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đối với nền kinh tế đất nước hiện nay càng làm rõ ý nghĩa vai trò trung tâm của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá có nhiều tác dụng to lớn như: Tạo điều kiện thay đổi về chất nền sản xuất xã hội, tăng nămg suất lao động xã hội, tăng khả năng chinh phục và chế ngự thiên nhiên của con người, đẩy nhanh tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, nâng cao đời sống, ổn định tình hình kinh tế - chính trị - xã hội, góp phần quyết định sự thắng lợi của chủ nhĩa xã hội. Tạo cơ sở vật chất - kỹ thuật cho việc tăng cường củng cố vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng lực quản lý, khả năng tích luỹ và phát triển sản xuất, tạo nhiều việc làm, nâng cao thu nhập giúp cho sự phát triển tự do, toàn diện của con người. Tạo điều kiện cho khoa học, công nghệ phát triển nhanh, tiên tiến, hiện đại, tăng cường lực lượng vật chất – kỹ thuật cho quốc phòng vững mạnh, đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đời sống kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước. Tạo điều kiện nhanh chóng xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá, phát triển kinh tế hàng hoá, thực hiện tốt mở rộng phân công hợp tác lao động sản xuất trong nước và quốc tế, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả trên tất cả các mặt, các lĩnh vực hoặt động. CHƯƠNG III NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA CÔNG NGHIỆP HOÁ –HIỆN ĐẠI HOÁ HIỆN NAY NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CNH – HĐH Xây dựng cơ sở vật chất – cách mạng khoa học công nghệ Cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX với nội dung là cơ khí hoá sản xuất nhằm chuyển lao động thủ công sang lao động bằng máy móc. Cách mạng khoa học tiếp tục phát triển mạnh vào cuối thế XIX đầu thế kỷ XX và đã đạt được nhiều thành tựu cao về cơ khí hoá và hoá học hoá. Ngày nay, cách mạng khoa học và công nghệ phát triển cao với những đặc trưng cơ bản là: Cách mạng khoa học kỹ thuật gắn liền với cách mạng công nghệ lên gọi là cách mạng khoa học và công nghệ với những thành tựu công nghệ hiện đại làm biến đổi sâu sắc trình độ, khả năng sản xuất, số lượng và chất lượng sản phẩm. Khoa học công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp bởi thành tựu của nhiều nghành khoa học như: khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, khoa học kỹ thuật, khoa học kinh tế… đều tác động trực tiếp đến sản xuất, đến tất cả các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, du lịch, văn hoá, giáo dục, nghệ thuật, chính trị tư tưởng, thời gian phát minh khoa học và ứng dụng kỹ thuật đã rút ngắn, phạm vi ứng dụng lại rất rộng rãi. Cách mạng khoa học và công nghệ đang đưa loài người bước vào một thời đại mới, một nền văn minh mới tiến bộ: Văn minh tin học có những nội dung chủ yếu là: Tự động hoá : Sử dụng máy móc tự động, robot. Năng lượng mới: năng lượng nguyên tử, năng lượng mặt trời, tia lade… Vật liệu mới: Composit, gốm sứ, cacbuasilic… Công nghệ sinh học: sơ đồ gen, nuôi cấy tế bào.. Điện tử tin học: máy vi tính, siêu tính, viễn tin học… Nước ta đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong điều kiện sản suất nhỏ, kỹ thuật công nghệ lạc hậu, chưa có đại công nghiệp phát triển. Do đó nội dung cơ bản của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là phải tiến hành cách mạng khoa học và công nghệ để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội. Cụ thể phải thực hiện nhanh quá trình cơ khí hoá sản xuất trang thiết bị máy móc cho nền kinh tế quốc dân trên cơ sở kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Tổ chức tốt việc nghiên cứu, thu thập, phổ biến thông tin và ứng dụng những thành tựu mới nhất của khoa học – công nghệ vào sản xuất, đời sống với nhiều hình thức, bước đi quy mô và trình độ thích hợp. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta nhằm xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội phát triển lực lượng sản xuất, củng cố hoàn thiện quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa tạo ra sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ động lực sản xuất. Do vậy, việc phát triển công nghệ, khoa học cần chú ý một số diểm sau: Phải ứng dụng công nghệ mới tiên tiến, hiện đại kết hợp với công nghệ truyền thống. Sử dụng tốt công nghệ mới, tạo ra nhiều việc làm mới, tốn ít vốn, quay vòng nhanh, hiệu quả cao giữ được nghề truyền thống. Kết hợp xây dựng và phát triển cả bề rộng và bề sâu, cả xây dựng mới và cải tạo cũ, thực hành tiết kiệm. Kết hợp các loại quy mô lớn, vừa và nhỏ cho thích hợp. Ưu tiên cho quy mô vừa và nhỏ, xây dựng quy mô lớn khi có đủ điều kiện. Coi trọng hiệu quả sản xuất kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế của nền kinh tế quốc dân là tổng thể hữu cơ các mối quan hệ chủ yếu về chất lượng và số lượng tương đối ổn định của các yếu tố kinh tế, các bộ phận hợp thành của nền kinh tế, các lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong hệ thống tái sản xuất xã hội với những điều kiện kinh tế xã hội nhất định. Hệ thống cơ cấu kinh tế quốc dân bao gồm nhiều cơ cấu như: cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế, trong đó cơ cấu ngành kinh tế là quan trọng nhất. Thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế quốc dân là quá trình chuyển dịch cơ cấu từ lạc hậu, ít hiệu quả sang một cơ cấu ngày càng phù hợp với xu hướng phát triển của nền sản xuất hiện đại do sự tác động của cách mạng khoa học và công nghệ. Đó là xu hướng tỷ trọng giá trị sản phẩm công nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng, tỷ trọng giá trị sản phẩm nông nghiệp ngày càng giảm. Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, trình đọ phân công lao động còn thấp, tỷ lệ lao động nông nghiệp cao, cơ cáu kinh tế sản xuất nhỏ và phổ biến, sản xuất hang hoá chưa phát triển. Do vậy để phát triển kinh tế hàng hoá, xây dựng nền sản xuất lớn, xã hội chủ nghĩa, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý, tất yếu phải đẩy mạnh phân công lao động xã hội và phân bố dân cư trong phạm vi cả nước. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá loa động là phân chia sắp xếp lao động vào các ngành nghề, các lĩnh vực, các vùng kinh tế của nền kinh tế quốc dân nhằm tạo ra những quan hệ kinh tế mới giữa các ngành nghề, các lĩnh vực, các vùng kinh tế khác nhau. Phân bố dân cư hỗ trợ tích cực cho phân công lao động xã hội. Đó là sự điều phối, di chuyển dân cư giữa các địa phương, các ngành, các vùng kinh tế ch
Tài liệu liên quan