Đề tài Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) đối với một số giống lúa địa phương vụ Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế

Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của nước ta và nhiều nước trên thế giới, nó có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Khoảng 40 % dân số trên thế giới sống bằng lúa gạo, sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần thức ăn hằng ngày. Lúa gạo có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới, sản xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở các nước châu Á với mức tiêu dùng hàng năm khoảng 180-200 kg/người, còn châu Mỹ, châu Âu khoảng 100 kg/người [24]. Trong những năm gần đây, nước ta đã có những bước tiến vượt bậc về sản xuất lúa gạo và đã mang lại nhiều lợi ích cho người sản xuất và cho nghành lương thực phục vụ xuất khẩu nhờ vào việc sử dụng các giống lúa có năng suất cao cùng với việc thâm canh tăng vụ. Nhưng chính điều này cũng là một cơ hội cho sự bùng phát dịch hại, đặc biệt là dịch hại rầy nâu trong những vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước trong năm 2006 [25]. Nước ta có diện tích trồng lúa khá lớn và vấn đề dịch hại luôn được quan tâm đúng mức. Ở miền Trung trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế thì việc gieo cấy các giống lúa địa phương vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là ở các vùng trồng lúa có điều kiện khó khăn như vùng trung du miền núi, vùng ven biển đầm phá. Các giống lúa địa phương là một tài sản quý báu của nhân loại, bảo tồn sự đa dạng cây trồng là một nhiệm vụ cấp thiết vì lợi ích mai sau. Bên cạnh công tác bảo tồn nguồn gen quý hiếm, chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tác động các biện pháp kỹ thuật để các giống lúa địa phương luôn đạt năng suất ổn định, chất lượng tốt cũng như nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại là rất quan trọng. Đã nhiều năm nay các loài dịch hại luôn là đối tượng trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lúa, vì vậy việc nghiên cứu thành phần và diễn biến một số sâu bệnh hại chính trên các giống lúa địa phương sẽ có ý nghĩa thực tế rất lớn cho người dân trồng lúa. Trong các loài dịch hại, thì rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) là một trong những đối tượng sâu hại nghiêm trọng nhất cho lúa ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, khi chúng ta sử dụng nhiều các giống lúa cho năng suất cao và tăng cường thâm canh trong sản xuất lúa [14]. Rầy nâu nguy hiểm ở chỗ là không những trực tiếp gây hại bằng cách chích hút dịch nhựa ở thân cây làm cho cây lúa sinh trưởng và phát triển kém. Ngoài ra rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh virut vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa, làm giảm năng suất và thoái hóa giống [31]. Những giống lúa địa phương luôn có những ưu điểm nhất định mà những giống lúa khác như giống lai tạo, nhập nội và những giống đang trồng phổ biến không thể có được như về đặc tính kháng sâu bệnh, về tính phù hợp với từng điều kiện canh tác của từng địa phương, về phẩm chất gạo , vì vậy việc nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại, nghiên cứu khả năng kháng rầy nâu trên các giống lúa đó là rất quan trọng nhằm phục vụ cho sản xuất và làm vật liệu nghiên cứu tiếp theo để lai tạo ra giống lúa có khả năng kháng rầy Tuy nhiên, hiện nay ở miền Trung nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu giống địa phương như về đặc điểm nông sinh học, về tình hình sâu bệnh hại, về đặc tính chống chịu sâu bệnh nói chung và rầy nâu nói riêng khi mà hiện nay sâu bệnh và đặc biệt là rầy nâu bùng phát dữ dội và gây ra nhiều trận dịch nghiêm trọng. Xuất phát từ những vấn đề cấp bách nói trên nên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) đối với một số giống lúa địa phương vụ Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế.”

doc55 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 2583 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) đối với một số giống lúa địa phương vụ Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phần 1 MỞ ĐẦU, MỤC ĐÍCH, YÊU CẦU CỦA ĐỀ TÀI 1.1 Đặt vấn đề Cây lúa (Oryza sativa L.) là một trong những cây lương thực chính của nước ta và nhiều nước trên thế giới, nó có vai trò rất quan trọng trong sản xuất nông nghiệp. Khoảng 40 % dân số trên thế giới sống bằng lúa gạo, sử dụng lúa gạo làm nguồn lương thực chính, 25% sử dụng lúa gạo trên 1/2 khẩu phần thức ăn hằng ngày. Lúa gạo có ảnh hưởng tới ít nhất 65% dân số thế giới, sản xuất lúa gạo chủ yếu tập trung ở các nước châu Á với mức tiêu dùng hàng năm khoảng 180-200 kg/người, còn châu Mỹ, châu Âu khoảng 100 kg/người [24]. Trong những năm gần đây, nước ta đã có những bước tiến vượt bậc về sản xuất lúa gạo và đã mang lại nhiều lợi ích cho người sản xuất và cho nghành lương thực phục vụ xuất khẩu nhờ vào việc sử dụng các giống lúa có năng suất cao cùng với việc thâm canh tăng vụ. Nhưng chính điều này cũng là một cơ hội cho sự bùng phát dịch hại, đặc biệt là dịch hại rầy nâu trong những vùng sản xuất lúa trọng điểm của cả nước trong năm 2006 [25]. Nước ta có diện tích trồng lúa khá lớn và vấn đề dịch hại luôn được quan tâm đúng mức. Ở miền Trung trong đó có tỉnh Thừa Thiên Huế thì việc gieo cấy các giống lúa địa phương vẫn còn khá phổ biến, đặc biệt là ở các vùng trồng lúa có điều kiện khó khăn như vùng trung du miền núi, vùng ven biển đầm phá. Các giống lúa địa phương là một tài sản quý báu của nhân loại, bảo tồn sự đa dạng cây trồng là một nhiệm vụ cấp thiết vì lợi ích mai sau. Bên cạnh công tác bảo tồn nguồn gen quý hiếm, chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu nhằm tác động các biện pháp kỹ thuật để các giống lúa địa phương luôn đạt năng suất ổn định, chất lượng tốt cũng như nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại là rất quan trọng. Đã nhiều năm nay các loài dịch hại luôn là đối tượng trực tiếp ảnh hưởng đến năng suất lúa, vì vậy việc nghiên cứu thành phần và diễn biến một số sâu bệnh hại chính trên các giống lúa địa phương sẽ có ý nghĩa thực tế rất lớn cho người dân trồng lúa. Trong các loài dịch hại, thì rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) là một trong những đối tượng sâu hại nghiêm trọng nhất cho lúa ở Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung, khi chúng ta sử dụng nhiều các giống lúa cho năng suất cao và tăng cường thâm canh trong sản xuất lúa [14]. Rầy nâu nguy hiểm ở chỗ là không những trực tiếp gây hại bằng cách chích hút dịch nhựa ở thân cây làm cho cây lúa sinh trưởng và phát triển kém. Ngoài ra rầy nâu còn là môi giới truyền bệnh virut vàng lùn, lùn xoắn lá cho cây lúa, làm giảm năng suất và thoái hóa giống [31]. Những giống lúa địa phương luôn có những ưu điểm nhất định mà những giống lúa khác như giống lai tạo, nhập nội và những giống đang trồng phổ biến không thể có được như về đặc tính kháng sâu bệnh, về tính phù hợp với từng điều kiện canh tác của từng địa phương, về phẩm chất gạo…, vì vậy việc nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại, nghiên cứu khả năng kháng rầy nâu trên các giống lúa đó là rất quan trọng nhằm phục vụ cho sản xuất và làm vật liệu nghiên cứu tiếp theo để lai tạo ra giống lúa có khả năng kháng rầy Tuy nhiên, hiện nay ở miền Trung nói chung và tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng vẫn chưa có nhiều công trình nghiên cứu giống địa phương như về đặc điểm nông sinh học, về tình hình sâu bệnh hại, về đặc tính chống chịu sâu bệnh nói chung và rầy nâu nói riêng khi mà hiện nay sâu bệnh và đặc biệt là rầy nâu bùng phát dữ dội và gây ra nhiều trận dịch nghiêm trọng. Xuất phát từ những vấn đề cấp bách nói trên nên chúng tôi đã tiến hành thực hiện đề tài: “Nghiên cứu tình hình sâu bệnh hại và tính độc của rầy nâu (Nilarpavata lugens Stal) đối với một số giống lúa địa phương vụ Đông Xuân 2007-2008 tại Hợp tác xã Hương Long, thành phố Huế.”  1.2 Mục đích của đề tài - Xác định thành phần, mức độ phổ biến của sâu bệnh hại chính trên các giống lúa địa phương thu thập từ các tỉnh miền Trung - Đánh giá khả năng kháng rầy nâu của một số giống lúa địa phương thu thập từ các tỉnh miền Trung - Chọn ra giống lúa có khả năng kháng rầy nhằm phục vụ cho sản xuất và làm vật liệu nghiên cứu tiếp theo. 1.3 Yêu cầu: - Nắm vững diễn biến thời tiết khí hậu của tỉnh Thừa Thiên Huế trong vụ Đông Xuân 2007-2008. - Nắm rõ thành phần sâu bệnh hại và thiên địch trên cây lúa, xác định được một số sâu bệnh, thiên địch chính. - Nắm rõ đặc điểm sinh vật học, sinh thái học của rầy nâu. - Nắm được tính độc của rầy nâu đối với các giống lúa nghiên cứu. Phần 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ VỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Tình hình sản xuất lúa trên thế giới và ở Việt Nam -Trên thế giới Hiện nay cây lúa được trồng ở 113 quốc gia trên thế giới, phân bố chủ yếu ở những nước có vĩ tuyến từ 30-400 vĩ tuyến Nam đến 48-490 vĩ tuyến Bắc. Theo số lượng thống kê năm 2001, diện tích trồng lúa của thê giới đạt khoảng trên 151 triệu ha và sản lượng đạt 595,10 triệu tấn (Bảng 2.1). Năng suất lúa giữa các châu lục chênh lệch nhau khá nhiều. Năng suất cao thường tập trung ở các nước có diện tích ít như châu Âu, châu Úc. Ngoài ra năng suất còn phụ thuộc vào điều kiện khác như thời tiết khí hậu, trình độ thâm canh, điều kiện cơ sở vật chất kĩ thuật ... Bảng 2.1: Năng suất và sản lượng lúa của các châu lục qua các năm. STT Chỉ tiêu Châu 1991 2001 DT (triệu ha) NS (tạ/ ha) SL (triệu tấn) DT (triệu ha) NS (tạ/ ha) SL (triệu tấn) 1 Châu Á 130,97 36,60 474,39 136,60 39,60 542,30 2 Châu Mỹ 7,80 33,90 26,48 7,10 44,60 31,70 3 Châu Phi 6,93 20,20 14,01 7,70 21,20 16,30 4 Châu Âu 1,04 55,90 2,26 0,56 55,40 3,10 5 Châu Úc 1,42 81,70 1,16 0,19 89,50 1,70 Thế giới 148,16 45,66 518,30 152,15 50,06 595,10 (Theo: Nguồn thống kê của FAO, 2001 )[40] Diện tích trồng lúa của thế giới rất lớn, khoảng 152.15 triệu ha, nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở châu Á, chiếm khoảng 85% diện tích, và 90% sản lượng lương thực thế giới, thấp nhất là châu Đại Dương với diện tích chiếm khoảng 0,03%và 0,02% tổng sản lượng. Châu Á có diện tích trồng lúa lớn là do châu Á có những điều kiện tự nhiên thuận lợi và là cái nôi của trồng lúa nước Mặc dù sản lượng lúa của thế giới không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua nhưng năng suất và chất lượng gạo còn thấp, chưa đảm bảo được an ninh lương thực toàn cầu. Ở châu Phi có rất nhiều nước đang trong tình trạng thiếu lương thực nghiêm trọng. Bên cạnh đó những năm qua diễn biến thời tiết khí hậu có tính chất rất phức tạp như lũ lụt hạn hán .. làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, việc lựa chọn những giống lúa phù hợp với từng vùng, từng địa phương là rất quan trọng. Ngoài ra, cần chú ý tới các khâu như phân bón cân đối, phòng trừ sâu bệnh tốt, công nghệ sau thu hoạch..để tăng năng suất chất lượng cho các nước sản xuất lúa trên thế giới và đảm bảo an ninh lương thực cho toàn cầu. - Ở Việt Nam:  Việt Nam được xem là cái nôi của nền văn minh lúa nước và lúa được trồng hầu hết trên các vùng của đất nước. Ở nước ta, sản xuất lúa gạo giữ vai trò quan trọng trong nền sản xuất nông nghiệp, chiếm gần 50% GDP của nông nghiệp. Trong những năm qua, diện tích đất nông nghiệp có xu hướng giảm xuống nhưng do năng suất lúa tăng lên nên sản lượng thóc không ngừng tăng lên. Hiện nay, năng suất lúa bình quân của Việt Nam vào khoảng 48,9 tạ /ha xếp thứ hai sau Indonexia. Diện tích gieo trồng lúa Việt Nam là 7326,2 nghìn ha xếp thứ hai sau Trung Quốc [40]. Năm 2006 mặc dù dịch bệnh xảy ra trên diện rộng ở Đồng bằng Sông Cửu Long nhưng diện tích lúa cả nước vẫn cao đạt khoảng 7032 triệu ha, năng suất bình quân 48,9 tạ/ha, sản lượng đạt 35,83 triệu tấn, giảm 6,1 triệu tấn so với năm 2005. Lượng gạo xuất khẩu đạt 4,7 triệu tấn, thu về khoảng 1.3 tỷ USD cho đất nước. Năm 2007 với mục tiêu đề ra là tập trung thực hiện thâm canh đồng bộ, mở rộng diện tích ở các tỉnh miền bắc và sử dụng giống lúa chất lượng cao để tăng năng suất, nâng cao chất lượng và hiệu quả sản xuất lúa, tích cực phòng chống dịch bệnh trên cây lúa đặc biệt là rầy nâu, vàng lùn, lùn xoắn lá và trong năm qua đất nước ta đã thực hiện được những mục tiêu đã đề ra [33]. Tình hình sản xuất lúa gạo của đất nước ta trong những năm qua được thể hiện qua Bảng 2.2 như sau: Bảng 2.2: Tình hình sản xuất lúa gạo của Việt Nam trong những năm qua Chỉ tiêu Năm Diện tích (nghìn ha) Năng suất (tạ/ha) Sản lượng (nghìn tấn) 1991 6302,8 31,1 19621,9 1995 6765,6 36,9 24963,7 2000 7666,3 42,4 32529,5 2005 7339,5 49,5 36341,0 (Nguồn: http//:Faostat.fao) [40]. Trong những năm tiếp theo, nước ta sẽ bước vào thời kì phát triển mới, thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nông nghiệp vẫn là một ngành có vị trí quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, đặc biệt sản xuất lương thực thực phẩm. Định hướng phát triển nền nông nghiệp Việt Nam từ năm 2000 đến 2010 là : “Nhanh chóng xây dựng nền nông nghiệp Việt Nam theo hướng sinh thái bền vững, nông nghiệp sạch và chất lượng cao, kết hợp nông nghiệp-lâm nghiệp và công nghệ chế biến, thực hiện đa canh, đa dạng hóa sản phẩm từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và xuất khẩu đạt hiệu quả cao, nâng cao đời sống nông dân, xây dựng nông thôn mới”[19]. 2.2 Tình hình nghiên cứu lúa địa phương trên Thế giới và ở Việt Nam. 2.2.1 Tình hình nghiên cứu lúa địa phương ở trên Thế giới Để đáp ứng nhu cầu lương thực cho xã hội, trong những năm vừa qua có nhiều quốc gia đã liên tục đưa ra nhiều giống mới có năng suất cao phẩm chất tốt vào sản xuất thâm canh, điều này đã làm mất đi một lượng lớn các giống địa phương, gây ra hiện tượng xói mòn gen, đặc biệt là nguồn gen quý hiếm. Vì vậy hiện nay công tác nghiên cứu giống lúa trên thế giới luôn chú trọng theo hai hướng đó là thu thập, bảo tồn nguồn vật liệu khởi đầu và chọn tạo, khảo nghiệm các đặc tính sinh học của lúa. Đi đầu trong phong trào này là nhà di truyền học chọn giống nổi tiếng của nước nga là ông Vavilov NI và các cộng sự được bắt đầu từ năm 1924, công trình của ông đã chứng minh được sự đa dạng của nguồn gen và tầm quan trọng của nó trong công tác chọn giống. Công trình này được đánh giá là có vai trò quan trọng trong sự nghiệp nghiên cứu và bảo tồn tài nguyên di truyền thực vật của nhân loại [1]. Hiện nay trên thế giới có nhiều trung tâm, viện nghiên cứu tiếp tục thực hiện công việc thu thập và bảo tồn và đánh giá các giống lúa như: Tổ chức nông lương thế giới (FAO), Viện nghiên cứu lúa Quốc tế (IRRI) đã bắt đầu công trình thu thập bảo tồn và đánh giá các giống cổ truyền và các giống lúa dại từ năm 1962, có khoảng 90.000 giống lúa trên thế giới được tồn trữ và bảo quản ở đây [5]. Những nghiên cứu tạo giống lúa trên thế giới đều tập trung chủ yếu theo hai hướng: Nghiên cứu cải thiện phẩm chất gạo là những giống lúa thơm đặc sản có hàm lượng dinh dưỡng cao và khả năng chống chịu tốt với các điều kiện bất thuận của tự nhiên cũng như sâu bệnh hại và nghiên cứu để tăng năng suất lúa. 2.2.2 Những nghiên cứu về giống lúa địa phương ở Việt Nam Công tác thu thập bảo tồn giống lúa địa phương được xem là vật liệu khởi đầu quý giá cho công tác chọn tạo giống. Ở nước ta, công tác thu thập bảo tồn giống lúa được các nhà khoa học quan tâm từ rất sớm, nước ta đã bắt đầu chú ý đến công tác bảo tồn giống địa phương từ năm 1910. Trung tâm Thí nghiệm lúa Cần Thơ thành lập năm 1913 đã bảo tồn nhiều giống lúa cổ truyền. Và công việc này vẫn được tiếp tục bởi Bộ Nông Nghiệp tại Trung tâm Thí nghiệm lúa Long Định, Tiền Giang cho đến khi nhiệm vụ của Trung Tâm này được chấm dứt sau năm 1975 [15]. Hiện nay công tác bảo quản nguồn gen vẫn được tiếp tục, nhưng việc tồn trữ các giống lúa địa phương tại Việt Nam còn bị phân tán và rải rác tại các viện như: Viện Khoa học kĩ thuật Nông nghiệp Việt Nam, Viện Cây lương thực và Thực phẩm, Viện Lúa đồng bằng sông Cửu Long, và Trường Đại học Cần Thơ. Hiện có khoảng 6.000 giống lúa địa phương được lưu giữ tại ngân hàng gen ở Hà Nội với khoảng 167 giống nếp và 108 giống lúa Tám Thơm. Ở Trường Đại học Cần Thơ có hơn 5.000 giống lúa, trong đó có 1.552 giống lúa địa phương và 498 giống lúa rẫy thu thập tại miền Bắc và Tây Nguyên [15]. Viện lúa Đồng bằng Sông Cửu Long tồn trữ khoảng 1.836 mẫu giống, trong đó có 219 giống lúa mùa sớm, ít cảm quang và 1.617 giống lúa mùa muộn, có tính cảm quang. Viện đã dùng 134 giống địa phương trong chương trình lai tạo giống [6]. Trong thời gian từ năm 1960-1980, Viện Cây lương thực và Thực phẩm đã thu thập được hơn 3500 mẫu giống địa phương. Nhờ công tác bảo tồn giống mà hiện nay các giống lúa đặc sản vẫn còn được trồng rộng rãi ở các địa phương với chất lượng gạo rất đặc biệt như: Lúa nếp cái, nếp hoa vàng, nếp hạt to, nếp tầm xuân, nếp kỳ lân, nếp suất, nếp hạt cau, nếp hương bầu, nếp ông lão, nếp trân, lúa tám thơm, lúa nàng thơm chợ đào, lúa móng chim, nàng thơm, nếp than, nanh chồn (Bà Rịa), tàu hương, thơm sớm, thơm lùn, lúa huyết rồng (Long An). Ở miền Trung và Tây Nguyên có các giống lúa thơm nổi tiếng như lúa ngự, cúc thơm, thái thơm, nếp than, nếp trắng, bake dẻo, nếp cải hoa vàng [6]. Theo Bùi Huy Đáp (1999), việc mở rộng diện tích lúa được tưới, sử dụng những giống lúa mới thấp cây cùng với việc lạm dụng phân bón hóa học và thuốc hóa học trừ sâu bệnh, cỏ dại .. đã không những làm cho đầu vào tăng lên so với hệ thống trồng lúa cổ truyền mà còn làm cho đa dạng sinh học, đa dạng di truyền ở đồng ruộng bị phá vỡ và có tác động không tốt đến môi trường và xã hội [4]. Còn theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Quỳnh, Lưu Ngọc Trình, Nguyễn Huy Hoàng, Trần Thu Hoài, Đặng Văn Niên (2004) thì tài nguyên di truyền cây lúa ở ba vùng sinh thái phía bắc Việt Nam rất phong phú, được phân bố trên tất cả địa hình đất trồng, các loại đất canh tác và đất ruộng lúa. Nguồn gen lúa địa phương ở vùng Tây Bắc chủ yếu phân bố trên địa hình ruộng bậc thang (50%), và đồi núi (45,4%). Ở Đông Bắc cây lúa địa phương tập trung trên đất đồi núi (48,8%), và ruộng bậc thang (29,6%). Ở Đồng bằng Sông Cửu Long cây lúa chủ yếu gieo cấy trên địa hình ruộng trũng (44,4 %) [27]. Theo kết quả nghiên cứu của Nguyễn Viết Tuân và Trần Văn Minh (2002), canh tác vùng gò đồi hiện nay chủ yếu sử dụng tập trung một số giống mới, giống địa phương hầu như không còn được người dân sử dụng dẫn đến sự rủi ro trong sản xuất [35]. Từ một số nghiên cứu trên chúng ta thấy rằng việc nghiên cứu về các giống lúa địa phương được rất nhiều nhà khoa học quan tâm vì nó có tầm quan trọng rất lớn đối với nghề trồng lúa và cả trong chọn tạo giống lúa. Nó là nguồn vật liệu khởi đầu quý giá cho việc lai tạo ra các giống lúa vừa có năng suất cao, phẩm chất tốt, vừa có khả năng chống chịu sâu bệnh hại tốt và những điều kiện bất lợi khác của môi trường sống, bên cạnh đó còn góp phần giữ được đa dạng di truyền ở trên đồng ruộng lúa. 2.2.3 Đặc điểm sản xuất lúa và lúa địa phương ở Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế là một tỉnh thuộc dãi đất miền trung với số dân hơn 1,1 triệu người, hơn 75% dân số sống bằng nghề nông, diện tích đất tự nhiên khoảng 505.453,4 ha, vùng đồi núi chiếm 70% diện tích, vùng đồng bằng chiếm 10%, còn lại là vùng cát và đầm phá ven biển. Trong sản xuất nông nghiệp thì cây lúa có vị trí quan trọng trong đời sống của người dân. Việc trồng lúa đã cung cấp lương thực cho người dân và cũng đóng góp một phần không nhỏ trong sản xuất lúa gạo của Việt Nam. Tuy nhiên diện tích, sản lượng và năng suất lúa ở Thừa Thiên Huế đều thấp hơn so với trung bình của cả nước. Các vùng trồng lúa của Thừa Thiên Huế thường bị chia cắt, phân tán, manh mún, không tập trung lớn để chuyên canh, đất đai có độ phì thấp. Ngoài ra Thừa Thiên Huế có điều kiện tự nhiên khá khắc nghiệt, không thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp trong đó có sản xuất lúa nhưng nhìn chung tình hình sản xuất lúa trong 10 năm trở lại đây cũng có nhiều tiến bộ đáng kể, tình hình sản xuất lúa trong 10 năm qua được thể hiện ở Bảng 2.3: Bảng 2.3 Diện tích, năng suất và sản lượng lúa của Thừa Thiên Huế qua các năm Năm Diện tích ( 1000 ha ) Năng suất ( tạ/ ha ) Sản lượng ( 1000 tấn ) 1996 49,49 37,7 186,91 1997 50,08 39,2 196,58 1998 49,85 37,7 187,76 1999 51,04 42,3 215,97 2000 51,34 38,3 196,60 2001 51,64 39,7 204,84 2002 51,82 40,7 210,82 2003 51,68 45,6 235,75 2004 51,31 48,6 246,49 2005 50,45 46,6 235,02 2006 50,24 49,9 250,56 ( Nguồn: Số liệu thống kê tỉnh Thừa Thiên Huế năm 2006) [28]. Qua bảng số liệu trên cho ta thấy rằng trong 10 năm qua năng suất và sản lượng lúa của tỉnh TT Huế tăng lên theo từng năm, năng suất tăng từ 37,7 tạ/ ha, sản lượng từ 186,91 năm 1996 tăng lên 49,9 tạ / ha và sản lượng đạt 205,56 nghìn tấn vào năm 2006. Còn về diện tích thì năm 2006 bị thu hẹp so với những năm trước đó là do nhiều nguyên nhân như do một phần diện tích trồng lúa được chuyển sang đất nuôi trồng thủy sản và phát triển đô thị. -Thực trạng sản xuất lúa địa phương của một số huyện của tỉnh Thừa Thiên Huế Hiện nay các giống lúa nếp và lúa tẻ địa phương được bố trí gieo cấy hầu hết trên các chân đất có điều kiện canh tác khó khăn như vùng sâu trũng, đất không chủ động được tưới tiêu, đất bị nhiễm mặn...điều kiện đầu tư thâm canh chăm sóc còn nhiều hạn chế nên năng suất thấp. Bộ giống lúa địa phương được sử dụng giảm dần theo thời gian, các giống hiện đang còn gieo cấy là nếp rằn, hẻo núp, hẻo rằn, hẻo chùm, chùm dâu, nước mặn...Diện tích gieo cấy các giống lúa địa phương năm 2006 của tỉnh Thừa Thiên Huế thể hiện qua Bảng 2.4 Bảng 2.4 Diện tích gieo cấy các giống lúa địa phương năm 2006 của tỉnh Thừa Thiên Huế STT Huyện Diện tích ( ha ) Lúa nước Lúa Rẫy Lúa nếp Lúa tẻ 1 Hương Trà 500 - - 2 Quảng Điền 75 80 - 3 Phú Vang 300 40 - 4 Phú Lộc 50 30 - 5 A Lưới - - 550 6 Nam Đông - - 50 Tổng cộng 925 150 600 ( Nguồn: Phòng kĩ thuật sở Nông Nghiệp tỉnh TT Huế) [26]. 2.3 Đặc điểm chung của các giống lúa địa phương Đặc điểm chung của các giống lúa địa phương là có thời gian sinh trưởng tương đối dài, hầu hết trên 140 ngày, ít chịu phân, cao cây, khả năng chống đỗ kém, năng suất thường thấp, trung bình khoảng 30 tạ/ha. Về chất lượng, ngoài các giống lúa nếp và giống địa phương đặc sản các giống địa phương khác có dạng tròn cơm, chỉ ngon cơm khi lúa mới gặt nhưng sau một thời gian thì cứng cơm, tơi nên không được đánh giá cao. Bên cạnh đó có một số đặc điểm của lúa địa phương được đánh giá là ưu điểm như chống chịu cao với điều kiện tự nhiên như chịu phèn, chịu măn, chịu ngập úng, ít sâu bệnh, chi phí đầu tư thấp. Về phương thức canh tác lúa địa phương không được phù hợp trong điều kiện hiện nay, hầu hết diện tích đều phải áp dụng phương pháp gieo mạ để cấy trừ các giống lúa rẫy, chăm sóc khó khăn do cao cây, không thu hoạch được bằng máy,dụng cụ thu hoạch chủ yếu là dụng cụ thô. Đối với các giống lúa cạn thì theo nghiên cứu của Chu Hoàng Mậu, Nguyễn Thị Vân Anh (2005), lúa cạn có các đặc tính quý như khả năng chịu hạn tốt, cứng cây, không lốp đổ, kháng sâu bệnh cao, có thể gieo trồng ở những nơi thiếu nước. Chất lượng gạo ngon, hàm lượng protein cao, cơm dẻo, thơm phù hợp với người tiêu dùng [23]. Theo nghiên cứu của Nguyễn Minh Công, Nguyễn Thị Mong (2005), các giống lúa tẻ đặc sản Nam Bộ thường cho cơm dẻo đậm và ngon. Nhiều giống lúa còn cho cơm thơm hoặc rất thơm. Tuy nhiên các giống lúa này thuộc loại hình cao cây mềm yếu dễ bị đỗ gãy khi có gió bão hoặc bón phân đạm nhiều [2]. Các giống lúa địa phương thường chịu ảnh hưởng của chọn lọc tự nhiên nên có nhiều ưu thế trong việc chống chịu các điều kiện khó khăn cũng như dịch hại xuất hiện ở các vùng sinh thái mà chúng phát triển. Quá trình chọn lọc tự nhiên giúp cây lúa tự biến đổi cấu trúc di truyền của mình để có lợi cho sự tồn tại và phát triển của giống nòi, chính vì vậy các giống lúa địa phương được xem như là những thư viện sống cung cấp nguồn gen quý cho công tác cải tiến giống lúa. Tuy nhiên yếu tố chọn lọc của tự nhiên thường không phải là thời gian sinh trưởng, năng suất hay chất lượng gạo mà con người mong muốn nên mặc dù mang nhiều gen quý, các giống lúa địa phương luôn là đối tượng cần được cải thiện và khai thác để cho ra những giống lúa cải tiến hoàn hảo hơn [10]. 2.4 Tình hình nghiên cứu sâu bệnh hại lúa v