Vấn đề xây dựng nền đắp trên đất yếu là một đề tài được nhiều nước trên thế giới quan tâm và tiến hành nghiên cứu có hệ thống, bởi đây là một hiện tượng rất thường gặp trong quá trình xây dựng, nếu không có các biện pháp xử lý thích hợp thường dễ bị mất ổn định toàn khối dẫn đến lún sụt, sụp đổ công trình.
Ở nước ta, vấn đề xử lý đất yếu dưới nền đắp vẫn còn là một công việc mới mẽ. Cho đến nay vẫn chưa có một đánh giá mang tính toàn diện về tình hình xây dựng và khai thác nền đường đắp trên đất yếu, chưa có các đối chiếu giữa lý thuyết và thực tế thi công như độ lún, độ ổn định trượt, trồi, hay nghiên cứu về sự thay đổi các chỉ tiêu cơ lý của lớp đất yếu sau khi được xử lý,
Đối với thành phố Đà Nẵng, trước đây thường xây dựng công trình trên các vùng địa chất tốt để giảm bớt những vấn đề kỹ thuật phải xử lý và hạ giá thành xây dựng. Hiện nay, theo Quy hoạch tổng thể thành phố Đà Nẵng, không gian đô thị của thành phố sẽ được phát triển theo hướng Tây - Tây Bắc dọc theo sông Cu Đê đến Trường Định và hướng Tây - Tây Nam theo quốc lộ 1A và 14B về phía các xã Hòa Thọ, Hòa Phát Nhìn chung, đây là những khu vực có địa chất khá phức tạp, nhiều khu vực có địa tầng là lớp đất mềm yếu, cường độ chịu tải không cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ổn định công trình hạ tầng xây dựng bên trên.
Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công trình khi đưa vào khai thác, sử dụng, một vấn đề luôn được quan tâm, đặt lên hàng đầu chính là sự ổn định của nền móng công trình.
Cho đến nay, việc xử lý đất yếu cho các công trình xây dựng san nền, kênh, đê đập, đường giao thông có dạng nền đắp thường áp dụng theo Quy trình khảo sát, thiết kế nền đường ôtô đắp trên đất yếu 22TCN 262-2000 hoặc Tiêu chuẩn thiết kế nền các công trình thủy công TCVN 4253-1986. Tuy nhiên, trong quá trình các đơn vị Tư vấn thiết kế vận dụng Tiêu chuẩn và Quy trình trên để thực hiện, mặc dù đã đạt được một số những yêu cầu nhất định, vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải trao đổi, rút kinh nghiệm trong các trường hợp xử lý đất yếu sẽ gặp về sau.
Hiện nay, có rất nhiều khu vực có địa chất yếu (ao hồ, đầm lầy, ven sông, biển, ) đang được quy hoạch thành những khu đô thị mới như khu vịnh Mân Quang, khu Cẩm Lệ, Hòa Xuân, Hòa Châu, Ngũ Hành Sơn, Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho việc tiếp tục khai thác những khu vực có địa chất yếu trong việc xây dựng các công trình hạ tầng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đồng thời sẽ giúp cho các cơ quan QLNN có những định hướng cho công tác quản lý, khai thác các công trình được xây dựng trên nền đất yếu.
19 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nghiên cứu và lựa chọn các giải pháp hợp lý xử lý đất yếu dưới nền đắp trong điều kiện địa chất thành phố Đà Nẵng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NGHIÊN CỨU VÀ LỰA CHỌN CÁC GIẢI PHÁP HỢP LÝ
XỬ LÝ ĐẤT YẾU DƯỚI NỀN ĐẮP TRONG ĐIỀU KIỆN ĐỊA CHẤT THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
Chủ nhiệm đề tài: ThS. BÙI HỒNG TRUNG
Cơ quan chủ trì: Sở Giao thông vận tải thành phố Đà Nẵng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
Vấn đề xây dựng nền đắp trên đất yếu là một đề tài được nhiều nước trên thế giới quan tâm và tiến hành nghiên cứu có hệ thống, bởi đây là một hiện tượng rất thường gặp trong quá trình xây dựng, nếu không có các biện pháp xử lý thích hợp thường dễ bị mất ổn định toàn khối dẫn đến lún sụt, sụp đổ công trình.
Ở nước ta, vấn đề xử lý đất yếu dưới nền đắp vẫn còn là một công việc mới mẽ. Cho đến nay vẫn chưa có một đánh giá mang tính toàn diện về tình hình xây dựng và khai thác nền đường đắp trên đất yếu, chưa có các đối chiếu giữa lý thuyết và thực tế thi công như độ lún, độ ổn định trượt, trồi, … hay nghiên cứu về sự thay đổi các chỉ tiêu cơ lý của lớp đất yếu sau khi được xử lý,…
Đối với thành phố Đà Nẵng, trước đây thường xây dựng công trình trên các vùng địa chất tốt để giảm bớt những vấn đề kỹ thuật phải xử lý và hạ giá thành xây dựng. Hiện nay, theo Quy hoạch tổng thể thành phố Đà Nẵng, không gian đô thị của thành phố sẽ được phát triển theo hướng Tây - Tây Bắc dọc theo sông Cu Đê đến Trường Định và hướng Tây - Tây Nam theo quốc lộ 1A và 14B về phía các xã Hòa Thọ, Hòa Phát… Nhìn chung, đây là những khu vực có địa chất khá phức tạp, nhiều khu vực có địa tầng là lớp đất mềm yếu, cường độ chịu tải không cao sẽ ảnh hưởng rất lớn đến ổn định công trình hạ tầng xây dựng bên trên.
Để đảm bảo chất lượng, hiệu quả của công trình khi đưa vào khai thác, sử dụng, một vấn đề luôn được quan tâm, đặt lên hàng đầu chính là sự ổn định của nền móng công trình.
Cho đến nay, việc xử lý đất yếu cho các công trình xây dựng san nền, kênh, đê đập, đường giao thông có dạng nền đắp thường áp dụng theo Quy trình khảo sát, thiết kế nền đường ôtô đắp trên đất yếu 22TCN 262-2000 hoặc Tiêu chuẩn thiết kế nền các công trình thủy công TCVN 4253-1986. Tuy nhiên, trong quá trình các đơn vị Tư vấn thiết kế vận dụng Tiêu chuẩn và Quy trình trên để thực hiện, mặc dù đã đạt được một số những yêu cầu nhất định, vẫn còn tồn tại những vấn đề cần phải trao đổi, rút kinh nghiệm trong các trường hợp xử lý đất yếu sẽ gặp về sau.
Hiện nay, có rất nhiều khu vực có địa chất yếu (ao hồ, đầm lầy, ven sông, biển,…) đang được quy hoạch thành những khu đô thị mới như khu vịnh Mân Quang, khu Cẩm Lệ, Hòa Xuân, Hòa Châu, Ngũ Hành Sơn,… Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ là cơ sở cho việc tiếp tục khai thác những khu vực có địa chất yếu trong việc xây dựng các công trình hạ tầng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng đồng thời sẽ giúp cho các cơ quan QLNN có những định hướng cho công tác quản lý, khai thác các công trình được xây dựng trên nền đất yếu.
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU:
- Rà soát lại các giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp để lựa chọn giải pháp phù hợp nhất với điều kiện khu vực, có những hiệu chỉnh thích đáng đối với biện pháp xử lý;
- Đề xuất phương án xử lý ổn định nền đắp trên đất yếu đảm bảo an toàn, hiệu quả nhất ứng với mỗi loại địa tầng, sẽ góp phần nhanh chóng lựa chọn phương án xử lý hợp lý, cũng đồng nghĩa với việc rút ngắn được quá trình chuẩn bị đầu tư cho một dự án đầu tư xây dựng.
III. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:
a) Thu thập tài liệu về địa chất đất yếu và các giải pháp xử lý khu vực thành phố Đà Nẵng.
b) Đánh giá tình hình địa chất đất yếu và các giải pháp xử lý đã áp dụng khu vực thành phố Đà Nẵng: Dựa trên các số liệu điều tra, thu thập về địa chất và địa chất công trình; về các giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp đã và đang áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, cũng như các khái niệm, quy định về loại đất yếu nhằm giúp cho các cơ quan QLNN, các tổ chức tư vấn thiết kế có cơ sở ban đầu trong việc:
- Sơ bộ dự lường khả năng ổn định của công trình dạng nền đắp khi lập dự án đầu tư xây dựng, định hướng mật độ và chiều sâu lỗ khoan địa chất công trình khi lập đề cương khảo sát địa chất ở giai đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi.
- Dự kiến khả năng và quy mô của giải pháp xử lý, tính toán sơ bộ kết cấu cũng như kinh phí khái toán cho phần nền móng công trình ở bước lập báo cáo quy mô đầu tư.
c) Nghiên cứu và đề xuất giải pháp công nghệ xử lý đất yếu dưới nền đắp khu vực thành phố Đà Nẵng.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
- Phương pháp thống kê: Thực hiện thống kê, tổng hợp tài liệu khảo sát địa chất công trình, phương pháp xử lý đất yếu của những công trình dạng nền đắp đã xây dựng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Phương pháp thực nghiệm: Tổ chức triển khai khoan kiểm tra đối chứng đánh giá các chỉ tiêu cơ lý của đất yếu sau khi xử lý bằng các phương án khác nhau.
- Phương pháp tổng hợp: Căn cứ vào kết quả của phương pháp thống kê, phương pháp phân tích, tổng hợp các số liệu, kết hợp với kiến thức khoa học, quy trình, quy phạm để đánh giá tổng kết về địa chất yếu thành phố cũng như các giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp hiện nay.
V. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU:
1. Đánh giá chung về tài liệu địa chất thu thập:
Trong quá trình thực hiện đề tài, nhóm nghiên cứu đã tìm hiểu, thu thập được khoảng hơn 300 tập hồ sơ tài liệu địa chất của các công trình, hạng mục công trình xây dựng do 25 đơn vị làm chủ đầu tư, điều hành khác nhau. Sai khi rà soát, sàng lọc, số tài liệu địa chất khu vực có địa chất yếu thu thập được tổng cộng là 91 loại hồ sơ khác nhau của 51 hạng mục công trình có dạng nền đắp (nền đường, san nền, bờ kênh mương) đã hoặc đang triển khai xây dựng. Trong đó:
+ Tổng số lỗ khoan địa chất thu thập được là: 637 lỗ khoan.
+ Tổng chiều dài lỗ khoan địa chất là: 4.916,34 m.
+ Tổng số lỗ khoan gặp đất yếu: 482 lỗ khoan.
+ Số lượng mẫu đất yếu thí nghiệm là: 3.336 mẫu.
Các công trình hay hạng mục công trình này nằm rải rác khắp các khu vực của Thành phố Đà Nẵng, bao gồm địa bàn các quận Hải Châu (15), Sơn Trà (05), Cẩm Lệ (04), Thanh Khê (05), Liên Chiểu (11), Ngũ Hành Sơn (04) và huyện Hòa Vang.
Số liệu địa chất khu vực Cẩm Lệ và quận Ngũ Hành Sơn chưa thu thập được nhiều do hiện nay số lượng công trình triển khai ở khu vực này còn ít, chủ yếu tập trung ở khu vực có địa hình khá cao, địa chất tốt. Ngoài ra, số liệu địa chất thuộc phạm vi khu vực Hòa Vang cũng còn ít nếu so với diện tích của khu vực này. Đây là hạn chế cần nghiên cứu bổ sung kịp thời bằng các đề tài chuyên sâu hơn về phân vùng địa chất trong thời gian đến.
Một số công trình số liệu địa chất chỉ được thu thập thông qua thuyết minh thiết kế mà không có số liệu cụ thể như: Khu Tái định cư Hòa Liên, Tuyến mương thoát nước từ cầu Đò Xu ra bờ sông Cẩm Lệ giai đoạn thiết kế điều chỉnh, đường Bạch Đằng Đông nối dài, đường nối Nam hầm Hải Vân đến Túy Loan giai đoạn báo cáo nghiên cứu khả thi giai đoạn 2… Các số liệu này không đưa vào báo cáo tổng hợp mà chỉ làm cơ sở trong việc khoanh vùng địa chất đất yếu.
* Tài liệu hồ sơ thiết kế liên quan đến các giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp:
Đã thu thập được tổng cộng 32 tập hồ sơ tài liệu thiết kế xử lý đất yếu dưới đất đắp của 32 công trình do 12 đơn vị làm chủ đầu tư, điều hành khác nhau. Các công trình nền đắp trên đất yếu nằm rải rác khắp các khu vực của thành phố Đà Nẵng, bao gồm địa bàn các quận Hải Châu, Sơn Trà, Cẩm Lệ, Thanh Khê, Liên Chiểu và huyện Hòa Vang.
Các giải pháp xử lý đất yếu, nâng cao cường độ và đảm bảo ổn định nền đường thường được áp dụng trên địa bàn thành phố Đà Nẵng hiện nay:
+ Đào bỏ một phần hay toàn bộ đất yếu, thay thế bằng lớp đệm cát;
+ Sử dụng đường thấm thẳng đứng bằng bấc thấm hoặc giếng cát, và cọc cát;
+ Đắp bệ phản áp hoặc giảm độ dốc mái taluy;
+ Gia tải tạm thời nền đường;
+ Tăng cường bằng vật liệu địa kỹ thuật (trải vải địa kỹ thuật);
Một số công trình đã thu thập được hồ sơ địa chất là đất yếu nhưng không phải là công trình nền đắp, được xử lý chủ yếu bằng giải pháp đóng cọc tre gia cố hoặc xử lý bằng móng cọc BTCT nên không được xét đến trong chuyên đề này.
Ngoài ra nhóm nghiên cứu cũng đã thu thập được một số tài liệu xử lý đất yếu của các công trình đang hoặc đã triển khai thi công cần có điều chỉnh để phù hợp hơn. Các công trình đó là:
+ Biên bản xử lý công trình đường ven sông Tuyên Sơn - Túy Loan, đường nối KCN đóng tàu - KCN dịch vụ thủy sản.
+ Công văn đề xuất giải pháp xử lý đất yếu của Sở GTCC đối với một số công trình trên địa bàn thành phố Đà Nẵng như: phạm vi chống lấn với đất san nền đường nối cầu Tuyên Sơn - đường Nguyễn Tri Phương nối dài, đường đầu cầu Quá Giáng Quốc lộ 1A, đường số 5 KCN Hòa Khánh.
+ Báo cáo của Chủ đầu tư về một số hiện tượng lún nền đường của công trình đường ĐT605, đường số 5 KCN Hòa Khánh, hiện tượng trượt trồi đoạn Km1+700-Km2 đường tránh nối Nam hầm Hải Vân - Túy Loan.
Công tác thu thập số liệu đóng vai trò quan trọng trong việc thành lập sơ đồ phân vùng đất yếu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng như đề xuất giải pháp xử lý các khu vực đất yếu hợp lý phù hợp với địa bàn thành phố Đà Nẵng. Tuy nhiên do các công trình chủ yếu được khai theo các hướng phát triển hạ tầng của thành phố, nên có những khu vực có lượng số liệu thu thập nhiều nhưng cũng có khu vực ít hoặc chưa có nguồn số liệu nào như khu vực phía Nam và Đông Nam thành phố Đà Nẵng. Đồng thời, do nhiều công trình đã có sự điều chỉnh giải pháp xử lý cho phù hợp với điều kiện thực tế trong quá trình triển khai. Chính điều này sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ chính xác trong việc xây dựng sơ đồ phân vùng đất yếu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng cũng như đánh giá tính hợp lý của giải pháp thiết kế.
Các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền nên có một quy định thống nhất một biểu mẫu cần thực hiện trong quá trình thu thập số liệu địa chất đồng thời phải xây dựng một quy chế quản lý tài liệu địa chất các công trình xây dựng trên địa bàn (có thể giao cho Sở Tài nguyên - Môi trường chủ trì) nhằm thuận lợi cho việc tổng hợp để phân tích đánh giá địa chất khu vực Thành phố, phục vụ cho công tác xây dựng đầu tư cơ sở hạ tầng.
+ Đề tài cũng đã đưa ra các kiến nghị cho các chỉ tiêu thí nghiệm cần thiết cho đất yếu cần phải được thực hiện, bao gồm: Các chỉ tiêu thí nghiệm đất ở trong phòng thí nghiệm để xác định các đặc trưng địa kỹ thuật của đất yếu; Các chỉ tiêu thí nghiệm hiện trường.
Trong trường hợp có điều kiện về thiết bị, tùy vào điều kiện địa chất, nhóm nghiên cứu đề tài kiến nghị bổ sung: Thí nghiệm xuyên tĩnh, hoặc thí nghiệm cắt cánh tại hiện trường. Các thí nghiệm tại hiện trường có ưu điểm là không làm phá hoại kết cấu của đất khi lấy mẫu, khi vận chuyển và chuẩn bị thí nghiệm nên sẽ tăng độ chính xác đồng thời các thiết bị thí nghiệm cũng tương đối đơn giản.
Ngoài ra, mặc dù số liệu địa chất hiện nay thu thập đã khá nhiều, kiến nghị công tác điều tra thu thập số liệu địa chất cần tiếp tục triển khai đến khi hoàn thành đề tài, trong đó lưu ý đến một số dự án đang được UBND Thành phố đồng ý chủ trương đầu tư xây dựng như: Dự án hạ tầng ưu tiên, đường Bạch Đằng nối dài, Khu ven sông từ đường Đống Đa đến cầu Thuận Phước, đường Trần Hưng Đạo nối dài, đường ĐT 602, công viên Đông Nam Tượng Đài, Khu phức hợp phường Bình Hiên,…
2. Đánh giá về tình hình đất yếu khu vực thành phố Đà Nẵng:
* Các dạng loại đất yếu:
Trên cơ sở các tài liệu địa chất thu thập được, các loại địa chất đất yếu ở địa bàn thành phố Đà Nẵng bao gồm 05 dạng loại sau:
a) Sét pha cát ở trạng thái dẻo mềm đến dẻo chảy:
- Số lượng hồ sơ khảo sát địa chất thu thập được: Bắt gặp ở hầu hết các lỗ khoan của công trình có đất yếu. Tổng cộng có 27 công trình có địa chất là loại đất này.
- Số lượng mẫu đất thu thập được số liệu: 190 mẫu.
b) Bùn, bùn sét pha:
- Số lượng hồ sơ khảo sát địa chất thu thập được: Tổng cộng có 23 công trình có địa chất là loại đất này.
- Số lượng mẫu đất thu thập được số liệu: 103 mẫu.
c) Cát pha sét ở trạng thái chảy:
- Số lượng hồ sơ khảo sát địa chất thu thập được: Tổng cộng có 14 công trình có địa chất là loại đất này.
- Số lượng mẫu đất thu thập được số liệu: 78 mẫu.
d) Cát hạt mịn, bụi ở trạng thái bão hòa, lẫn hữu cơ:
- Số lượng hồ sơ khảo sát địa chất thu thập được: Tổng cộng có 23 công trình có địa chất là loại đất này.
- Số lượng mẫu đất thu thập được số liệu: 104 mẫu.
e) Sét ở trạng thái dẻo mềm:
- Số lượng hồ sơ khảo sát địa chất thu thập được: Tổng cộng có 07 công trình có địa chất là loại đất này.
- Số lượng mẫu đất thu thập được số liệu: 25 mẫu.
* Phân bố của các lớp đất yếu:
Qua hồ sơ địa chất các công trình đã và đang triển khai trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thu thập được đồng thời tham khảo các tài liệu địa chất khu vực nhận thấy địa hình khu vực nghiên cứu có các dạng sau: địa hình bóc mòn tổng hợp, địa hình tích tụ do hỗn hợp sông - biển, địa hình tích tụ do hỗn hợp biển đầm lầy, địa hình tích tụ do biển, địa hình tái tích tụ do gió. Với sự đa dạng của các dạng địa hình như vậy thì cấu trúc địa chất khu vực cũng khá đa dạng về nguồn gốc cũng như loại đất đá cấu tạo nên bề mặt địa hình. Đặc biệt với sự xuất hiện của các lớp đất yếu có thành phần khác nhau như sét, sét pha, cát pha, bùn sét pha, bùn cát pha chứa hữu cơ, cát mịn bão hòa có trạng thái từ chảy đến dẻo mềm,… trong đó chủ yếu là loại sét pha dẻo mềm, các loại bùn hầu hết chỉ phân bố trên tầng mặt hoặc đôi chỗ nằm bên dưới lớp cát mỏng.
Có thể nhận thấy sự đa dạng các yếu tố địa hình khu vực có ảnh hưởng rất lớn đến phân bố cả lớp đất yếu. Trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, thông thường các khu vực có địa chất đất yếu thường nằm ở các vị trí ruộng trũng, đầm lầy ao hồ, bãi bồi ven sông, vịnh biển. Cụ thể, đất yếu đã phân bố trải rộng ở các địa bàn sau đây:
- Quận Hải Châu: Tập trung ở khu vực Tây Nam Hòa Cường, lân cận các hồ ở trung tâm thành phố như: hồ Thạc Gián, đầm Rong, đường Bạch Đằng và khu vực Tuyên Sơn ở ven bờ Tây sông Hàn.
- Quận Ngũ Hành Sơn: Chủ yếu là ở các vùng dọc theo lưu vực sông Vĩnh Điện.
- Quân Sơn Trà: Tập trung nhiều ở khu vực Vịnh Mân Quang, đường Trần Hưng Đạo (dọc theo bờ Đông sông Hàn).
- Quận Liên Chiểu: Tập trung chủ yếu là ở các khu đầm lầy, ao hồ khu đô thị mới Tây Bắc, khu vực KCN Hòa Khánh mở rộng và dọc sông Cu Đê.
- Quận Thanh Khê: Khu vực khu dân cư Thạc Gián - Vĩnh Trung, khu vực sông Phú Lộc.
- Quận Cẩm Lệ: Khu vực phường Khuê Trung, phường Hòa Xuân, Hòa Thọ, ven sông Cẩm Lệ.
- Huyện Hòa Vang: Các khu vực xã Hòa Châu, Hòa Phước, Hòa Tiến, Hòa Nhơn, dọc hai bên hạ lưu sông Yên.
Tùy theo cao trình xuất hiện lớp đất yếu, có thể phân chia khu vực đất yếu thành 02 loại:
- Loại phân bố trên bề mặt tự nhiên (không xét đến lớp đất đắp phủ, đất trồng mùn hữu cơ,…): Loại này phân bổ dọc theo các thung lũng hẹp của các sông, suối, hồ, đầm lầy những nơi có địa hình trũng thấp như lưu vực các sông Yên, sông túy Loan, Vĩnh Điện (sông Cái), sông Cu Đê, sông Phú Lộc, phạm vi các hồ Bàu Tràm, Đầm Rong, Bàu Sấu. Diện phân bố của loại này thường không rộng, kéo dài theo hướng dòng chảy. Địa chất khu vực này thường có mặt các lớp bùn sét pha lẫn hữu có, sét pha, cát pha ở trạng thái dẻo chảy của địa tầng mbQII và amQI3. Chiều dày địa chất đất yếu loại này thường từ 4m đến trên 10m nhưng không quá 20m.
- Loại phân bố dưới sâu: Loại này thường nhiều loại địa chất xen kẽ lẫn nhau rất phức tạp, phân bố ven thung lũng của các sông cách bờ sông hiện trạng từ 2-5km, sát nên gồm nhiều trầm tích có nguồn gốc hỗn hợp, không phản ánh rõ quy luật phân bố. Tại những khu vực này, đất yếu thường gặp là bùn sét pha, sét pha, sét ở trạng thái dẻo mềm, dẻo chảy kẹp với các lớp đất dính, chiều dày trung bình từ 3m - 5m.
* Tổng hợp các chỉ tiêu cơ lý đất yếu trong khu vực:
Đất yếu phân bố ở khu vực thành phố Đà Nẵng có thể được chia thành ba nhóm chính sau:
- Đất set, sét pha, cát pha dẻo mềm đến chảy.
- Đất bùn sét, bùn sét pha, bùn cát pha trạng thái dẻo mềm đến chảy.
- Đất cát mịn, cát bụi trạng thái dẻo đến chảy.
Nói chung, đất mềm dính (sét, sét pha cát, cát pha sét) thường đặc trưng bằng hệ số rỗng, độ sệt, hệ số nén lún, hệ số thấm tương đối thấp. Ngược lại, khối lượng tự nhiên, khối thể tích lượng thể tích khô, góc ma sát trong, lực dính kết, sức chịu tải, mô đun biến dạng… tương đối cao. Nếu như thành tạo trầm tích loại sét, sét pha, thuộc nhóm đất mềm dính có các đặc trưng cơ lý biến đổi có quy luật nói trên thì bùn sét, bùn sét pha cát, bùn cát pha, than bùn của nhóm đất có thành phần, trạng thái, tính chất đặc biệt ở độ sâu lớn hơn lại có những tính chất cơ lý biến đổi theo quy luật ngược lại. Một điểm đáng lưu ý nữa là trong loại đất này thường có một lượng vật chất hữu cơ cao. Do đó, bùn sét, bùn sét pha thường có giới hạn chảy và giới hạn dẻo cao hơn so với các giới hạn đó của đất loại sét, sét pha. Tuy vậy, chỉ số dẻo lại không khác nhau là mấy giữa hai loại đất này. Mặt khác ở bùn sét, bùn sét pha các loại có hệ số rỗng lớn nhưng hệ số thấm gần như tương đương với giá trị hệ số thấm của đất loại sét, sét pha các loại.
Trình tự độ nén chặt cao hơn của đất loại đất sét, sét pha cát, cát pha sét nằm trên so với thành tạo đất bùn, bùn sét pha, bùn cát pha, than bùn nằm bên dưới cũng quan sát thấy rõ. Trong điều kiện địa hình cao, mực nước ngầm nằm sâu, khả năng thoát nước từ trong ra thuận lợi… thì tại những nơi phân bố bùn cát pha, cát pha, sét pha có các chỉ tiêu cơ lý không khác nhau là mấy so với giá trị tương ứng của các loại đất sét, sét pha có cùng thành phần thạch học.
Do vậy, để đạt đến khả năng phù hợp với mọi tính năng xây dựng công trình thì cần phải có biện pháp xử lý nền đất yếu cho phù hợp đồng thời phải có thời gian quan trắc xem xét từng phương pháp xử lý để đi đến thống nhất các giải pháp hợp lý ứng với từng loại đất yếu khác nhau.
* Phân vùng địa chất đất yếu trên địa bàn thành phố Đà Nẵng:
Đề tài đã sơ họa phân vùng đất yếu phân chia khu vực thành phố Đà Nẵng ra các khu vực có đặc điểm tương đồng về loại đất yếu. Nguyên tắc phân chia dựa trên sự đồng nhất của đơn vị địa mạo theo nguyên tắc nguồn gốc hình thái (vùng địa chất) cũng như sự đồng nhất về thạch học, và trật tự cấu trúc của các phức hệ thạch học (khu địa chất) và các số liệu thu thập được từ các lỗ khoan địa chất.
Trên cơ sở các hồ sơ địa chất đã thu thập được, bản đồ địa hình tỷ lệ 1:25000 của thành phố Đà Nẵng và bản đồ quy hoạch tổng thể thành phố Đà Nẵng đến năm 2010 tỷ lệ 1:10000, tiến hành đánh dấu các vị trí lỗ khoan trên bản đồ rồi xác định địa chất đặc trưng của từng khu vực. Tên của từng khu vực được xác định dựa trên tên của nguồn gốc tạo thành lớp đất đó. Ranh giới giữa các khu vực chỉ mang tính chất tương đối.
Trên cơ sở bản đồ sơ họa phân khu địa chất công trình, các nhà quy hoạch thiết kế nắm được tổng quát điều kiện địa chất chung của khu vực, qua đó chọn giải pháp thích hợp cho việc khảo sát, thiết kế và xây dựng các công trình cụ thể trong khu vực. Tuy nhiên khi dự kiến xây dựng các công trình mới cần tiến hành công tác khảo sát đầy đủ đến độ sâu cần thiết cho từng loại công trình.
3. Các giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp khu vực thành phố Đà Nẵng:
+ Đề tài đã đưa ra: Các yêu cầu khi thiết kế nền đắp trên đất yếu; Các trình tự để tiến hành lựa chọn một giải pháp xử lý; Một số giải pháp xử lý đất yếu dưới nền đắp thường nghiên cứu áp dụng trên thế giới và ở Việt Nam.
+ Đề tài cũng đã đưa ra một số vấn đề liên quan đến thiết kế xử lý đất yếu dưới nền đắp ở khu vực thành phố Đà Nẵng.
+ Một số nhận xét đánh giá về các giải pháp xử lý đất yếu áp dụng trên địa bàn Đà Nẵng: Những khu vực đất yếu trong phạm vi thành phố Đà Nẵng nhìn chung tập trung ở các bãi sông, biển và có nguồn gốc trầm tích sông, sông biển và trầm tích biển, đầm lầy. Đối với những khu vực này, đã có nhiều giải pháp xử lý tăng cường ổn định nền đường và tăng thời gian lún của nền đắp trên đất yếu khác nhau của nhiều đơn vị Tư vấn thiết kế. Các giải pháp sau đây thường được sử dụng: Gia tải tạm thời, đắp bệ phản áp, cắm bấc thấm, cọc cát, giếng cát đào bỏ một phần hay toàn bộ đất yếu thay bằng lớp đệm cát, sử dụng vải địa kỹ thuật, kết hợp đồng thời hai hay nhiều giải pháp đã nêu. Thông qua các tài liệu xử lý đất yếu các công trình nền đắp được triển khai trên địa bàn thành phố, đề