Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay, vấn đề phát triển thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chũ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo là mục tiêu hết sức quan trọng, các doanh nghiệp Nhà nước đã có những đóng góp tích cực và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tế cho thấy, qua gần 17 năm phát triển kinh tế theo đườn lối này, nền kinh tế thị trường nước ta đã bước đầu thu được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nền kinh tế của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách, bên cạnh đó, trong những năm qua, chất lượng và hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước còn thấp và việc đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước đã được triển khai thực hiện ở nước ta trên 10 năm. Thực chất của quá trình này là sự sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm là tiến trình cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, phát triển.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẽ nhưng thật sự cần thiết. Thông qua việc tìm hiểu nội dung của chính sách cổ phần hóa và các vấn đề liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn và hạn chế của cổ phần hóa, từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
24 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1279 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Trong công cuộc đổi mới của Đảng và Nhà nước hiện nay, vấn đề phát triển thị trường có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế theo định hướng xã hội chũ nghĩa, trong đó kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo là mục tiêu hết sức quan trọng, các doanh nghiệp Nhà nước đã có những đóng góp tích cực và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Thực tế cho thấy, qua gần 17 năm phát triển kinh tế theo đườn lối này, nền kinh tế thị trường nước ta đã bước đầu thu được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ. Tuy nhiên, nền kinh tế của chúng ta vẫn còn là một nền kinh tế thị trường ở dạng sơ khai và trước mắt còn phải đối mặt với rất nhiều khó khăn và thử thách, bên cạnh đó, trong những năm qua, chất lượng và hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước còn thấp và việc đổi mới hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước đã được triển khai thực hiện ở nước ta trên 10 năm. Thực chất của quá trình này là sự sắp xếp lại các doanh nghiệp nhà nước, trong đó trọng tâm là tiến trình cổ phần hóa nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong quá trình hội nhập, phát triển.
Chính vì vậy việc nghiên cứu về cổ phần hóa trong thời điểm hiện nay tuy không phải là mới mẽ nhưng thật sự cần thiết. Thông qua việc tìm hiểu nội dung của chính sách cổ phần hóa và các vấn đề liên quan, chúng ta sẽ có những đánh giá khách quan hơn về hiệu quả cũng như những khó khăn và hạn chế của cổ phần hóa, từ đó có thể đưa ra một số giải pháp nhằm tháo gỡ những hạn chế đó.
PHẦN NỘI DUNG
Phần A: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC (DNNN)
A.1. Quan niệm về cổ phần hóa DNNN.
Chúng ta có thể hiểu, cổ phần hoá là việc chuyển đổi các loại hình doanh nghiệp không phải công ty cổ phần sang hoạt động theo quy chế của công ty cổ phần.
Từ quan niệm trên, kết hợp với điều kiện cụ thể ở nước ta, có thể đưa ra khái niệm cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển doanh nghiệp mà chủ sở hữu là Nhà nước (doanh nghiệp đơn sở hữu) thành công ty cổ phần (doanh nghiệp đa sở hữu) , chuyển doanh nghiệp từ chỗ hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước sang hoạt động theo các quy định về công ty cổ phần trong Luật Doanh nghiệp.
Từ nghị quyết của Hội nghị lần thứ 2 Ban chấp hành TW Đảng khoá VII(6/1992), tiếp theo đó là quyết định số 202/CT(6/1992) của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ), rồi tới các nghị định số 28/CP(7/5/1996), 25/CP(23/7/1997) và nghị định 44/CP(29/6/1998), cổ phần hoá luôn được Đảng và Nhà nước xác định là việc chuyển các DNNN thành các Công ty cổ phần nhằm thực hiện các mục tiêu:
Chuyển một phần sở hữu Nhà nước sang sở hữu hỗn hợp.
- Huy động vốn của toàn xã hội.
- Tạo điều kiện để người lao động trở thành người chủ thực sự trong doanh nghiệp
- Thay đổi phương thức quản lý trong doanh nghiệp
Như vậy có thể thấy so với các nước đã và đang tiến hành CPH trên thế giới, ở nước ta, chủ trương CPH DNNN lại xuất phát từ đường lối kinh tế và đặc điểm kinh tế xã hội trong giai đoạn hiện nay: chúng ta đang bố trí lại cơ cấu kinh tế và chuyển đổi cơ chế quản lý cho phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản của Nhà nước. Đó là đặc điểm lớn nhất chi phối, quyết định mục đích nội dung và phương thức CPH DNNN. Vì vậy về thực chất CPH ở nước ta là nhằm sắp xếp lại DNNN cho hợp lý và hiệu quả, còn việc chuyển đổi sở hữu của Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông trong công ty cổ phần chỉ là một trong những phương tiện quan trọng để thực hiện mục đích trên.
A.2. Nội dung cổ phần hóa.
Với mục tiêu như trên, tiến trình CPH đã dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng, Chính phủ và các ban ngành, chính quyền địa phương. Trong suốt gần 10 năm thực hiện, nhiều văn bản pháp qui quy định chi tiết nội dung cổ phần hoá DNNN đã được ban hành nhằm đưa công tác CPH phù hợp với từng giai đoạn. Đặc biệt Nghị định 44/CP(29/6/1998) của Chính phủ quy định chi tiết nội dung CPH bao gồm: đối tượng cổ phần hoá, hình thức cổ phần hoá, Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam xác định giá trị doanh nghiệp, đối tượng mua cổ phần và phân tích đánh giá thực trạng doanh nghiệp.
A.2.1. Đối tượng cổ phần hóa:
- Công ty nhà nước độc lập thuộc các Bộ, ngành, địa phương.
- Công ty mẹ của Tập đoàn kinh tế (sau đây gọi tắt là tập đoàn), Tổng công ty nhà nước (kể cả Ngân hàng Thương mại nhà nước).
- Công ty mẹ trong tổ hợp công ty mẹ - công ty con.
- Công ty thành viên hạch toán độc lập thuộc Tổng công ty do Nhà nước quyết định đầu tư và thành lập.
- Đơn vị hạch toán phụ thuộc của công ty nhà nước độc lập, tập đoàn, tổng công ty nhà nước, công ty mẹ, công ty thành viên hạch toán độc lập của Tổng công ty.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
A.2.2. Hình thức cổ phần hóa:
- Giữ nguyên vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Bán một phần vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
- Bán toàn bộ vốn nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn điều lệ.
A.2.3. Xác định giá trị doanh nghiệp:
Có 2 nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp:
Giá trị thực tế là giá toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa mà người mua và người bán cổ phần đều chấp nhận được. Người mua và người bán cổ phần sẽ thỏa thuận theo nguyên tắc tự nguyện, đôi bên cùng có lợi.
Cơ sở xác định giá trị thực tế của doanh nghiệp đó là số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp tại thời điểm cổ phần hóa và giá trị thức tế của tài sản tại doanh nghiệp được xác định trên cơ sở hiện trạng về phẩm chất, tính năng kỹ thuật, nhu cầu sử dụng của người mua tài sản và giá thị trường tại thời điểm cổ phần hóa.
A.2.4. Phương pháp xác định giá trị DNNN khi cổ phần hóa
Phương pháp 1: Xác định giá trị DNNN theo tài sản:
Xác định giá trị của doanh nghiệp dựa trên cơ sở giá trị thực tế của toàn bộ tài sản hữu hình, vô hình của doanh nghiệp ại thời điểm định giá.
Phương pháp 2: Phương pháp dòng tiền chiết khấu.
Xác định giá trị doanh nghiệp dựa trên khả năng sinh lời của doanh nghiệp trong tương lai, không phụ thuộc vào giá trị tài sản của doanh nghiệp.
A.2.5. Đối tượng và điều kiện mua cổ phần:
Nhà đầu tư trong nước:
Nhà đầu tư trong nước là cá nhân người Việt Nam, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội được thành lập và hoạt động theo luật pháp Việt Nam;
Nhà đầu tư trong nước được quyền mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa với số lượng không hạn chế, trừ trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này.
Nhà đầu tư nước ngoài:
Nhà đầu tư nước ngoài là tổ chức, cá nhân nước ngoài bỏ vốn để thực hiện hoạt động đầu tư tại Việt Nam;
Nhà đầu tư nước ngoài được mua cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy định tại Nghị định này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan;
Nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu mua cổ phần phải mở tài khoản tiền gửi tại một tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đang hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam và tuân thủ pháp luật Việt Nam. Mọi hoạt động mua, bán cổ phần; nhận, sử dụng cổ tức và các khoản thu chi khác từ đầu tư mua cổ phần đều phải thông qua tài khoản này.
Nhà đầu tư chiến lược:
Nhà đầu tư chiến lược là các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài có năng lực tài chính, quản trị doanh nghiệp; chuyển giao công nghệ mới, cung ứng nguyên vật liệu, phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm; gắn bó lợi ích lâu dài với doanh nghiệp;
Căn cứ vào quy mô vốn điều lệ, tính chất ngành nghề kinh doanh và yêu cầu mở rộng phát triển doanh nghiệp, Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp trình người quyết định cổ phần hóa việc bán cổ phần lần đầu cho nhà đầu tư chiến lược và tiêu chí lựa chọn nhà đầu tư chiến lược;
Nhà đầu tư chiến lược được mua cổ phần theo giá không thấp hơn giá đấu thành công bình quân. Đối với các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước (bao gồm cả các Ngân hàng Thương mại nhà nước) nếu nhất thiết phải chọn nhà đầu tư chiến lược thì cơ quan quyết định cổ phần hoá báo cáo Thủ tướng Chính phủ quyết định việc tổ chức đấu thầu riêng giữa các nhà đầu tư chiến lược;
Nhà đầu tư chiến lược không được chuyển nhượng số cổ phần được mua trong thời hạn tối thiểu 03 năm, kể từ ngày công ty cổ phần được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Trường hợp đặc biệt cần chuyển nhượng số cổ phần này trước thời hạn trên thì phải được Đại hội đồng cổ đông chấp thuận.
Trường hợp doanh nghiệp cổ phần hóa đồng thời niêm yết ngay trên Sở Giao dịch chứng khoán/Trung tâm Giao dịch chứng khoán thì cơ quan có thẩm quyền phê duyệt Phương án cổ phần hóa quy định khối lượng cổ phần đặt mua tối đa, tối thiểu đối với phần bán ra công chúng trong phương án phát hành cổ phần lần đầu để doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa có đủ điều kiện niêm yết. Quy định mức đặt mua tối đa, tối thiểu trong phương án phát hành cổ phần lần đầu không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế.
Thành viên Ban Chỉ đạo cổ phần hóa doanh nghiệp (trừ các thành viên là đại diện của doanh nghiệp), các tổ chức tài chính trung gian, các cá nhân thực hiện tư vấn, định giá, đấu giá bán cổ phần của doanh nghiệp cổ phần hóa không được tham gia đấu giá mua cổ phần phát hành lần đầu của doanh nghiệp đó.
A.3. Ý nghĩa của cổ phần hóa DNNN trong quá trình chuyển đổi, hội nhập kinh tế:
Cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước góp phần thúc sự phát triển bền vững kinh tế - xã hội, nó làm tăng vốn, tăng lợi nhuận, giảm nợ xấu, chia xẻ rủi ro cho các chủ sở hữu riêng lẻ, tạo động lực làm chủ cho người lao động, tạo sức mạnh kinh tế để giải quyết các vấn đề xã hội và môi trường...
Huy động vốn của toàn xã hội bao gồm: cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, phát triển doanh nghiệp.
Phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của các cổ đông; tăng cường sự giám sát của nhà đầu tư đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động.
Phần B: THỰC TRẠNG CỔ PHẦN HÓA DOANH NGHIỆP NHÀ NƯỚC Ở VIỆT NAM
B.1. Thực trạng cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam trong thời gian qua.
B.1.1.Giai đoạn thí điểm (1992 – 1996)
Ngày 8/6/1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ( nay là Thủ tướng Chính
phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT về thí điểm chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Sau đó, ngày 4/3/1993 Thủ tướng Chính phủ ban hành tiếp Chỉ thị số 84/TTg về việc xúc tiến thực hiện thí điểm CPH doanh nghiệp Nhà nước và các giải pháp đa dạng hoá hình thức sở hữu đối với doanh nghiệp Nhà nước .
Quyết định số 202/CT đã chọn 7 doanh nghiệp Nhà nước làm thí điểm, đồng thời giao nhiệm vụ cho mỗi Bộ, Uỷ ban nhân dân tỉnh, Thành phố trực thuộc TW chọn từ 1 đến 2 doanh nghiệp để tổ chức thí điểm chuyển thành công ty cổ phần.
Sau 4 năm triển khai thực hiện Quyết định số 202/CT và Chỉ thị số 84/TTg (1992-1996) cả nước chỉ CPH được 5 doanh nghiệp bao gồm: 3 DN trung ương và 2 DN địa phương. Đó là các doanh nghiệp :
- Công ty Đại lý Liên hiệp vận chuyển thuộc Bộ GTVT - ngày thực hiện CPH : 1/7/1993.
- Công ty Cơ điện lạnh thuộc UBND Tp Hồ Chí Minh - ngày thực hiện CPH : 1/10/1993.
- Xí nghiệp Giày Hiệp An thuộc Bộ Công nghiệp - ngày thực hiện CPH: 1/10/1994
- Xí nghiệp Chế biến hàng xuất khẩu thuộc UBND tỉnh Long An - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
- Xí nghiệp Chế biến thức ăn gia súc thuộc Bộ Nông nghiệp & phát triển nông thôn - ngày thực hiện CPH : 1/7/1995.
B.1.2. Giai đoạn mở rộng: (5/1996 – 6/1998)
Trên cơ sở đánh giá kết quả triển khai thí điểm cổ phần hoá, ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/CP về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã xác định rõ mục tiêu, đối tượng thực hiện cổ phần hoá, quy định cụ thể nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp, chế độ ưu đãi đối với doanh nghiệp và người lao động trong doanh nghiệp chuyển thành công ty cổ phần…Nhờ đó tốc độ CPH đã tăng lên rõ rệt.
Kể từ khi Nghị định 28/CP được ban hành đến hết tháng 5/1998 đã có 25 doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần. Như vậy tính gộp từ năm 1992 đến tháng 5/1998 cả nước đã có 30 doanh nghiệp đã hoàn thành cổ phần hoá với số vốn điều lệ ban đầu là: 281 tỷ đồng ( bình quân 9,6 tỷ đồng/công ty) và gần 6000 lao động. Không chỉ tăng lên về số lượng, diện CPH cũng đã mở rộng hơn, đã có 3 Bộ và 9 Tỉnh, Thành phố có doanh nghiệp CPH. Trong số các doanh nghiệp đã CPH, có 12 doanh nghiệp đã hoạt động từ một năm trở lên theo Luật công ty. Những doanh nghiệp trước khi cổ phần Phân tích quá trình Cổ phần hoá DNNN ở Việt Nam hoá gặp khó khăn, như xí nghiệp Mộc Hà nội, xí nghiệp Đóng tàu thuyền Bình Định, xí nghiệp Giày Hiệp An…, mặc dù không được Nhà nước hỗ trợ vốn, nhưng đã cố gắng khắc phục khó khăn và phát triển sản xuất-kinh doanh liên tục hàng năm.
Để hỗ trợ cho công tác CPH , trong thời gian này, các cấp các ngành đã triển khai việc củng cố tổ chức, bổ sung thành viên vào Ban chỉ đạo CPH ở địa phương và thành lập các ban chỉ đạo CPH Chính phủ, trung ương Đảng, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam.
B.1.3. Giai đoạn thực hiện theo nghị định 44/CP đến nay:
Trong giai đoạn này, nhờ những chuyển biến thuận lợi về cơ sở pháp lý mà nổi bật là sự ra đời của Nghị định 44/CP ngày 29/6/1998 và việc thành lập Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp TW, con số các doanh nghiệp CPH đã tăng nhanh so với các thời kỳ trước.
Sau hơn 2 năm thực hiện CPH doanh nghiệp Nhà nước theo Nghị định số 44/CP, từ tháng 6/1998 đến hết tháng 8/2000 cả nước đã cổ phần hoá 430 doanh nghiệp đưa tổng số doanh nghiệp Nhà nước đã thực hiện cổ phần hoá lên 460 doanh nghiệp.
Trong số những doanh nghiệp đã CPH , những doanh nghiệp thuộc lĩnh vực Công nghiệp và Xây dựng chiếm khoảng 44,2%; Dịch vụ thương mại chiếm 39,2%; Giao thông vận tải chiếm 9,5%; Nông nghiệp chiếm 4,1% và thuỷ sản chiếm 2%. Hầu hết các doanh nghiệp đã CPH đều tương đối nhỏ, những công ty có tổng số vốn lớn hơn 10 tỷ đồng chiếm khoảng 12%, trong khi các doanh nghiệp có vốn nhỏ hơn 5 tỷ đồng chiếm đến hơn 50%. Vốn trung bình của các doanh nghiệp đã CPH chỉ vào khoảng 3,1 tỷ đồng. Đa số các doanh nghiệp thực hiện CPH theo hình thức thứ 2 nghĩa là bán một phần giá trị vốn của Nhà nước nắm giữ trong doanh nghiệp.
Tính tới thời điểm 31/12/1999, trong số các địa phương thực hiện CPH, Hà Nội là thành phố có số doanh nghiệp cổ phần hoá nhiều nhất, gồm 70 doanh nghiệp trong tổng số 210 doanh nghiệp thuộc các tỉnh, thành phố thực hiện cổ phần hoá, tiếp theo là TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Nam Định và Thanh Hoá.
Đến tháng 6/2005 cả nước chỉ còn 2.983 doanh nghiệp 100% vốn nhà nước, trong đó có 2.253 doanh nghiệp hoạt động kinh doanh, 440 doanh nghiệp quốc phòng, an ninh và cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích, 290 nông lâm trường quốc doanh với tổng số vốn khoản 220.000 tỷ đồng.
Tính đến hết năm 2008 cả nước đã sắp xếp lại được 5.414 doanh nghiệp trong tổng số khoảng 6.200 DNNN. Trong đó, cổ phần hóa 3.836 doanh nghiệp và bộ phận doanh nghiệp, chiếm 70,8% tổng số doanh nghiệp đã sắp xếp.
Tính đến hết năm 2009 đã có tới gần 4.500 doanh nghiệp, đơn vị đã hoàn tất cổ phần hóa nhưng phần lớn trong đó là các doanh nghiệp cỡ vừa và nhỏ, có quy mô vốn, giá trị tài sản chưa đầy 30% trong tổng giá trị vốn, tài sản của khối DNNN.
Biểu đồ 1: Biểu đồ thể hiện số lượng doanh nghiệp đã được CPH hóa
B. 2. Đánh giá thực trạng cổ phần hóa DNNN ở Việt Nam:
B.2.1.Thành tựu:
Đối với doanh nghiệp:
Nhìn chung, doanh nghiệp là đối tượng được lợi nhiều nhất từ chính sách cổ phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp khi chuyển sang công ty cổ phần đều hoạt động có hiệu quả hơn trước xét tổng thể trên các mặt doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách, tích luỹ vốn…Nhiều doanh nghiệp đã thoát ra khỏi tình trạng nợ nần, phá sản, khắc phục được những hạn chế do cơ chế quản lý cũ như nạn tham nhũng, lãng phí trong sản xuất, sự thiếu trách nhiệm trong lao động, quản lý trì trệ, yếu kém…
Kết quả hoạt động của 15 doanh nghiệp đã được CPH trước năm 1998 là rất khả quan. Những lợi ích mà CPH mang lại cho doanh nghiệp được thể hiện rất rõ qua những con số sau:
Báo cáo hoạt động năm 1999 của 20 doanh nghiệp đã CPH có thời gian hoạt động trên 1 năm cũng cho thấy những số liệu rất khả quan, cụ thể như sau:
Doanh thu tăng bình quân gần 2 lần: Điển hình công ty cổ phần Cơ điện lạnh năm 1999 đạt 178 tỷ đồng, gấp gần 4 lần so với trước khi CPH
Lợi nhuận tăng bình quân hơn 2 lần, cổ tức bình quân đạt 1-2%/tháng.
Vốn tăng gần 2,5 lần (bao gồm cả tích luỹ từ lợi nhuận và thu hút thêm vốn đầu tư từ bên ngoài): Nổi bật là công ty cổ phần chế biến hàng xuất khẩu Long An vốn tăng 5 lần; công ty cổ phần Việt Phong vốn tăng 2,4 lần…
Ngoài những lợi ích kinh tế kể trên, khi CPH DNNN còn có thêm những lợi ích khác góp phần tích cực vào việc năng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh:
- Thứ nhất: Năng lực SX - KD của doanh nghiệp tăng lên nhờ được bổ sung nguồn vốn lưu động và đầu tư đổi mới công nghệ. Về nguyên tắc, tất cả số tiền bán cổ phiếu, sau khi trừ đi các chi phí sẽ được điều chuyển để bổ sung vốn, mở rộng sản xuất kinh doanh.
- Thứ hai: Doanh nghiệp có quyền chủ động trong sản xuất kinh doanh. Sự chuyển đổi này đã hạn chế thấp nhất những can thiệp thô bạo, phi kinh tế của các cơ quan công quyền, hạn chế các chỉ đạo vốn có của một DNNN.
- Thứ ba: Doanh nghiệp đã có được một cách quản lý mới mang tính dân chủ. Với việc CPH , doanh nghiệp đã chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần, cũng có nghĩa là xác định vai trò chủ nhân tập thể. Hội đồng quản trị sẽ thực sự làm chủ công ty với động lực lợi nhuận, vì lời ích của cổ đông (trong đó có chính mình), thay mặt các cổ đông và được các cổ đông bầu lên chư không phải ai khác.
Bên cạnh đó, với những biến đổi tích cực, Nghị định 187/2004/NĐ – CP vào ngày 16/11/2004 của chính phủ (gọi tắt là Nghị định 187) về chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần có hiệu lực thi hành kể từ 10/12/2005 đã có tác động thúc đẩy tiến trình cổ phần hóa DNNN trong thời gian qua cụ thể như sau :
- Số lượng doanh nghiệp cổ phần hóa (DNCPH) tăng mạnh: Tính đến ngày 30/06/2006 cả nước đã cổ phần hóa được 3.365 doanh nghiệp. Thông qua cổ phần hóa đã huy động được trên 22.000 tỷ đồng vốn nhà rỗi trong xã hội đầu tư vào sản xuất kinh doanh.
- Doanh nghiệp cổ phần hóa có quy mô lớn hơn trước đây: Trong số 967 đơn vị đã được phê duyệt cổ phần hóa trong năm 2005 thì có tới 310 đơn vị có số vốn trên 10 tỷ đồng (chiếm 32%), trong đó có gần 10 doanh nghiệp có vốn nhà nước trên 300 tỷ đồng. Nếu như trước năm 2005 vốn nhà nước trong 2.307 đơn vị cổ phần hóa chỉ khoảng 20 ngàn tỷ đồng, bằng 8% tổng số vốn nhà nước tại doanh nghiệp, thì chỉ riêng năm 2005 vốn nhà nước trong 967 đơn vị cổ phần hóa đã đạt 20 ngàn tỷ đồng.
- Việc điều chỉnh mệnh giá cổ phần ; quy định số lượng cổ phần tối thiểu phải đấu giá bán công khai ; xóa bỏ cơ chế bán cổ phần theo mệnh giá sang phương thức bán đấu giá cổ phần lần đầu tại các tổ chức tài chính trung gian (đặc biệt tại 2 Trung tâm giao dịch chứng khoán) đã góp phần nâng cao tính công khai, minh bạch trong quá trình cổ phần hóa DNNN, khắc phục cơ bản tình trạng cổ phần hóa khép kín trong nội bộ doanh nghiệp, gắn cổ phần hóa với sự phát triển của thị trường chứng khoán, giảm áp lực cho công tác định giá, giảm tổn thất cho nhà nước. Thông qua đấu giá, hầu hết các doanh nghiệp đều bán được cổ phần cao hơn mệnh giá. Với việc bán cổ phần ra bên ngoài, DNCPH đã chủ động lựa chọn của nhà đầu tư chiến lược cho mình và tạo điều kiện để các nhà đầu tư chiến lược tham gia góp vốn quản lý doanh nghiệp.
- Việc đẩy mạnh cổ phần hóa những doanh nghiệp quy mô lớn, hiệu quả cao gắn với việc thực hiện niêm yết, đăng ký giao dịch tại trung tâm chứng khoán TP Hồ Chí Minh và Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội đã tạo đà cho thị trường chứng khoán phát triển. Tính đến nay tổng doanh nghiệp đã niêm yết, đăng ký giao dịch tại trung tâm chứng khoán là 57, trong đó có tới 49 doanh nghiệp được hình thành từ quá trình cổ phần hóa DNNN với tổng số vốn điều lệ đăng ký