Chúng ta đang sống trong những năm của thế kỉ 21, thế kỉ mà tri thức và kĩ năng của con người là những yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển của xã hội. Trong xã hội tri thức, nền giáo dục không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức mà nhân loại đã tích luỹ trong lịch sử mà còn phải bồi dưỡng cho họ tính năng động, óc tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi. Trước tình hình đó nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho nhà trường phổ thông là ngoài việc trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng tối thiểu, cần thiết, các môn học cần phải tạo ra cho học sinh một tiềm lực nhất định để khi tham gia vào lao động sản xuất hoặc nghiên cứu khoa học họ có thể mau chóng thích ứng với những yêu cầu của xã hội, đó chính là khả năng giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, khả năng tự tìm ra những giải pháp mới. Khả năng đó nằm trong phương pháp tư duy và hành động một cách khoa học. Điều đó đòi hỏi ngành giáo dục phải có một chiến lược đổi mới đồng bộ từ hệ thống quan điểm chung, hệ thống giáo dục.đến những vấn đề cụ thể như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học cùng các điều kiện khác. Trong giai đoạn đầu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh là tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn.
Nghị quyết TW 2, khoá VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ghi rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều và rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học.”[55] Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục chỉ rõ phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong những năm tới: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục”.[56]
Cùng xu thế đổi mới chung của ngành giáo dục, việc dạy học vật lí có nhiều thay đổi quan trọng và ngày càng có những thành tựu mới. Tuy nhiên sự đổi mới này vẫn còn chậm chạp, chưa theo kịp sự đổi mới của hệ thống giáo dục và sụ tiến bộ của khoa học, đặc biệt những thành tựu hiện đại của khoa học thế giới trong những thập kỉ gần đây.
Trong hệ thống kiến thức vật lí ở trường phổ thông, kiến thức phần “Điện tích - Điện trường” giữ một vai trò quan trọng. Đây là phần kiến thức tương đối khó. Nội dung kiến thức này được xây dựng theo mức độ từ khảo sát định tính các hiện tượng gần gũi với kinh nghiệm và hiểu biết của học sinh ở cấp cơ sở đến việc không chỉ mở rộng, đi sâu vào bản chất vật lí, cơ chế của các hiện tượng điện mà còn nâng cao ở mức định lượng và quan tâm đến các ứng dụng kĩ thuật. Tuy nhiên, trong thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay việc dạy học các kiến thức này chưa đạt được như mong muốn, còn tồn tại chủ yếu tình trạng dạy học mang tính chất độc thoại, giảng giải, thông báo, áp đặt, tái hiện.mang tính một chiều của giáo viên, nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi học phần này.
Qua những nghiên cứu cho thấy, sau một thời gian dài học tập, những kiến thức học sinh tiếp thu về phần “Điện tích - Điện trường” là khá ít. Học sinh có xu hướng giải quyết các tình huống bằng sự vận hành các quan niệm thông thường có trong đời sống hàng ngày chứ không phải là những kiến thức đã được giảng dạy. Những khó khăn gặp phải khi học sinh giải quyết các bài toán về điện là rất lớn, nhất là phần tĩnh điện. Sai về phương pháp, về chiến lược. Học sinh giải bài một cách tuỳ tiện, họ chỉ tìm cách áp dụng ngay các công thức, phát hiện ra những thủ thuật đem lại các giải pháp cho một bài toán cụ thể nào đó.Ngay cả những khái niệm cơ bản: điện dung, điện thế, hiệu điện thế, tụ điện, điện truờng . nhiều học sinh còn rất mơ hồ, chưa hiểu đúng về bản chất vật lý, dẫn đến học sinh có những quan niệm rất khác với những quan niệm khoa học của các nội dung kiến thức này.
Do đặc thù của chương học bao gồm nhiều kiến thức thông báo: từ những định luật, thuyết cho đến những khái niệm căn bản. Vì thế, số nghiên cứu về dạy học các nội dung kiến thức thuộc phần “Điện tích - Điện trường” là không nhiều. Đã có một số luận văn nghiên cứu về việc dạy học các kiến thức phần Tĩnh điện, cụ thể:
- “Một số suy nghĩ về việc hình thành cho học sinh phương pháp giải bài tập Tĩnh điện”, Đỗ Thị Kim Chung, 1988.
- “Xây dựng và sử dụng các thí nghiệm trong dạy học các kiến thức về tụ điện ở chương “Cơ sở của Tĩnh điện học”- SGK vật lý lớp 11 thí điểm, Ban Khoa học tự nhiên (Bộ 1) nhằm nâng cao chất lượng kiến thức và phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập” của tác giả Trần Hùng Dũng, ĐHSP Hà Nội, 2005.
- “Lựa chọn hệ thống bài tập và phương pháp giải phần tĩnh điện học nhằm ôn tập hệ thống hoá kiến thức phần tĩnh điện học cho học sinh lớp 11 phổ thông trung học hiện hành”, Lê Thị Hằng, Khoá luận tốt nghiệp, 1995.
- “Lựa chọn một số bài tập, xây dựng phương pháp giải và hướng dẫn giải bài tập hạt điện tích chuyển động trong địên trường nhằm ôn tập, củng cố một số kiến thức trong chương tĩnh điện ở lớp 11 - Phổ thông trung học”, Phạm Thị Định, Khoá luận tốt nghiệp, 1999.
- “Thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản từ vỏ lon và chai nhựa để sử dụng trong dạy học phần tĩnh điện học ở trường phổ thông”, Trần Ngọc Chất, Khoá luận tốt nghiệp, 2004.
Gần đây, một số tác giả như Mai Văn Trinh [48], Nguyễn Thị Nhị [32] có đề cập đến việc thiết kế Website nhằm hỗ trợ việc dạy học chương tĩnh điện trong một số bài báo, tuy nhiên những nghiên cứu này chưa được áp dụng rộng rãi trong thực tế.
Và cũng có một số luận văn đã đề cập đến việc nghiên cứu các quan niệm sai lầm của học sinh như:
- “Điều tra những sai lầm phổ biến của học sinh PTTH về các khái niệm lực, gia tốc, khối lượng”, Phùng Như Hoa, Khoá luận tốt nghiệp, ĐHSP Hà Nội, 1993.
- “ Nghiên cứu những quan niệm, những sai lầm của học sinh trong một
phần thuộc khái niệm lực, vận tốc và khối lượng trong chương trình vật lý 10 phổ thông trung học”, Dương Đức Thắng, 1993.
- “Tìm hiểu các biện pháp khắc phục khó khăn trong việc giảng dạy và học tập một số bài của chương trình vật lý lớp 10 phổ thông trung học”, Trần Văn Huynh, 1995.
- Trong các bài báo “Thực nghiệm xây dựng tình huống vấn đề nhằm khắc phục những quan niệm sai lầm của học sinh về khái niệm lực”, Nghiên cứu giáo dục, số 8 – 1993, số 11 – 1994 và trong luận án PTS “Nghiên cứu tổ chức tình huống, định hướng hành động xây dựng kiến thức của học sinh trong việc dạy khái niệm lực thuộc chương “Lực - Khối lượng” ở lớp 7 phổ thông”, 1996 của tác giả Đỗ Hương Trà, dựa trên sự hiểu biết về những quan niệm của người học, tác giả đã phân tích sâu và vận dụng sáng tạo kiểu định hướng khái quát chương trình hoá theo tiến trình hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề đối với tình huống học tập trong việc xây dựng từng kiến thức cụ thể.
Tuy nhiên, theo chúng tôi được biết, cho đến nay chưa có luận văn nào nghiên cứu về việc tổ chức dạy học các kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường”, cũng như nghiên cứu những quan niệm của học sinh về các kiến thức thuộc chương này. Những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân loại các bài tập, thiết kế chế tạo các thí nghiệm, cải tiến và sử dụng một số thí nghiệm trong dạy học một vài kiến thức đơn lẻ, chưa có cái nhìn tổng thể về chương học.
Chúng tôi nhận thấy, chương học này bao gồm những kiến thức rất căn bản của vật lý, nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp thu các kiến thức ở những chương học sau về phần điện và từ. Do đó, việc làm phát hiện, làm bộc lộ, thay đổi những quan niệm sai, củng cố những quan niệm khoa học về những kiến thức thuộc phần điện tích, điện trường có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học Vật lý. Đối với giáo viên đây cũng là một chương khó tổ chức dạy học theo phương pháp mới. Đối với học sinh, đây là một chương học tương đối nặng vì những kiến thức khó hiểu, mang tích trừu tượng cao, khó ghi nhớ, dễ nhầm lẫn, dễ hiểu sai lệch. Vì thế, cần có những nghiên cứu về tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả cho chương học, hơn nữa có thể khắc phục, giảm bớt cho học sinh những khó khăn, sai lầm hay mắc phải sẽ củng cố cho người học sự ham học và niềm yêu thích bộ môn Vật lý.
Việc nghiên cứu tổ chức dạy học dựa trên cơ sở hiểu biết về những khó khăn, những quan niệm của học sinh trong học tập có ý nghĩa thiết thực trong dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy và học bộ môn Vật lý.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “ Nghiên cứu việc thiết kế tiến trình hoạt động dạy học một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường” - SGK vật lý lớp 11 nâng cao nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh”
2. Mục đích nghiên cứu
130 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2964 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nghiên cứu việc thiết kế tiến trình hoạt động dạy học một số kiến thức thuộc chương Điện tích - Điện trường - SGK vật lý lớp 11 nâng cao nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng ta đang sống trong những năm của thế kỉ 21, thế kỉ mà tri thức và kĩ năng của con người là những yếu tố cơ bản quyết định sự phát triển của xã hội. Trong xã hội tri thức, nền giáo dục không chỉ trang bị cho học sinh những kiến thức mà nhân loại đã tích luỹ trong lịch sử mà còn phải bồi dưỡng cho họ tính năng động, óc tư duy sáng tạo và năng lực thực hành giỏi. Trước tình hình đó nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho nhà trường phổ thông là ngoài việc trang bị cho học sinh những kiến thức và kĩ năng tối thiểu, cần thiết, các môn học cần phải tạo ra cho học sinh một tiềm lực nhất định để khi tham gia vào lao động sản xuất hoặc nghiên cứu khoa học họ có thể mau chóng thích ứng với những yêu cầu của xã hội, đó chính là khả năng giải quyết những vấn đề mà thực tiễn đặt ra, khả năng tự tìm ra những giải pháp mới. Khả năng đó nằm trong phương pháp tư duy và hành động một cách khoa học. Điều đó đòi hỏi ngành giáo dục phải có một chiến lược đổi mới đồng bộ từ hệ thống quan điểm chung, hệ thống giáo dục...đến những vấn đề cụ thể như mục tiêu, nội dung, phương pháp, phương tiện dạy học cùng các điều kiện khác. Trong giai đoạn đầu của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực hóa hoạt động của học sinh là tạo điều kiện cho học sinh suy nghĩ nhiều hơn, làm nhiều hơn và thảo luận nhiều hơn.
Nghị quyết TW 2, khoá VIII của Đảng Cộng Sản Việt Nam đã ghi rõ: “Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều và rèn luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học...”[55] Văn kiện Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam lại tiếp tục chỉ rõ phương hướng phát triển giáo dục và đào tạo trong những năm tới: “Tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lí giáo dục”.[56]
Cùng xu thế đổi mới chung của ngành giáo dục, việc dạy học vật lí có nhiều thay đổi quan trọng và ngày càng có những thành tựu mới. Tuy nhiên sự đổi mới này vẫn còn chậm chạp, chưa theo kịp sự đổi mới của hệ thống giáo dục và sụ tiến bộ của khoa học, đặc biệt những thành tựu hiện đại của khoa học thế giới trong những thập kỉ gần đây.
Trong hệ thống kiến thức vật lí ở trường phổ thông, kiến thức phần “Điện tích - Điện trường” giữ một vai trò quan trọng. Đây là phần kiến thức tương đối khó. Nội dung kiến thức này được xây dựng theo mức độ từ khảo sát định tính các hiện tượng gần gũi với kinh nghiệm và hiểu biết của học sinh ở cấp cơ sở đến việc không chỉ mở rộng, đi sâu vào bản chất vật lí, cơ chế của các hiện tượng điện mà còn nâng cao ở mức định lượng và quan tâm đến các ứng dụng kĩ thuật... Tuy nhiên, trong thực tế dạy học ở trường phổ thông hiện nay việc dạy học các kiến thức này chưa đạt được như mong muốn, còn tồn tại chủ yếu tình trạng dạy học mang tính chất độc thoại, giảng giải, thông báo, áp đặt, tái hiện...mang tính một chiều của giáo viên, nên học sinh gặp rất nhiều khó khăn khi học phần này.
Qua những nghiên cứu cho thấy, sau một thời gian dài học tập, những kiến thức học sinh tiếp thu về phần “Điện tích - Điện trường” là khá ít. Học sinh có xu hướng giải quyết các tình huống bằng sự vận hành các quan niệm thông thường có trong đời sống hàng ngày chứ không phải là những kiến thức đã được giảng dạy. Những khó khăn gặp phải khi học sinh giải quyết các bài toán về điện là rất lớn, nhất là phần tĩnh điện. Sai về phương pháp, về chiến lược... Học sinh giải bài một cách tuỳ tiện, họ chỉ tìm cách áp dụng ngay các công thức, phát hiện ra những thủ thuật đem lại các giải pháp cho một bài toán cụ thể nào đó..Ngay cả những khái niệm cơ bản: điện dung, điện thế, hiệu điện thế, tụ điện, điện truờng .. nhiều học sinh còn rất mơ hồ, chưa hiểu đúng về bản chất vật lý, dẫn đến học sinh có những quan niệm rất khác với những quan niệm khoa học của các nội dung kiến thức này.
Do đặc thù của chương học bao gồm nhiều kiến thức thông báo: từ những định luật, thuyết cho đến những khái niệm căn bản. Vì thế, số nghiên cứu về dạy học các nội dung kiến thức thuộc phần “Điện tích - Điện trường” là không nhiều. Đã có một số luận văn nghiên cứu về việc dạy học các kiến thức phần Tĩnh điện, cụ thể:
- “Một số suy nghĩ về việc hình thành cho học sinh phương pháp giải bài tập Tĩnh điện”, Đỗ Thị Kim Chung, 1988.
- “Xây dựng và sử dụng các thí nghiệm trong dạy học các kiến thức về tụ điện ở chương “Cơ sở của Tĩnh điện học”- SGK vật lý lớp 11 thí điểm, Ban Khoa học tự nhiên (Bộ 1) nhằm nâng cao chất lượng kiến thức và phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập” của tác giả Trần Hùng Dũng, ĐHSP Hà Nội, 2005.
- “Lựa chọn hệ thống bài tập và phương pháp giải phần tĩnh điện học nhằm ôn tập hệ thống hoá kiến thức phần tĩnh điện học cho học sinh lớp 11 phổ thông trung học hiện hành”, Lê Thị Hằng, Khoá luận tốt nghiệp, 1995.
- “Lựa chọn một số bài tập, xây dựng phương pháp giải và hướng dẫn giải bài tập hạt điện tích chuyển động trong địên trường nhằm ôn tập, củng cố một số kiến thức trong chương tĩnh điện ở lớp 11 - Phổ thông trung học”, Phạm Thị Định, Khoá luận tốt nghiệp, 1999.
- “Thiết kế, chế tạo các dụng cụ thí nghiệm đơn giản từ vỏ lon và chai nhựa để sử dụng trong dạy học phần tĩnh điện học ở trường phổ thông”, Trần Ngọc Chất, Khoá luận tốt nghiệp, 2004.
Gần đây, một số tác giả như Mai Văn Trinh [48], Nguyễn Thị Nhị [32] có đề cập đến việc thiết kế Website nhằm hỗ trợ việc dạy học chương tĩnh điện trong một số bài báo, tuy nhiên những nghiên cứu này chưa được áp dụng rộng rãi trong thực tế.
Và cũng có một số luận văn đã đề cập đến việc nghiên cứu các quan niệm sai lầm của học sinh như:
- “Điều tra những sai lầm phổ biến của học sinh PTTH về các khái niệm lực, gia tốc, khối lượng”, Phùng Như Hoa, Khoá luận tốt nghiệp, ĐHSP Hà Nội, 1993.
- “ Nghiên cứu những quan niệm, những sai lầm của học sinh trong một
phần thuộc khái niệm lực, vận tốc và khối lượng trong chương trình vật lý 10 phổ thông trung học”, Dương Đức Thắng, 1993.
- “Tìm hiểu các biện pháp khắc phục khó khăn trong việc giảng dạy và học tập một số bài của chương trình vật lý lớp 10 phổ thông trung học”, Trần Văn Huynh, 1995.
- Trong các bài báo “Thực nghiệm xây dựng tình huống vấn đề nhằm khắc phục những quan niệm sai lầm của học sinh về khái niệm lực”, Nghiên cứu giáo dục, số 8 – 1993, số 11 – 1994 và trong luận án PTS “Nghiên cứu tổ chức tình huống, định hướng hành động xây dựng kiến thức của học sinh trong việc dạy khái niệm lực thuộc chương “Lực - Khối lượng” ở lớp 7 phổ thông”, 1996 của tác giả Đỗ Hương Trà, dựa trên sự hiểu biết về những quan niệm của người học, tác giả đã phân tích sâu và vận dụng sáng tạo kiểu định hướng khái quát chương trình hoá theo tiến trình hướng dẫn học sinh giải quyết vấn đề đối với tình huống học tập trong việc xây dựng từng kiến thức cụ thể.
Tuy nhiên, theo chúng tôi được biết, cho đến nay chưa có luận văn nào nghiên cứu về việc tổ chức dạy học các kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường”, cũng như nghiên cứu những quan niệm của học sinh về các kiến thức thuộc chương này. Những nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc phân loại các bài tập, thiết kế chế tạo các thí nghiệm, cải tiến và sử dụng một số thí nghiệm trong dạy học một vài kiến thức đơn lẻ, chưa có cái nhìn tổng thể về chương học.
Chúng tôi nhận thấy, chương học này bao gồm những kiến thức rất căn bản của vật lý, nó có ý nghĩa quan trọng đối với việc tiếp thu các kiến thức ở những chương học sau về phần điện và từ. Do đó, việc làm phát hiện, làm bộc lộ, thay đổi những quan niệm sai, củng cố những quan niệm khoa học về những kiến thức thuộc phần điện tích, điện trường có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học Vật lý. Đối với giáo viên đây cũng là một chương khó tổ chức dạy học theo phương pháp mới. Đối với học sinh, đây là một chương học tương đối nặng vì những kiến thức khó hiểu, mang tích trừu tượng cao, khó ghi nhớ, dễ nhầm lẫn, dễ hiểu sai lệch. Vì thế, cần có những nghiên cứu về tổ chức hoạt động dạy học hiệu quả cho chương học, hơn nữa có thể khắc phục, giảm bớt cho học sinh những khó khăn, sai lầm hay mắc phải sẽ củng cố cho người học sự ham học và niềm yêu thích bộ môn Vật lý.
Việc nghiên cứu tổ chức dạy học dựa trên cơ sở hiểu biết về những khó khăn, những quan niệm của học sinh trong học tập có ý nghĩa thiết thực trong dạy học, góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc dạy và học bộ môn Vật lý.
Chính vì những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài: “ Nghiên cứu việc thiết kế tiến trình hoạt động dạy học một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường” - SGK vật lý lớp 11 nâng cao nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh”
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở hiểu biết những quan niệm của học sinh về một số kiến thức phần tĩnh điện, thiết kế tiến trình dạy học một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường” – SGK vật lí lớp 11 nâng cao nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh khi học phần kiến thức này.
3. Đối tượng nghiên cứu
- Các quan niệm của học sinh về một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường”
- Các nội dung kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường” – SGK
vật lý lớp 11 nâng cao
- Hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh khi tiến hành dạy học chương “Điện tích - Điện trường” – SGK vật lý lớp 11 nâng cao.
4. Giả thuyết khoa học
Vận dụng các quan điểm dạy học hiện đại vào việc tổ chức dạy học các kiến thức vật lý cụ thể và trên cơ sở hiểu biết những quan niệm của người học có thể thiết kế được tiến trình hoạt động dạy học nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh về một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường”- SGK vật lý 11 nâng cao.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các quan điểm dạy học hiện đại, các cơ sở tâm lý học, giáo dục học về tổ chức hoạt động dạy học, vai trò của việc hiểu biết những quan niệm của học sinh, cơ sở khoa học luận của việc tổ chức tiến trình hoạt động dạy học vật lý.
- Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của kiến thức phần “ Tĩnh điện”. Nghiên cứu nội dung kiến thức phần: “Điện tích – Điện trường” trong sách giáo khoa Vật lý 11 nâng cao và các tài liệu liên quan nhằm xác định mức độ nội dung các kiến thức và các kỹ năng học sinh cần nắm vững.
- Phân tích cấu trúc lôgic của nội dung kiến thức và nghiên cứu soạn thảo hệ thống tình huống học tập nhằm tìm ra những quan niệm của học sinh về phần “Điện tích – Điện trường”.
- Thực nghiệm bằng hệ thống câu hỏi đã soạn thảo nhằm thu thập và phân tích những khó khăn và những quan niệm của học sinh về các kiến thức thuộc chương “Điện tích – Điện trường”.
- Thiết kế tiến trình hoạt động dạy học giúp học sinh khắc phục một số quan niệm sai lầm.
- Thực nghiệm tiến trình dạy học đã soạn thảo, phân tích tính khả thi của tiến trình đối với việc khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh.
6. Phạm vi nghiên cứu
- Một số kiến thức thuộc chương: “Điện tích – Điện trường ”
- Chỉ tiến hành điều tra, nghiên cứu và thực nghiệm sư phạm trên đối tượng học sinh ở một số trường THPT trong thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quảng Ninh.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện được các nhiệm vụ trên, chúng tôi sẽ sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau:
- Nghiên cứu lí luận: nghiên cứu các tài liệu về tâm lý học, lôgic học, lý luận dạy học Vật lý, các văn kiện của Đảng về đổi mới giáo dục và các tài liệu liên quan đến đề tài để làm cơ sở định hướng cho quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu các giáo trình Vật lý đại cương, sách giáo khoa phổ thông phần “Điện tích – Điện trường ” và các tài liêu khoa học liên quan phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Dùng phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: bằng việc sử dụng những kết quả cuả những nhà nghiên cứu, tìm hiểu lịch sử về sự hình thành và phát triển nội dung kiến thức, tìm hiểu những kinh nghiệm giảng dạy của các chuyên gia, của các đồng nghiệp…
- Khảo sát thực tế: Dự giờ, quan sát, trao đổi với các giáo viên về thực trạng dạy học phần “Điện tích – Điện trường ” về cách tổ chức hoạt động dạy học của giáo viên, mức độ nhận thức, hứng thú của học sinh và kết quả học tập thu được của học sinh tại một số trường THPT trên địa bàn thị xã Cẩm Phả, tỉnh Quàng Ninh.
- Thực nghiệm sư phạm:
Bằng các tình huống học tập, thực nghiệm, điều tra nhằm phát hiện những quan niệm của học sinh khi học chương “Điện tích – Điện trường ”.
Dạy học thực nghiệm với các tiến trình dạy học đã soạn thảo nhằm đánh giá hiệu quả của tiến trình dạy học đối với việc khắc phục quan niệm sai lầm của học sinh.
- Dùng thống kê toán học để xử lý kết quả thu được từ thực nghiệm.
8. Đóng góp của đề tài
- Phát hiện được một số quan niệm sai lầm của học sinh khi học một số kiến thức chương “Điện tích – Điện trường ” làm cơ sở giúp giáo viên tổ chức hữu hiệu tiến trình dạy học nội dung kiến thức chương này.
- Phân tích được nội dung khoa học và lịch sử hình thành một số kiến thức thuộc chương “Điện tích - Điện trường”.
- Soạn thảo được một số tiến trình hoạt động dạy học nhằm khắc phục một số kiến thức thuộc chương “Điện tích – Điện trường ” SGK Vật lý 11 nâng cao.
- Kết quả của đề tài có thể làm cơ sở cho việc tiếp tục nghiên cứu tìm ra các biện pháp khắc phục những quan niệm khó khăn của học sinh khi học chương này.
9. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thiết kế tiến trình hoạt động dạy học một số kiến thức thuộc chương “Điện tích – Điện trường” SGK Vật lý 11 nâng cao nhằm khắc phục một số quan niệm sai lầm của học sinh.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Bản chất của hoạt động dạy học
1.1.1. Quan niệm về hoạt động
Theo A.N.Leontiev thì hoạt động được hiểu là một tổ hợp các quá trình con người tác động vào đối tượng nhằm đạt mục đích thỏa mãn một nhu cầu nhất định và chính kết quả hoạt động là sự cụ thể hóa nhu cầu của chủ thể. [1]
A.N.Leontiev còn đưa ra cấu trúc vĩ mô của hoạt động như sau:
Về mặt chủ thể diễn ra ba thành tố có quan hệ với nhau, chi phối lẫn nhau: Hoạt động – hành động – thao tác.
Về phía khách thể gồm ba thành tố: Động cơ - mục đích – phương tiện.
Hoạt động của chủ thể tồn tại tương ứng với động cơ thúc đẩy hoạt động đó. Hoạt động có đối tượng cấu thành từ các hành động. Hành động gồm các thao tác: Hành động có mục đích, điều kiện, phương tiện cụ thể.
Mỗi hành động diễn ra theo các pha: Định hướng, chấp hành và kiểm tra. Cơ sở định hướng của hành động có tầm quan trọng đặc biệt đối với chất lượng, hiệu quả của hành động.
1.1.2. Quan niệm về dạy học
Dạy học là một hoạt động toàn diện có mục đích của giáo viên và học
sinh trong sự thống nhất và tác động qua lại giữa giáo viên, học sinh và các tư liệu hoạt động dạy học. Có thể mô tả sự tương tác nói trên trong dạy học bằng sơ đồ sau:
(1)
(2)
(3) (6)
(4) (5)
Chú thích: (1) Định hướng (4) Liên hệ ngược
(2) Liên hệ ngược (5) Thích ứng
(3) Tổ chức (6) Cung cấp
Sơ đồ 2: Hệ tương tác dạy học [44]
Theo sơ đồ này hành động của giáo viên với tư liệu hoạt động dạy học là khâu tổ chức, cung cấp tư liệu và tạo tình huống cho hoạt động của học sinh.
Tác động trực tiếp của giáo viên tới học sinh là sự định hướng của giáo viên với học sinh là sự định hướng của giáo viên với hành động của học sinh với sự tương tác trao đổi giữa học sinh với nhau. Qua đó còn định hướng cả sự cung cấp những thông tin liên hệ ngược từ phía học sinh cho giáo viên. Đó là những thông tin cần thiết cho sự tổ chức và định hướng của giáo viên đối với hành động học của học sinh.
Hành động của học sinh đối với tư liệu hoạt động dạy học là sự thích ứng của học sinh với tình huống học tập, đồng thời là hành động chiếm lĩnh xây dựng tri thức cho bản thân mình. Sự tương tác đó của học sinh đối với tư liệu hoạt động dạy học đem lại cho giáo viên những thông tin liên hệ ngược cần thiết cho sự chỉ đạo của giáo viên với học sinh. Tương tác trực tiếp giữa học sinh với nhau và giữa học sinh với giáo viên là sự trao đổi tranh luận giữa các cá nhân và nhờ đó từng cá nhân học sinh tranh thủ sự hỗ trợ xuất hiện từ phía giáo viên và tập thể học sinh trong quá trình chiếm lĩnh xây dựng trí thức.
Như vậy hoạt động dạy học gồm hoạt động dạy và hoạt động học liên hệ mật thiết biện chứng với nhau, như bà A.Mentrinscaia viết: “Hai hoạt động của thầy và trò là hai mặt của một hoạt động”. [2]
1.1.3. Bản chất hoạt động dạy
Hoạt động dạy (trong nhà trường) là một hoạt động của người lớn tổ chức và điều khiển hoạt động của trẻ nhằm giúp chúng lĩnh hội nền văn hóa xã hội, tạo ra sự phát triển tâm lý và hình thành nhân cách.[20]
Bản chất của hoạt động dạy được thể hiện qua mục đích của hoạt động dạy và cách thức để đạt mục đích đó. Mục đích của hoạt động dạy là giúp trẻ lĩnh hội nền văn hóa xã hội, phát triển tâm lý, hình thành nhân cách. Để đạt được mục đích trên phải thông qua hoạt động dạy của thầy giáo (ở đây thầy giáo là chủ thể của hoạt động dạy). Chức năng của thầy không phải là tạo ra tri thức mới, cũng không phải tái tạo tri thức cũ cho bản thân mình mà nhiệm vụ chu yếu, đặc trưng là tổ chức quá trình tái tạo ở trẻ. Người thầy phải sử dụng tri thức đó như là phương tiện, vật liệu để tổ chức và điều khiển người học sản xuất những tri thức ấy lần thứ hai cho bản thân mình, đồng thời tạo ra sự phát triển tâm lý ở học sinh.
Vì vậy, sự dạy chỉ đạt hiệu quả khi tạo ra được tính tích cực trong hoạt động của học sinh làm cho học sinh phải ý thức được đối tượng cần lĩnh hội, biết cách chiếm lĩnh được đối tượng đó. Đồng thời người thầy cũng phải có những phẩm chất và năng lực cần thiết.
1.1.4. Bản chất hoạt động học
Hoạt động học đặc thù của con người được điều khiển bởi mục đích tự giác là lĩnh hội những tri thức, kĩ năng, kĩ xảo mới, những hình thức hành vi và những dạng hoạt động nhất định.[20]
Hoạt động học chỉ có thể thực hiện ở trình độ khi mà con người có được khả năng điều chỉnh được những hoạt động của mình bởi mục đích đã được ý thức.
Bản chất của hoạt động học được thể hiện qua những nội dung sau đây:
+ Hoạt động học là hoạt động hướng vào làm thay đổi chính mình: Trong khi các hoạt động khác hướng vào nhằm thay đổi đối tượng thì hoạt động học tập lại làm cho chính chủ thể của hoạt động (trò) thay đổi và phát triển trong quá trình thực hiện hoạt động. Học trong hoạt động, học bằng hoạt động. Học là hoạt động để chiếm lĩnh tri thức của loài người. Nội dung của các tri thức này không bị thay đổi sau khi chủ thể chiếm lĩnh, chính nhờ có sự chiếm lĩnh này mà tâm lý của chủ thể thay đổi và phát triển.
+ Đối tượng của hoạt động học là những tri thức kĩ năng kĩ xảo tương ứng với nó. Muốn học có kết quả người học phải tích cực tiến hành các hoạt động học tập bằng chính ý thức tự giác và năng lực trí tuệ của bản thân.
Tuy nhiên hoạt động học cũng có thể làm thay đổi khách thể (đối tượng) nhưng việc làm thay đổi khách thể không phải là mục đích tự thân của hoạt động mà chính là phương tiện không thể thiếu của hoạt động này nhằm đạt được mục đích làm thay đổi chính chủ thể hoạt động. Thông qua đó người học ngày càng hoàn thiện chính mình.
+ Hoạt động học là hoạt động được điều khiển một cách có ý thức không những nhằm tiếp thu tri thức, kỹ năng, kỹ xảo mới mà còn tiếp thu tri thức của bản thân hoạt động (Phương pháp giành tri thức đó- cách học).
Với sự phân tích trên đây, ta thấy mối quan hệ giữa dạy và học. Hoạt động dạy diễn ra để tổ chức, điều khiển hoạt động học. Hoạt động học chỉ có đầy đủ ý nghĩa khi nó được diễn ra dưới sự tổ chức và điều khiển của hoạt động dạy. Muốn hoạt động dạy học cho chất lượng hiệu quả cao thì người giáo viên cần tổ chức, kiểm tra, định hướng hành động của học sinh theo một chiến lược hợp lý, sao cho học sinh tự chủ chiếm lĩnh, xây dựng tri thức cho mình. Qua đó, năng lực trí tuệ và nhân cách của họ từng bước phát triển.
1.2. Các luận điểm phương pháp luận chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học
Theo GS Phạm Hữu Tòng, d¹y häc c¸c m«n khoa häc ë nhµ trêng kh«ng chØ ®¬n thuÇn nh»m mét môc tiªu duy nhÊt lµ