Đề tài Nguồn gốc văn hóa Vedic

Ngay từ khi chưa sinh ra con người đã nhập thân vào môi trường văn hóa. Bản thân con người và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau. Con người vừa là chủ nhân của văn hóa đồng thời cũng là sản phẩm do môi trường văn hóa đó sản sinh, bồi dưỡng. Con người mang trong mình dòng chảy của văn hóa và đồng thời cũng là đại diện tiêu biểu của văn hóa. Mỗi con người đều mang trong mình một giá trị văn hóa. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng đều hình thành cho mình một nền văn hóa với những đặc trưng riêng. Đặc điểm đó đã cấu thành nên nền văn hóa nhân loại đa dạng, phong phú, mang đậm những sắc hương.Và Ấn Độ chính là một sắc hương tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa rộng lớn đó. Nhắc đến Ấn Độ là nhắc đến đất nước của hàng ngàn tôn giáo và hàng triệu vị thánh thần, vùng đất của những vũ điệu, lời ca ngây ngất lòng người, xứ sở của những huyền thoại, khúc tráng ca và cả những sử thi mà âm hưởng của nó còn vang vọng mãi đến hiện tại. Văn hóa Ấn Độ giống như một dòng sông chảy qua biết bao thăng trầm của thời gian, không gian, được thành tạo từ biết bao chi lưu, phụ lưu văn hóa các tiểu vùng, cũng như văn hóa qua các giai đoạn lịch sử. Một trong những giai đoạn lịch sử văn hóa tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa Ấn Độ không thể không nhắc tới đó chính là thời kỳ văn hóa Vedic. Đúng như tên gọi của nó “ văn hóa Vedic”, cụ thể hơn là khái niệm “ Vedic” gợi nhắc đến tất cả những gì gắn liền với kinh Veda. Trải qua biết bao thế hệ, bao thăng trẩm của thời gian văn hóa Vedic đã ăn sâu vào tiềm thức, linh hồn của người Ấn cũng như văn hóa tinh thần của dân tộc Ấn. Sẽ là một thiếu sót lớn khi nghiên cứu văn hóa Ấn Độ mà bỏ qua nền tảng tinh thần là văn hóa Vedic. Tuy nhiên, có một vấn đề vướng mắc đang xảy ra đối với nghiên cứu văn hóa Vedic hiện nay đó chính là việc xác định nguồn gốc văn hóa. Xung quanh vấn đề này còn tồn đọng nhiều những hoài nghi cũng như những bất đồng trong quan điểm của các nhà nghiên cứu. Một là luồng ý kiến văn hóa Vedic là sản phẩm bản địa và luồng ý quan điểm thứ hai hoàn toàn trái ngược văn hóa Vedic là sản phẩm ngọai sinh. Giả thuyết đó đã đẩy Ấn Độ đứng trước một thách thức lớn, rất có thể văn hóa Vedic, nền văn hóa tinh thần nuôi dưỡng bao thế hệ người dân Ấn Độ lại là sản phẩm nảy sinh bên ngoài Ấn Độ. Việc tìm lời giải đáp cho câu hỏi về nguồn gốc văn hóa Vedic không còn là vấn đề của văn hóa mà còn là vấn đề của lịch sử, chính trị, thậm chí vị thế quốc gia, lòng tự tôn dân tộc

docx21 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1624 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nguồn gốc văn hóa Vedic, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN KHOA ĐÔNG PHƯƠNG HỌC *** / Niên luận NGUỒN GỐC VĂN HÓA VEDIC Giảng viên hướng dẫn : ThS. Lê Thị Hằng Nga Nơi công tác : Viện nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á Sinh viên thực hiện : Vũ Thị Hà MSSV : 09030291 Lớp : K54 - Ấn Độ học HÀ NỘI,(1/2012) MỤC LỤC Phần mở đầu 3 1. Văn hóa Vedic 5 2. Chủ nhân của văn hóa Vedic 6 3. Tính chất bản địa của người Indo - Aryan 7 3.1. Sự hoài nghi về tính chất bản địa của người Ấn – Aryan và giả thuyết nguồn gốc quê hương người Aryan. 7 3.2. Niên đại về sự hiện diện của người Aryan tại Ấn Độ 11 3.3. Vị trí bản địa của người Aryan nhìn nhận từ một số khía cạnh văn hóa vật chất và bằng chứng khảo cổ học. 13 Kết luận 19 Tài liệu tham khảo 20 Phần mở đầu Ngay từ khi chưa sinh ra con người đã nhập thân vào môi trường văn hóa. Bản thân con người và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau. Con người vừa là chủ nhân của văn hóa đồng thời cũng là sản phẩm do môi trường văn hóa đó sản sinh, bồi dưỡng. Con người mang trong mình dòng chảy của văn hóa và đồng thời cũng là đại diện tiêu biểu của văn hóa. Mỗi con người đều mang trong mình một giá trị văn hóa. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng đều hình thành cho mình một nền văn hóa với những đặc trưng riêng. Đặc điểm đó đã cấu thành nên nền văn hóa nhân loại đa dạng, phong phú, mang đậm những sắc hương.Và Ấn Độ chính là một sắc hương tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa rộng lớn đó. Nhắc đến Ấn Độ là nhắc đến đất nước của hàng ngàn tôn giáo và hàng triệu vị thánh thần, vùng đất của những vũ điệu, lời ca ngây ngất lòng người, xứ sở của những huyền thoại, khúc tráng ca và cả những sử thi mà âm hưởng của nó còn vang vọng mãi đến hiện tại. Văn hóa Ấn Độ giống như một dòng sông chảy qua biết bao thăng trầm của thời gian, không gian, được thành tạo từ biết bao chi lưu, phụ lưu văn hóa các tiểu vùng, cũng như văn hóa qua các giai đoạn lịch sử. Một trong những giai đoạn lịch sử văn hóa tiêu biểu trong dòng chảy văn hóa Ấn Độ không thể không nhắc tới đó chính là thời kỳ văn hóa Vedic. Đúng như tên gọi của nó “ văn hóa Vedic”, cụ thể hơn là khái niệm “ Vedic” gợi nhắc đến tất cả những gì gắn liền với kinh Veda. Trải qua biết bao thế hệ, bao thăng trẩm của thời gian văn hóa Vedic đã ăn sâu vào tiềm thức, linh hồn của người Ấn cũng như văn hóa tinh thần của dân tộc Ấn. Sẽ là một thiếu sót lớn khi nghiên cứu văn hóa Ấn Độ mà bỏ qua nền tảng tinh thần là văn hóa Vedic. Tuy nhiên, có một vấn đề vướng mắc đang xảy ra đối với nghiên cứu văn hóa Vedic hiện nay đó chính là việc xác định nguồn gốc văn hóa. Xung quanh vấn đề này còn tồn đọng nhiều những hoài nghi cũng như những bất đồng trong quan điểm của các nhà nghiên cứu. Một là luồng ý kiến văn hóa Vedic là sản phẩm bản địa và luồng ý quan điểm thứ hai hoàn toàn trái ngược văn hóa Vedic là sản phẩm ngọai sinh. Giả thuyết đó đã đẩy Ấn Độ đứng trước một thách thức lớn, rất có thể văn hóa Vedic, nền văn hóa tinh thần nuôi dưỡng bao thế hệ người dân Ấn Độ lại là sản phẩm nảy sinh bên ngoài Ấn Độ. Việc tìm lời giải đáp cho câu hỏi về nguồn gốc văn hóa Vedic không còn là vấn đề của văn hóa mà còn là vấn đề của lịch sử, chính trị, thậm chí vị thế quốc gia, lòng tự tôn dân tộc Nói như J. Nehru: “Một cá nhân con người, một chủng tộc hay một dân tộc, tất yếu phải có một chiều sâu lịch sử nhất định và một cội rễ nhất định. Họ được đánh giá cao bởi có một nguồn gốc trong quá khứ. Quá khứ trước hết chính là sự tích luỹ những kinh nghiệm và sự khôn ngoan qua các thế hệ. Điều cơ bản là phải có cái đó. Nếu không người ta chỉ là bản sao nhợt nhạt của một cái gì đó không có ý nghĩa tiêu biểu cho một cá nhân hay một nhóm.”. Tuy nhiên cho đến nay, đây vẫn là vấn đề chưa tìm được lời giải thích thỏa đáng. Thậm chí có thể cũng một vấn đề hay một nguồn sử liệu mỗi học giả lại có những lập luận khác nhau, cách nhìn khác nhau. Cũng bởi vậy trong bài nghiên cứu này người viết xin được đề cập vấn đề nguồn gốc văn hóa Vedic dưới nhiều điểm nhìn khác nhau, bao gồm ý kiến của các học giả trong quá khứ cũng như hiện tại với hy vọng có một cái nhìn bao quát, khách quan hơn khi xem xét vấn đề này. Vậy thực chất đâu là trả lời cho câu hỏi lịch sử ? Văn hóa Vedic ra đời từ khi nào? Ai chính là chủ nhân của văn hóa Vedic? Câu trả lời cho vấn đề nguồn gốc văn hóa Vedic phụ thuộc lớn vào việc xác định thế nào là văn hóa Vedic, nguồn gốc cư dân sáng tạo ra nền văn hóa này cũng như việc giả mã những bằng chứng, lập luận trong lịch sử. 1. Văn hóa Vedic Nền tảng đầu tiên cho mọi nghiên cứu về văn hóa Vedic chính là hiểu biết về nội hàm khái niệm “Văn hóa Vedic”. Tuy nhiên, đó không phải là một công việc dễ dàng. “Văn hóa Vedic” là một khái niệm lớn bao hàm hai khái niệm nhỏ: văn hóa, Vedic. Văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội Vậy Vedic là gì? Theo từ điển The free dictionary by Farlex, Vedic xét ở góc độ tôn giáo được hiểu là tất cả những gì thuộc hoặc liên quan đến kinh Veda, hay những tác phẩm được viết bằng mẫu thức cổ xưa của tiếng Phạn. Xét ở góc độ khoa học xã hội, tộc người, Vedic là những gì thuộc hay có quan hệ với cư dân Ấn Âu cổ xưa định cư tại Ấn Độ, được coi như những người khởi thủy cho những truyền thống được bảo lưu trong kinh Veda. Trong lĩnh vực ngôn ngữ học,Vedic được coi như hình thức cổ xưa của tiếng Sankrit, ngôn ngữ của kinh Veda được nhắc tới ở trên. Theo như Upinder Singh: “Thời kỳ văn hóa được phản ánh trong hai giai đoạn rộng lớn văn học Vedic thời kỳ đầu và sau được biết đến như là giai đoạn sơ kì và hậu kỳ của văn hóa Vedic.” Trong quá khứ việc nghiên cứu văn hóa tiểu lục địa Ấn Độ chủ yếu tập trung nghiên cứu văn hóa Vedic và khu vực phía Bắc và Tây Bắc Ấn Độ mà bỏ qua những khu vực khác. Tuy nhiên, bản thân khái niệm văn hóa Vedic không bao hàm hay trùng khít với khái niệm văn hóa Ấn Độ. Càng khó hơn khi giới hạn một miền không gian hay địa lý cho một văn hóa cụ thể. Như vậy, khái niệm văn hóa Vedic được đề cập tới là một khái niệm mang tính chất khoa học xã hội, tôn giáo, tộc người hơn là một khái niệm bao hàm yếu tố địa lý. Nội hàm khái niệm văn hóa Vedic được thể hiện trên ba lớp ý nghĩa. Một là, khái niệm dùng để mô tả nền văn hóa được định hình dựa trên những gì liên quan hoặc thuộc về kinh Veda. Hai là, nền văn hóa gắn liền với tiếng Sankrit. Ba là, nền văn hóa có mối tương quan với với cư dân nói ngôn ngữ Ấn Âu – dưới thế kỷ XIX được biết đến với cái tên người Aryan Việc lí giải khái niệm “văn hóa Vedic” cũng như nghiên cứu nguồn gốc nền văn hóa này đã làm nảy sinh hàng loạt những câu hỏi liên quan. Ai đã sáng tạo nên nền văn hóa này? Những người Aryan là ai? Và họ đến từ đâu? 2. Chủ nhân của văn hóa Vedic Trong suốt khoảng thế kỷ XIX đến nửa đầu thế kỷ XX, khi mà phần lớn các quốc gia châu Á, châu Phi nằm dưới ách thống trị của thực dân phương Tây, rất nhiều các học giả đã tư duy về lịch sử trên phương diện các phong trào và sự tương tác của các chủng tộc khác nhau. Khái niệm “race” hay “ chủng tộc” được các học giả sử dụng lỏng lẻo dùng trong mô tả một dân tộc hay một nhóm văn hóa được sử dụng song hành cùng với khái niệm “ chủng tộc” dựa trên những đặc điểm nhân chủng truyền thống. Khái niệm “người Aryan” được ra đời trong hoàn cảnh đó. “Aryan” lúc đó được coi như chủng tộc thượng đẳng, tóc vàng, mắt xanh, nói ngữ hệ Ấn Âu. Những người Ấn Aryan đồng thời cũng được coi là tác giả của bộ kinh Veda và đồng thời cũng là chủ nhân của văn hóa Vedic. Tuy nhiên ngày nay khái niệm “Ấn – Aryan” được sử dụng chủ yếu trên phương diện ngôn ngữ hơn là một khái niệm mang sắc thái chủng tộc. Người Ấn – Aryan thực chất là nhóm người nói tiểu nhánh ngôn ngữ Ấn – Iran trong gia đình ngôn ngữ Ấn Âu. Vậy những người Ấn – Aryan đến từ đâu? Bức màn bí mật về nguồn gốc văn hóa Vedic chỉ có thể được làm sáng tỏ thông qua việc tìm hiểu về nguồn gốc của cư dân Ấn – Aryan 3. Tính chất bản địa của người Indo - Aryan 3.1. Sự hoài nghi về tính chất bản địa của người Ấn – Aryan và giả thuyết nguồn gốc quê hương người Aryan. Sự phát hiện ra những ngôn ngữ không phải tiếng Sankrit tại miền Nam Ấn đã cung cấp những chất liệu quan trọng cho nhiều học giả hoài nghi tính chất bản địa của người Aryan. Đến khoảng giữa thế kỷ XIX, hầu hết các học giả châu Âu đều chấp nhận sự tồn tại của ngôn ngữ Dravidian như một bằng chứng chứng minh người Aryan không phải là cư dân bản địa tại tiểu lục địa. Trong một tác phẩm xuất bản 1856, Caldwell đã chứng minh rằng giữa ngôn ngữ Sankrit, Dravidian và một số ngôn ngữ Nam Á khác có chứa một số đặc điểm chung về cú pháp cũng như hình thái học. Điều mà không hề tồn tại giữa tiếng Sankrit và các ngôn ngữ khác thuộc nhóm ngôn ngữ Ấn Âu. Các nhà ngôn ngữ đã chứng minh có một số lượng lớn các từ trong tiếng Sankrit được mượn từ các ngôn ngữ như Dravidian, Munda. Nghiên cứu của Burrow về tên các loài thực vật bản địa tồn tại ở miền Bắc Ấn đã cho thấy có một số lượng lớn tên các loài thực vật này là những từ không thuộc tiếng Sankrit hay những đặc điểm tương đồng với ngôn ngữ Ấn Âu. Kết luận này càng tăng lên mối hoài nghi về tính chất bản địa của những người Aryan. “Nếu những người Aryan là cư dân bản địa tại Ấn Độ, vì sao họ lại mượn tên những loài thực vật bản địa từ ngôn ngữ khác thay vì sử dụng chính những từ họ sáng tạo từ gốc ngôn ngữ Ấn – Aryan của mình.” Luận điểm này lần lượt được bổ sung bởi Mausica (1991), ông đã chứng minh có đến khoảng 80 % số từ liên quan đến nông nghiệp trong tiếng Hindi không thuộc ngôn ngữ Ấn Âu, trong đó khoảng 55 % là không rõ nguồn gốc, 7.6 % là những từ trong ngôn ngữ Dravidian. Kết quả này càng bổ sung cho giả thuyết người Aryan vốn có nguồn gốc từ những cư dân du mục. Thực tế những nỗ lực trong việc làm sáng tỏ nguồn gốc của người Aryan đã được các học giả Đông và Tây chứng minh qua nhiều thế kỷ. Câu hỏi liệu người Aryan có phải là người bản địa tại Ấn Độ đã gây ra mối bất đồng lớn trong giới nghiên cứu Đông phương. Ngay từ đầu tế kỷ XVIII, đầu XIX Ấn Độ nổi lên như ứng cử viên sáng giá cho quê hương người Aryan. Tuy nhiên, quan điểm này đã dần dần mất vị trí sau đó và thay bằng vô số những giả thuyết mới. Vô số những giả thuyết về quê hương của người Aryan đã được hình thành. Rask, Alexander Murray với nguồn gốc châu Á. John Baldwin đề cập Bactria. Quê hương của người Aryan lần lượt được mở rộng từ Phần Lan, bán đảo Scandinavi đến Đức, Nga, cho tới vùng Cận Đông, Trung Á…A. H. Sayce (1875): “Tổng kết đó đã chứng minh rằng nguồn gốc quê hương của họ (người Aryan) là ở châu Á và cụ thể hơn đó là vùng cao nguyên của dãy Hindu Kush”. Max Muller (1887) cho rằng: “Nếu có một câu trả lời về nơi mà tổ tiên Aryan của chúng ta định cư trước khi phân chia…Tôi vẫn chỉ nói rằng, giống như bốn mươi năm trước, “nơi nào đó ở châu Á” và không hơn nữa”. Một trong những lí thuyết tiêu biểu về quê hương người Aryan phải kể đến đó là “lý thuyết Kurgan” của Gimbutas. Marijas Gimbutas đã mất hơn nửa thế kỷ để chứng minh quê hương của người Aryan là vùng Uralic, Volga. Lý thuyết của ông dựa trên những bằng chứng khảo cổ học về văn hóa Kurgan, với đặc trưng là những đồi, gò mai táng (Kurgan trong tiếng Slavic và Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa “mộ”). Ông tranh luận rằng nền văn hóa này có liên quan mật thiết văn hóa của cư dân nói ngôn ngữ Ấn Âu. Điểm quan trọng trong lý thuyết của ông đó là cư dân văn hóa Kurgan hầu hết là những chiến binh cưỡi ngựa, họ sử dụng vũ khí, chiến tranh để mở rộng văn hóa của họ tới khu vực lân cận châu Âu cổ, tạo điều kiện cho sự mở rộng của cộng đồng cư dân Ấn Âu Tuy nhiên, Mallory (1989) đã tranh luận rằng: “Hầu như tất cả các cuộc tranh luận về sự xâm lăng hay chuyển dịch văn hóa đã được giải thích cho đến giờ đều không đề cập đến sự mở rộng Kurgans và phần lớn những bằng chứng hiện diện đến giờ hoặc là hoàn toàn mâu thuẫn với những bằng chứng khác hoặc là kết quả của sự nhầm lẫn trắng trợn về lịch sử văn hóa của châu Âu”. Ngược lại, Dolgopolsky (1990-1993) lại cho rằng: “Những từ mượn kết nối giữa Ấn Âu và Semit đã chứng minh rằng những người nói ngôn ngữ tiền Ấn Âu và tiền Semit đã sống ở khu vực địa giới gần gặn, điều đó có thể là cái chúng ta chấp nhận ở lý thuyết Gimbutas và Mallory về vùng đồng cỏ tiền Caspi như là quê hương của ngôn ngữ tiền Ấn Âu.” Bên cạnh lý thuyết về văn hóa Kurgan, quan điểm của Renfew về quê hương Tây Anatolia (Thổ Nhĩ Kỳ) cũng là một giả thuyết đáng lưu ý. Trái với giả thuyết của Gimbutas về những đồng cỏ rộng lớn và một dân tộc hiếu chiến. Renfew cho rằng sự lan rộng của của ngôn ngữ châu Âu hay sự di chuyển của người Aryan dựa trên nhu cầu về nông nghiệp, khoảng 7000 năm trước đây người Anatolia đã di cư, tìm đến những vũng đất mới. Crossland (1988) đã thắc mắc tại sao khu vực Anatolia lại được lựa chọn là quê hương của người Aryan. Ngôn ngữ Ấn Âu quả thực đã được phát hiện tại đây, Hittite, có rất ít ảnh hưởng đến các ngôn ngữ xung quanh và bản thân nó chỉ là một nhóm ngôn ngữ nhỏ giống như Hurrian hay Hattic. Zimer (1990) đã chỉ ra rằng không có bất cứ một từ nào về lúa mì, lúa mạch trong ngôn ngữ tiền Ấn Âu, mùa vụ nông nghiệp cơ bản mà Renfew đề cập. Cho đến giờ giả thuyết về quê hương Tây Anatolia cũng như bản chất nông nghiệp trong kinh tế của cư dân nói ngôn ngữ Ấn Âu của Renfew vẫn là một giả thuyết gây nhiều tranh luận. Gamkrelidze và Ivanov (1983) lại đã đề xuất một quan điểm khác về quê hương của những người Aryan, không phải là Tây mà là Đông Anatolia. Dựa trên những bằng chứng về từ mượn đặc biệt là từ mượn trong tiếng Semit để định vị cho quê hương người Aryan gần khu vực Trung Đông. Sử sụng phương pháp cổ sinh vật học ngôn ngữ, hai nhà ngôn ngữ học này đã tái hiện lại bối cảnh địa lý quê hương nơi cư dân Ấn Âu xưa kia sinh sống, dựa trên nhóm những từ chỉ núi cao, hồ trên núi hay những dòng sông bắt nguồn từ núi cao. Họ tranh luận rằng đặc điểm thiên nhiên đồi núi như vậy không đúng với khu vực những đồng bằng trung tâm châu Âu nhưng lại khá gần gũi với địa hình khu vực phía Đông Anatolia gần Cáp-ca-dơ. Tuy nhiên quan điểm này của học cũng vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ từ các học giả khác như D’iakonov người ủng hộ giả thuyết quê hương Ban Căng. Mallory và Gimbutas thì cho rằng quan điểm quê hương Đông Antolia không gắn liền với những bằng chứng khảo cổ học. Các học giả hầu hết đến từ châu Âu trong hai thế kỷ qua đã cố gắng dựng lên một bức tranh quê hương người Aryan bên ngoài Ấn Độ. Người Aryan được nhìn nhận từ góc độ của họ giống như một dân tộc xa lạ, cách đây nhiều thế kỷ đã đến Ấn Độ cũng như nhiều vùng đất khác trên thế giới. Quan điểm này của các học giả phương Tây vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của các nhà nghiên cứu Ấn Độ mà chủ yếu là học giả theo trường phái dân tộc chủ nghĩa như: B. G. Tilak, Chakrabarti,… Viễn cảnh những người Aryan bản địa được xây dựng như một đối trọng với hình ảnh người Aryan giống như một dân tộc xa lạ. Người Aryan bản địa được mô phỏng cư ngụ tại khu vực phía Tây Bắc tiểu lục địa Ấn Độ, trên vùng núi cao, sống bằng nghề du mục, săn bắn. Một ý tưởng khác cũng được các học giả xây dựng nên đó là giả thuyết về Ấn Độ với tư cách là quê hương của ngôn ngữ tiền Ấn Âu, thậm chí là quê hương của của tất cả các ngôn ngữ và văn minh trên thế giới. Những bất đồng xung quanh việc xác lập vị trí bản địa của người Aryan chính là hạt mầm cho những xung đột và hoài nghi về nguồn gốc của văn hóa Vedic. Liệu văn hóa Vedic là sản phẩm của cư dân bản địa hay là sản phẩm có nguồn gốc ngoại sinh. Câu trả lời chỉ có được khi vấn đề nguồn gốc bản địa của người Aryan được làm sáng tỏ. Vậy chúng ta nên nhìn nhận vấn đề này như thế nào? Làm sao có thể xác định cư dân nói ngôn ngữ Ấn Âu có phải là cư dân bản địa tại Ấn Độ hay không. Những cố gắng dưới đây của người viết mong tìm được câu trả lời cho câu hỏi đó. 3.2. Niên đại về sự hiện diện của người Aryan tại Ấn Độ Mục đích của việc xác định này nhằm trả lời câu hỏi người Aryan xuất hiện tại Ấn Độ từ bao giờ và vị trí xuất hiện của họ so với những nhóm cộng đồng khác. Ngay từ những thế kỷ trước các học giả Đông phương học Đông và Tây đã có gắng xác định một mốc thời gian cụ thể về sự hiện diện của cư dân nói ngôn ngữ Ấn Âu trên tiểu lục địa Ấn Độ. Việc xác định niên đại kinh Veda được tiến hành với hi vọng có thể cung cấp một bằng chứng quan trọng về sự xuất hiện của người Aryan. Max Muller là một trong những học giả đầu tiên đề cập đề đến niên đại cụ thể cho kinh Veda. Trong cuốn History of Ancient Sankrit Literature, Max Mulller đã chia văn chương Sankrit ra làm bốn thời kỳ: Chhandas, Mantra, Brahmana và Sutra. Ông cho rằng các tác phẩm Vedanga, Sutra ra đời ứng với giai đoạn đầu của Phật giáo do vậy chúng có niên đại khoảng 600 – 200 TCN. Thời kỳ Brahmana là thời kỳ trước văn học Sutra đồng thời mất ít nhất khoảng 200 năm cho việc tập hợp và biên soạn Brahmana. Do vậy thời kỳ văn học Bramana có niên đại trong khoảng 800 – 600 TCN. Vedic Samhita ra sớm hơn cả Bramana do vậy niên đại của nó cũng khoảng xấp xỉ 1000 – 800 TCN. Những bài thánh ca Vedic cũng phải trải qua ít nhất hai trăm năm để tạo dựng, do vậy kinh Veda đã có niên đại khoảng 1200 TCN. Tuy nhiên lý thuyết của Max Muller thực tế đã không làm thỏa lòng các học giả đặc biệt những nhà nghiên cứu ủng hộ Aryan với tư cách là cư dân bản địa trên tiểu lục địa. Nhiều nhà nghiên cứu như H. H. Wilson, G. Buler, H. Jacobi, B. G. Tilak,… đã thiết lập những lập luận mới với mong muốn xác lập một niên đại mới cho kinh Veda thông qua đó đem đến cách nhìn nhận mới trong vấn đề nguồn gốc bản địa của người Aryan. Maurice Winterniz đề cập thời điểm bắt đầu của văn học Vedic vào khoảng 2500 – 2000 TCN. Bằng việc xem xét những bằng chứng về thiên văn học trong Rig Veda, Ludwig đã tính toán thời điểm ra đời của các tác phẩm Vedic vào khoảng thế kỷ XI TCN, trong khi cũng với bằng chứng đó Jacobi đã đưa niên đại này lên tới 3000 TCN, và Tilak là 6000 năm cho thời gian ra đời của Rig Veda Vị trí của những người Aryan bản địa đã có thể được củng cố với một niên đại cổ xưa hơn cho kinh Veda. “Nếu Rig Veda có niên đại sớm hơn ít nhất một ngàn năm so với niên đại chung được chấp nhận hiện nay thì khả năng về việc các ngôn ngữ như Dravidian, Munda hay một ngôn ngữ chưa rõ tên ảnh hưởng lên tiếng Sankrit Vedic là kết quả của những người nói những ngôn ngữ này chịu tác động trên những khu vực nói tiếng Ấn Aryan sau khi các ngôn ngữ khác biến mất hoặc ngược lại” Tuy nhiên cho đến hiện tại vẫn dường như vẫn chưa có một quan điểm thống nhất về niên đại ra đời của của kinh Veda. “ Đó là một thực tế, một thực tế đáng buồn khi phải thừa nhận rằng quan điểm của những học giả ưu tú nhất cũng rất khác nhau, nó không chỉ mở rộng vài thế kỷ mà còn mở rộng tới vài ngàn năm với việc xác định niên đại Rig Veda.”. Những hoài nghi đó khiến cho bằng chứng về việc xác định niên đại kinh Veda với tư cách là căn cứ chứng minh vị trí bản địa của người Aryan trở nên lỏng lẻo thiếu vững chắc. 3.3. Vị trí bản địa của người Aryan nhìn nhận từ một số khía cạnh văn hóa vật chất và bằng chứng khảo cổ học. Vậy nên nhìn nhận như thế nào về vị trí người Aryan. Họ có thực sự là những cư dân bản địa tại Ấn Độ. Vấn đề này chỉ có thể được làm sáng tỏ dưới góc nhìn đa diện. Cụ thể trong phần này người viết xin được đề cập vấn đề này dưới khía góc độ phân tích một số yếu tố văn hóa vật chất cũng như khảo cổ học. 3.3.1. Ngôn ngữ Ngôn ngữ là một nhân tố cơ bản trong nghiên cứu văn hóa một tộc người bởi ngôn ngữ trở phản ánh tư duy cũng như kinh nghiệm tích lũy trong quá trình con người lao động, sản xuất ra của cải vật chất cũng như sáng tạo ra văn hóa tinh thần. Ngôn ngữ gắn với cư dân Aryan tại Ấn Độ chính là tiếng Sankrit mà cụ thể là tiếng Sankrit ngôn ngữ gắn liền với kinh Veda. Vậy ngôn ngữ của người Aryan tại Ấn Độ nói gì về nguồn gốc của họ. Nghiên cứu của các học giả về vấn đề này tập trung ở hai phương diện. Một là những so sánh đối chiếu tiếng Sankrit với các ngôn ngữ trong nội vi tiểu lục địa Ấn Độ mà đại điện tiêu biểu là các ngôn ngữ Dravidian nhằm đi tìm lời giải đáp cho cơ tầng ngôn ngữ bả
Tài liệu liên quan