Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù (người tù tha) là vấn đề từ lâu đã mang tính xã hội và thời sự. Hình phạt tù là hình phạt cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội đưa họ vào môi trường trại giam để quản lý và giáo dục tập trung theo quy định của pháp luật. Sau khi ra tù trở về với cuộc sống đời thường liệu người tù tha có thực sự hòa nhập với gia đình, với cộng đồng ổn định cuộc sống, trở thành công dân có ích cho xã hội? Đây là vấn đề không chỉ của bản thân đối tượng được tha tù trở về, của gia đình họ mà nó là vấn đề nhà nước và xã hội cùng quan tâm. Đây là giai đoạn sau của thi hành án phạt tù, kết quả của nó sẽ đánh giá hiệu quả thực sự của quá trình người phạm tội đã được giáo dục, cải tạo trong trại giam. Bản thân người đã chấp hành xong hình phạt tù trở về với tư cách là một thành viên của cộng đồng, họ được khôi phục các quyền và nghĩa vụ công dân, họ rất cần sự giúp đỡ của người thân, gia đình và xã hội cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.
Nhưng trên thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm thực sự. Vì người chấp hành xong hình phạt tù không còn bị ràng buộc pháp lý nữa trừ việc xóa án tích hay chấp hành hình phạt bổ sung. Nhiều người quan niệm ra tù là hết trách nhiệm với nhà nước và nhà nước cũng hết trách nhiệm. Nên nhiều khi vấn đề tái hòa nhập cộng đồng chỉ là vấn đề của bản thân người ra tù.
Nhưng trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ qua chức năng, cộng đồng xã hội và gia đình rất quan tâm tới công tác giáo dục cải tạo, tạo mọi điều kiện giúp cho quá trình hoàn lương một số đối tượng là tù tha nhằm mục đích đưa họ về cuộc sống cộng đồng và trở thành một con người tiến bộ.
Công tác giáo dục và cải tạo những đối tượng đã chấp hành xong hình phạt tù trong quá trình trở về địa phương đã thu được một ssó kết quả nhất định. Nhưng trong số đó thì tỷ lệ người hoàn lương sau khi tái hoà nhập con thấp. Điều này dang thực sự là một khó khăn và thách thức cho xã hội.
Về quá trình tái hoà nhập của các đối tượng là tù tha bên cạnh những thuận lợi thì đa số các đối tượng này gặp những khó khăn nhất định và ảnh hưởng tới kết quả tái hoà nhập. Những khó khăn này xuất phát từ cả hai phía : chủ quan và khách quan.
Về phía khách quan, khó khăn lớn nhất và gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ tới quá trình hoàn lương của chị em đó là định kiến xã hội, bởi vậy con đường hoàn lương của các đối tượng là tù tha gặp nhiều gian nan, trắc trở. Dư luận xã hội và gia đình chưa thật sự cảm thông, đón nhận người con lầm lạc trở về, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập cộng đồng. Các thiết chế xã hội giúp các đối tương tù tha này hoàn lương hiệu quả chưa cao.
Về phía chủ quan, việc không ít những người tù tha này họ nhận thúc về đặc điểm nhân thân của họ, đặc điểm tâm lý rất thường gặp ở người tù tha trở về là thái độ mặc cảm, tự ti, e ngại tiếp xúc với cộng đồng. Hơn nữa do đặc điểm về trình độ văn hóa của các đối tượng này thường thấp chủ yếu là văn hóa cấp I, II chiếm 70%, cấp III chiếm 28%, cấp III trở lên chỉ chiếm 2%. Chính sự hạn chế trình độ văn hóa làm người tù tha trở về khó nhận thức đúng đắn quá trình trở về làm lại cuộc đời và hũa nhập với cộng đồng nơi mình đang sinh sống. . . đồng nghĩa với điều trên là là đồng nghĩa với việc không tán đồng với những chuẩn, quy phạm đạo đức của xã hội, có thái độ bất cần và xem thường những chuẩn mực đó.
Như vậy, có thể thấy rằng quá trình tái hoà nhập của người tù tha sẽ không có hiệu quả nếu như họ nhận thức không đầy đủ về quá trình tái hoà nhập xã hội cũng như hình thành cho mình tư thế tích cực hoàn lương trong quá trình trở về địa phương hoà nhập với cộng đồng.
Với lý do trên em đã lựa chọn nội dung : "Nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng" làm đề tài Niên luận nhằm làm sáng rõ những nhận thức chung, và thực tiễn thi hành công tác này ở nước ta hiện nay và thực trạng tái hoà nhập của các đối tượng tù tha hiện nay. Qua đó đóng góp một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách pháp luật, xã hội về vấn đề này.
21 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2444 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
Phần 1 :Phần mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Đối tượng nghiên cứu
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
4. Mục đích nghiên cứu
5. Giả thuyết nghiên cứu
6. Các phương pháp nghiên cứu
Phần 2. Cơ sở lý luận chung
1. Các khái niện cơ bản
1. Khái niệm nhận thức
2. Khái niệm nhu cầu
3. Khái niệm định kiến xã hội
4. Nhận thức chung về đối tượng chấp hành xong hình phạt tù
5. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng
6. Khái niệm tự đánh giá.
2. Một số đặc điểm tâm lý trong quá trình tái hoà nhập cho những người đã chấp hành xong hình phạt tù
Phần 3. Phần kết luận
Tài liệu tham khảo
PHẦN 1 : PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Tái hòa nhập cộng đồng cho người chấp hành xong hình phạt tù (người tù tha) là vấn đề từ lâu đã mang tính xã hội và thời sự. Hình phạt tù là hình phạt cách ly người phạm tội ra khỏi xã hội đưa họ vào môi trường trại giam để quản lý và giáo dục tập trung theo quy định của pháp luật. Sau khi ra tù trở về với cuộc sống đời thường liệu người tù tha có thực sự hòa nhập với gia đình, với cộng đồng ổn định cuộc sống, trở thành công dân có ích cho xã hội? Đây là vấn đề không chỉ của bản thân đối tượng được tha tù trở về, của gia đình họ mà nó là vấn đề nhà nước và xã hội cùng quan tâm. Đây là giai đoạn sau của thi hành án phạt tù, kết quả của nó sẽ đánh giá hiệu quả thực sự của quá trình người phạm tội đã được giáo dục, cải tạo trong trại giam. Bản thân người đã chấp hành xong hình phạt tù trở về với tư cách là một thành viên của cộng đồng, họ được khôi phục các quyền và nghĩa vụ công dân, họ rất cần sự giúp đỡ của người thân, gia đình và xã hội cho họ cơ hội làm lại cuộc đời.
Nhưng trên thực tế, vấn đề này chưa được quan tâm thực sự. Vì người chấp hành xong hình phạt tù không còn bị ràng buộc pháp lý nữa trừ việc xóa án tích hay chấp hành hình phạt bổ sung. Nhiều người quan niệm ra tù là hết trách nhiệm với nhà nước và nhà nước cũng hết trách nhiệm. Nên nhiều khi vấn đề tái hòa nhập cộng đồng chỉ là vấn đề của bản thân người ra tù.
Nhưng trong thời gian qua, Đảng và Nhà nước, các cấp chính quyền, các cơ qua chức năng, cộng đồng xã hội và gia đình rất quan tâm tới công tác giáo dục cải tạo, tạo mọi điều kiện giúp cho quá trình hoàn lương một số đối tượng là tù tha nhằm mục đích đưa họ về cuộc sống cộng đồng và trở thành một con người tiến bộ.
Công tác giáo dục và cải tạo những đối tượng đã chấp hành xong hình phạt tù trong quá trình trở về địa phương đã thu được một ssó kết quả nhất định. Nhưng trong số đó thì tỷ lệ người hoàn lương sau khi tái hoà nhập con thấp. Điều này dang thực sự là một khó khăn và thách thức cho xã hội.
Về quá trình tái hoà nhập của các đối tượng là tù tha bên cạnh những thuận lợi thì đa số các đối tượng này gặp những khó khăn nhất định và ảnh hưởng tới kết quả tái hoà nhập. Những khó khăn này xuất phát từ cả hai phía : chủ quan và khách quan.
Về phía khách quan, khó khăn lớn nhất và gây ra ảnh hưởng mạnh mẽ tới quá trình hoàn lương của chị em đó là định kiến xã hội, bởi vậy con đường hoàn lương của các đối tượng là tù tha gặp nhiều gian nan, trắc trở. Dư luận xã hội và gia đình chưa thật sự cảm thông, đón nhận người con lầm lạc trở về, chưa tạo điều kiện thuận lợi cho họ hoà nhập cộng đồng. Các thiết chế xã hội giúp các đối tương tù tha này hoàn lương hiệu quả chưa cao.
Về phía chủ quan, việc không ít những người tù tha này họ nhận thúc về đặc điểm nhân thân của họ, đặc điểm tâm lý rất thường gặp ở người tù tha trở về là thái độ mặc cảm, tự ti, e ngại tiếp xúc với cộng đồng. Hơn nữa do đặc điểm về trình độ văn hóa của các đối tượng này thường thấp chủ yếu là văn hóa cấp I, II chiếm 70%, cấp III chiếm 28%, cấp III trở lên chỉ chiếm 2%. Chính sự hạn chế trình độ văn hóa làm người tù tha trở về khó nhận thức đúng đắn quá trình trở về làm lại cuộc đời và hũa nhập với cộng đồng nơi mình đang sinh sống. . . đồng nghĩa với điều trên là là đồng nghĩa với việc không tán đồng với những chuẩn, quy phạm đạo đức của xã hội, có thái độ bất cần và xem thường những chuẩn mực đó.
Như vậy, có thể thấy rằng quá trình tái hoà nhập của người tù tha sẽ không có hiệu quả nếu như họ nhận thức không đầy đủ về quá trình tái hoà nhập xã hội cũng như hình thành cho mình tư thế tích cực hoàn lương trong quá trình trở về địa phương hoà nhập với cộng đồng.
Với lý do trên em đã lựa chọn nội dung : "Nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng" làm đề tài Niên luận nhằm làm sáng rõ những nhận thức chung, và thực tiễn thi hành công tác này ở nước ta hiện nay và thực trạng tái hoà nhập của các đối tượng tù tha hiện nay. Qua đó đóng góp một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách pháp luật, xã hội về vấn đề này.
2. Đối tượng nghiên cứu :
Tìm hiểu nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Tìm hiểu nhận thức của những người sau khi chấp hành xong hình phạt tù về quá trình tái hoà nhập cộng đồng :
3.1. Nhận thức về nhu cầu tái hoà nhập cộng đồng của các đối tượng là tù tha trên cơ sở các chính sác đãi ngộ của Nhà nước và Pháp luật nước ta hiên nay.
3.2. Nhận thức của các đối tượng tù tha về định kiến xã hội, gia đình, bạn bè khi trở về cải tạo tại địa phương.
3.3. Nhận thức của các đối tượng tù tha tiến bộ trong quá trình tái hoà nhập cộng đồng.
3. 4. Nhận thức của các đối tượng tù tha tái phạm tội vi phạm pháp luật
4. Mục đích nghiên cứu :
4.1. Tìm hiểu nhận thức tái hoà nhập, thích nghi xã hội của những người vừa chấp hành xong hình phạt tù dưới các biện pháp giáo dục chuẩn bị về mạt tâm lý và các chính sách khoan hồng của Nhà nước, pháp luật của nước ta hiện nay.
4.2. Đề xuất một số biện pháp, kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục những đối tượng tù tha, giúp họ có được nhận thức đúng đắn nhất và trở thành những người có ích khi trở về hoà nhập với cộng đồng.
5. Giả thuyết nghiên cứu :
Thời gian được trở về điạ phương tự cải tạo, rèn luyên bản thân thì nhận thức tái hoà nhập, thích nghi xã hội của những người vừa chấp hành xong hình phạt tù đã dần dần được hình thành một cách đúng đắn, rõ nét và thực sự đã có sự chuẩn bị sẵn sàng cho hoạt động tái hoà nhập, thích nghi với xã hội.
Các đối tượng là tù tha nhận thức rõ ràng những khó khăn khi tái hoà nhập với xã hôi( mặc cảm, không có việc làm, định kiến. . . )
Mặt khác các chính sách, nghị quyết, văn bản, chỉ thị ưu đãi của nhà nước và pháp luật sẽ giúp cho quá trình hoàn lương của các đối tượng sau khi chấp hành xong hình phạt tù trở về địa phương cải tạo được nhanh chóng và sớm hoà nhập được với cộng đồng.
6. Các phương pháp nghiên cứu :
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
PHẦN 2 : CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG
I. Những khái niệm cơ bản
1. Khái niệm nhận thức
Trong quá trình hoạt động của con người nhận thức là một hoạt động không thể thiếu, nhận thức phản ánh hiện thực xung quanh và chính bản thân mình. trên cơ sở đó con người tỏ thái độ, tình cảm và hành động. Như vậy nhận thức càng sâu sắc, càng tích cực thì càng có cơ sở để có thể tiến hành những hành động phù hợp. Tuy nhiên, không phải mọi trường hợp cứ nhận thức đúng sẽ đi đến hành động đúng.
Theo Can-Tơ nhà triết học cổ điển Đức- cả trong các hệ thống của chủ nghĩa kinh nghiệm duy vật, nhận thức được xem xét như kết quả của hoạt động tư duy của chủ thể nhằm thấu hiểu thế giới bên ngoài. "Can Tơ muốn xây dưng một quan niệm nhận thức riêng của mình, đã đi đến kết luận rằng quan hệ của nhận thức cảm tính với nhận thức giác tính hay lý tính không phải là bậc thấp với bậc cao; Chúng đều là hai hành động khác nhau của trí tuệ. Ông cho rằng để hiểu được bản chất của nhận thức thì cần phải nghiên cứu chính bản thân tri thức. Can Tơ là người muốn nhấn mạnh tính tích cực của chủ thể trong nhận thức".
Nhờ hoạt động nhận thức, chúng ta không chỉ phản ánh hiện tượng xung quanh ta mà cả bản thân, không chỉ phản ánh cái hiện tại mà cả cái đã qua và sắp tới, quy luật phát triển của hiện thực. Nghĩa là hoạt động của nhận thức bao gồm nhiều quá trình khác nhau, mức độ phản ánh khác nhau :cảm giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng. . . những quá trình này sẽ cho chúng ta những sản phẩm khác nhau (hình ảnh, biểu tượng, khái niệm) toàn bộ hoạt động nhận thức có thể chia thành hai giai đoạn lớn :
+ Giai đoạn nhận thức cảm tính bao gồm cảm giác và tri giác.
+ Giai đoạn nhận thức lý tính có quan hệ chặt chẽ và tác động bổ sung cho nhau.
V. I. Lênin đã rút ra kết luận cho hoạt động nhận thức đó là :"từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý của sự nhận thức hiện thực khách quan". Hay "Nhận thức là sự phản ánh của thế giới khách quan vào bộ óc con người"
Có thể nói rằng nhận thức là quá trình phản ánh khách quan vào bộ óc của con người nhưng sự phản ánh này không chỉ giảm thụ động mà là quá trình biện chứng thể hiện tính tích cực của chủ thể trong mối quan hệ với khách thể.
Tóm lại, nhận thức là một quá trình, mang tính tích cực của con người, nhận thức là khả năng phản ánh những thuộc tính của sự vật hiện tượng với quan hệ của chung trong nhận thức khách quan thông qua thực tiễn của con người.
*Mối quan hệ giữ nhận thức và hành vi
Mối quan hệ giữa nhận thức và hành vi là mối quan hệ qua lại, bổ sung cho nhau. chỉ có được những hành vi đúng đắn khi có sự nhận thức đúng dắn và ngược lại, bằng việc thực hiện các hành vi chuẩn xác phù hợp mới tạo cho con người hoàn thiện trong nhận thức phản ánh đúng hiện thực khách quan, nhưng hành vi lại không phù hợp với nhận thức, nhânj thức sai lệch sẽ đễ dàng biến các hành vi bị lệch chuẩn. Có thể thấy rằng hành vi thao tác, công cụ của nhận thức để tác động vào hiện thực khách quan. Qua việc thực hiện hành vi chủ thể của hành vi có thể thay đổi được những nhận thức của họ.
Đối với những người vừa chấp hành xong hình phạt tù họ đều nhận thức được rằng phạm tội là một hành vi trái pháp luật, có ảnh hưởng xấu cho xã hội. Nhà nước và Pháp luật luôn luôn lên án và có những hình phạt đích đáng cho những ai có những hành vi tái với pháp luật. Và khi những người có những hành vi sai lệch các chuẩn mực đạo đức của xã hội, họ đã phải chịu những hình phạt đó là cải tạo trong các trại tạm giam, các trung tâm giáo dưỡng đó là quá trình giúp họ nhìn nhận lại hành vi sai trái của mình từ đó tự kiểm điểm và cải tạo sửa chữa lỗi lầm của mình. Sau thời gian cải tạo tốt trong các trại tạm giam, trung tâm giáo dưỡng họ được trở về địa phương và nhận được các chế độ ưu đái của Nhà nước và pháp luật giúp họ sớm hoàn lương hoà nhập với cộng đồng. Như vậy nhận thức đúng và hành vi đúng sẽ tạo nên một nhân cách đúng và một nhân cách lệch chuẩn khi nhận thức sai và đẩy đến hành vi sai.
2. Khái niệm nhu cầu :
Theo từ điển tâm lí học thì " nhu cầu có nghĩa là điều kiện cần thiết để đảm bảo tồn tại và phát triển. Được thoả mãn thì dễ chịu, thiếu hụt thì khó chịu, căng thẳng ấm ức. Có nhu cầu cá nhân, có nhu cầu chung của tập thể, khi hoà hợp, khi mâu thuẫn; có nhu cầu cơ bản; thiết yếu, giả tạo" (Nguyễn Khắc Viện, Từ điển Tâm lí học, NXB Thế giới, trang 259-260)
Nhu cầu của cá nhân sẽ thay đổi khi trình độ phát triển của xã hội thay đổi. Cho nên cần xác định rõ những tiêu chuẩn sinh lí, xã hội, tâm lí để phân biệt những nhu cầu xác đáng với những ham muốn, đòi hỏi không quan trọng.
Nhu cầu là nhân tố xác định hành động của con người với mỗi nội dung của nhu cầu sẽ hình thành hành động của mỗi cá nhân và từ nội dung của nhu cầu nó sẽ quyết đinh, thúc đẩy hành động của con người. Khi nhu cầu được thoả mãn sẽ làm nảy sinh những cảm xúc dương tính, tạo cho sự phát triển nhân cách của cá nhân hoàn thiện. Và khi cách thức thoả mãn nhu cầu lệch lạc, hoặc không thể thoả mãn dẫn tới những cảm xúc âm tính, là nguyên nhân nảy sinh những lệch chuẩn về hành vi nhân cách. Hay rõ ràng hơn là nhu cầu luôn bộc lộ ở hai chiều hướng : tích cực và tiêu cực. Nhu cầu được xem là tích cực khi nó phù hợp với chuẩn mực xã hội, cộng đồng, bằng những cách thức phù hợp trong điều kiện của bản thân, xã hội để thoả mãn thì sẽ xuất hiện những hành vi phù hợp với chuẩn mực tạo nên sự phát triển nhân cách. Ngược lại nhu cầu tiêu cực nảy sinh khi nó không còn phù hợp với những chuẩn mực xã hội, cách thức để thoả mãn nó không phù hợp và dẫn đến những hành vi lệch chuẩn.
Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thoả mãn để tồn tại và phát triển. Nhu cầu của con người có những đặc điểm cơ bản sau :
Nhu cầu bao giờ cũng có đối tượng. Khi nào nhu cầu gặp đối tượng có khả năng đáp ứng sự thoả mãn thì lúc đó nhu cầu trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt động nhằm tới đối tượng. Nội dung của nhu cầu do những điều kiện và phương thức thoả mãn no quy định. Nhu cầu có tính chu kì. Nhu cầu của con người khác xa về chất so với nhu cầu của con vật : nhu cầu của con người mang bản chất xã hội. Nhu cầu của con người rất đa dạng : nhu cầu vật chất gắn liền với sự tồn tại của cơ thể như : nhu cầu ăn, mặc, ở. . . nhu cầu tinh thần bao gồm : nhu cầu tinh thần bao gồm : nhu cầu nhận thức, nhu cầu thẩm mĩ, nhu cầu lao động, nhu cầu giao lưu và nhu cầu hoạt động xã hội.
Tóm lại, nhu cầu bao gồm nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần, nó là yếu cần thiết, tất yếu cho sự tồn tại và ohát triển của cá nhân. Nó định hướng và quy định cho mọi hoạt động của con người. Vì thế nhu cầu tích cực hay không tích cực sẽ ảnh hưởng đến một cá nhân cách hoàn thiện hay lệch chuẩn.
3. Định kiến xã hội
Định kiến xã hội là thái độ có sẵn về đối tượng (ở một con người hay một vấn đề nào đó). Đây chính là sự nhận định, đánh giá mang tính chất một chiều dựa trên cơ sở khách quan nhưng chưa đủ chứng cớ xác định và thường mang một hàm ý xấu.
Định kiến xã hội là sự định hướng mà con người tiếp nhận được từ trong cuộc ssống nhằm tạo ra sự phân biệt xã hội đẫn đến sự phân biệt đối xử. Theo pgs Trần Thị Minh Đức :Định kiến xã hội có 3 mức độ thể hiện sự phân biệt đối xử từ thấp đến cao.
+ Thứ nhất : đó là đặc ngữ thể hiện ở tính miệt thị một cách không cố ý đẫn đến phân biệt đối xử (ví dụ như từ mọi rợ, ngu đần. . . )Đặc ngữ lưu truyền trong nhân gian, trong nhóm xã hội và thường thấm sâu vào ý thức cá nhân một cách vô thức.
+ Thứ hai : đó là sự nhận thức (tri thức, quan niệm, sự hiểu biết về các vấn đề xã hội). Chính vì vậy con người có kiến thức càng cao thì định kiến càng giảm đi
+ Thứ ba : thể hiện trong ứng xử, hành vi, hành động.
Định kiến thường được hình thành trong gia đình, môi trường giáo dục của nhà trường, các phương tiện truyền thông một cách vô thức hay có ý thức.
Định kiến là phân biệt đối xử do sự không ngang nhau về trình độ văn hoá, hoàn cảnh sống, tri thức, vị trí kinh tế- xã hội đẫn đến định kiến bản thân làm thay đổi hình ảnh của bản thân thể hiện ở sự căm ghét bản thân mình, làm méo mó hình ảnh của bản thân. Định kiến dẫn đến sự phân biệt đối xử với người khác do hiệu ứng Pygmalyon (nhà điêu khắc Hy Lạp ) là quá trình hình thành ở người khác những đặc điểm mà thực chất họ không có nhưng người giao tiếp lại nghĩ họ có.
Tóm lại : Định kiến xã hội là suy nghĩ, thái độ có sẵn đối với một người, một nhóm người, một dân tộc hay một vấn đề nào đó. Định kiến xã hội có hai mặt. Thứ nhất, định kién xã hội làm đơn giẩn hoá quá trình xã hội hoá người khác, làm cản trở sự hiểu biết các đối tượng xã hội một cách chính xác. Thứ hai, định kién xã hội dẫn đến thái độ đối xử không đúng làm cho việc tri giác đối tượng sai. Chính hiệu quả thứ hai này là yếu tố vản trở cực kỳ lớn đối với những người lầm lỡ muốn quay trở lại làm người bình thường.
4. Nhận thức chung về đối tượng chấp hành xong hình phạt tù :
Đối tượng chấp hành xong hỡnh phạt tự bao gồm số đối tượng phạm tội đang chấp hành hỡnh phạt tự cú thời hạn hoặc tự chung thõn ở cỏc trại giam, trại tạm giam (họ phải là phạm nhõn), hết thời hạn hay chưa hết thời hạn nhưng tiến bộ được hưởng chính sách khoan hồng được tha về địa phương (đặc xá, ân xá).
Đối tượng tù tha về địa phương về mặt pháp lý họ có nghĩa vụ và được hưởng các quyền như các công dân bình thường khác trừ số phải chấp hành hình phạt bổ sung theo quyết định của Tòa án như : cấm cư trú, quản chế, . . . Phân loại đối tượng tha tù : 2 nhóm cơ bản gồm nhóm đối tượng phải chấp hành tiếp các hình phạt bổ sung theo quyết định của Tòa án và nhóm các đối tượng không phải chấp hành các hình phạt và các biện pháp bổ sung khác. Nhìn chung các đối tượng tù tha ở địa phương rất phức tạp và da dạng về loại hình, đặc điểm, sự hoạt động và tính chất mức độ vi phạm cũng như thái độ cải tạo.
5 Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng :
5. 1. Khái niệm cộng đồng :
Fich Ter, nhà xã hội tư sản trong tác phẩm "những khái niệm cơ bản của TLHXH" hiểu cộng đồng bao gồm 4 yếu tố cơ bản sau đây :
+ Sự tương quan cá nhân mật thiết với người khác, tương quan này có thể hiểu là tương quan mặt đối mặt, thân mật.
+ Có sự liên hệ về mặt tình cảm hay cảm xúc trong mọi cá nhân, khi thức hiện các vai trò xã hội, nhiệm vụ được giao.
+ Có sự hiến dâng về mặt tinh thần đối với giá trị mà tập thể cho là cao cả.
+ Có yếu tố đoàn kết, hợp tác với người khác và với tập thể.
Theo quan điểm của nhà xã hội Mác xít thì cho rằng :
"Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa cá nhân, được quy định bởi nhóm cộng đồng về các lợi ích của họ, nhờ sự giống nhau về cái được tồn tại và hoạt động của con người hợp thành cộng đồng đó".
Tóm lại, có nhiều quan niệm khác nhau về cộng đồng, tuy nhiên chúng ta có thể hiểu cộng đồng như sau :
- Cộng đồng là mối quan hệ qua lại giữa con người với nhau, được quy định bởi những đặc trưng chung. Trong đó con người có cùng quyền lợi và những nghĩa vụ phải thực hiện.
- Cộng đồng phải thể hiện mối liên hệ về mặt tình cảm hay cảm xúc ở mọi cá nhân, trong cộng đồng đó con người phải tuân thủ và có thái độ tích cực đối với giá trị mà tập thể cho là cao cả.
5. 2. Khái niệm tái hoà nhập cộng đồng :
Đối với cuộc sống đời thường mà những người vi phạm, những người lầm lỗi đó mất đi. Có quan điểm cho rằng tái hũa nhập cộng đồng là “tái hoàn lương” trở lại Tái hũa nhập cộng đồng thực chất là các biện pháp quản lý của công đồng đối với những người lầm lỗi. Nhiều người lại thống nhất cho rằng tái hũa nhập cộng đồng là “quay lại lần thứ hai” hũa nhập với cộng đồng xó hội những người có qua khứ tội lỗi sau một thời gian bị cách lý khỏi xã hội, cộng đồng dân cư. Tái hòa nhập cộng đồng hiểu đơn giản là là xóa đi những tội lỗi và mặc cảm của người tạo cơ hội bình thường hóa các mối quan hệ xã hội để họ hòa nhập với cộng đồng nơi họ cư trú với tư cách là một công dân, một thành viên của xã hội. Đây là những biện pháp tác động tích cực giúp đỡ những người lầm lỗi, những người có quá khứ phạm tội xóa bỏ đi những mặc cảm của bản thân đối với cộng đồng và để họ có thể trở về là người công dân lương thiện với đúng nghĩa của nó.
Tóm lại, tái hoà nhập cộng đồng của người sau khi chấp hành xong hình phạt tù là hành động biểu hiện tính tích cực, trong đó cá nhân mong muốn được thực hiện những hành dông phù hợp các giá trị, chuẩn mực, đạo đức và pháp luật của Nhà nước nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách, cung như đảm bảo cho sự ổn định và phát triển xã hội. Vì vậy muốn tái hoà nhập cộng đồng, những đối tượng tù tha này phải trải qua một thời gian học tập, cải tạo nhằm điều chỉnh lại những sai lệch trong nhân cách dẫn đến sai lệch trong hành vi đã diễn ra trong thời kì họ phạm tội, nhằm lấy lại bản chất mà người họ, bản thân họ đã đánh mất. Điều đó phần lớn là nhờ chính sự cố gắng của bản thân họ trong việc nhận thức đúng dắn về quá trình cải tạo hoàn lương và một phần là nhờ các chính sách ưu đãi của Pháp luật.
6. Khái niệm tự đánh giá :
* Quan điểm của I. a. Liphina : Theo Liphina, tự đánh giá "Thái độ của con người đối với những năng lực, những khả năng, những phẩm chất nhân cách cũng như đối với toàn bộ mặt bên ngoài của mình "- Như vậy, tự đánh giá theo tác giả thực chất là quá trình hình thành và phát triển thái độ đối với chính bản thân. Đối tương của tự đánh giá bao gồm toàn bộ