Lực lượng sản xuất bao gồm nhiều nhân tố cụ thể nhưng thường được phân tích thành 2 nhóm nhân tố: người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
13 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1487 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhân tố con người trong lực lượng sản xuất với chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở việt nam
I- Lý luận của Mác Lênin về nhân tố con người trong lực lượng sản xuất:
1. Cấu trúc của lực lượng sản xuất:
a. Khái niệm:
Lực lượng sản xuất là toàn bộ những nhân tố vật chất kỹ thuật được sử dụng vào trong một quá trình sản xuất nhất định.
b. Các nhân tố của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm nhiều nhân tố cụ thể nhưng thường được phân tích thành 2 nhóm nhân tố: người lao động với kỹ năng lao động của họ và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động. Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau tạo thành lực lượng sản xuất.
Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “ Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại là công nhân, là con người lao động” ( V.I. Lênin: Toàn tập, nxb.Tiến bộ, Matxcova, 1977, trang 38, trang 430). Chính con người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động, tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Cùng với quá trình lao động sản xuất, sức mạnh và kỹ năng lao động của con người ngày càng được tăng lên, đặc biệt là trí tuệ của con người không ngừng phát triển, hàm lượng trí tụê của lao động ngày càng cao. Ngày nay với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tụê ngày càng đóng vai trò chính yếu.
Cùng với người lao động, công cụ lao động cũng là 1 yếu tố cơ bản của lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, là “ Sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá”, nó “ nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích lũy kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng, công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất, xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội.
c. Tính chất của lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, do đó trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thường được sử dụng để xác định trình độ phát triển của nền sản xuất. Lịch sử loài người đã trải qua nhiều giai đoạn: Từ xã hội nguyên thủy đến xã hội XHCN. Qua các giai đoạn đó, con người từ chỗ “ ăn hang, ở lỗ”, từ chỗ chỉ biết săn bắn, hái lượm những thứ có sẵn trong tự nhiên đến chỗ biết dựng nhà để ở, biết trồng trọt, chăn nuôi, biết chế tạo ra công cụ lao động phục vụ cho quá trình sản xuất của mình. Như vậy con người từ chỗ phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên đến chỗ cải tạo tự nhiên để phục vụ cho nhu cầu, mục đích của mình.
Lực lượng sản xuất của một xã hội là sự tiếp tục phát triển của các lực lượng sản xuất đã có trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “ lực lượng sản xuất trực tiếp”, nhưng điều này không có nghĩa là khoa học là yếu tố thứ 3 của lực lượng sản xuất. Điều đó chỉ có nghĩa là các tri thức khoa học ngày càng thâm nhập mạnh mẽ vào các yếu tố của lực lượng sản xuất, thâm nhập vào yếu tố con người lao động, tư liệu sản xuất, nâng cấp trình độ của những nhân tố này. Nói khoa học trở thành “ Lực lượng sản xuất trực tiếp” thực chất là tri thức khoa học trở thành “Lực lượng sản xuất trực tiếp”. Nó trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp khi nó được kỹ thuật hóa, công nghiệp hóa. Do vậy khoa học phải gắn với kỹ thuật- công nghệ, đồng thời cần nhấn mạnh rằng không chỉ có khoa học tự nhiên mới trở thành lực lượng sản xuất mà là tri thức khoa học nói chung. Có thể nói: Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho sản xuất hiện đại. Đây chính là tính chất tiêu biểu nhất của lực lượng sản xuất hiện đại.
2.Vị trí, vai trò của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất:
a. Nhân tố con người giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất:
Lực lượng sản xuất bao gồm các nhân tố: người lao động và tư liệu sản xuất, trong đó nhân tố người lao động giữ vai trò quyết định trong lực lượng sản xuất. Sở dĩ như vậy vì:
Một là: Mỗi quá trình sản xuất muốn thực hiện được cần đủ 2 điều kiện: Tư liệu sản xuất và người lao động. Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao đọng, đây là 2 nhân tố không thể thiếu của quá trình sản xuất. Sản phẩm muốn tạo ra còn phải có tư liệu sản xuất nhưng nếu con người không tác động sức lao động của mình vào tư liệu sản xuất thì quá trình sản xuất không thể thực hiện được. Như vậy sản xuất không thể tiến hành nếu không có tư liệu sản xuất, nhưng nếu không có tư liệu lao động của con người thì tư liệu sản xuất cũng không phát huy tác dụng.
Hai là: Tất cả các nhân tố khác trong lực lượng sản xuất đều là sản phẩm lao động của con người, là sự kết tinh năng lực lao động của họ. Tất cả tư liệu sản xuất dù là tư liệu lao động hay đối tượng lao động đã qua chế biến đều là sản phẩm lao động của con người, là sự sáng tạo của con người.
Ba là: Những nhân tố khác chỉ có ý nghĩa là lực lượng sản xuất khi nó được người lao động sử dụng vào quá trình sản xuất nhất định. Đúng vậy, công cụ lao động dù thô sơ hay hiện đại, đối tượng lao động dù giản đơn hay phức tạp nhưng nếu không có sự tác động về sức lao động của con người vào thì nó cũng chỉ là những “ vật vô tri, vô giác”, không thể có sản phẩm như mong muốn. Một ví dụ đơn giản, để sản xuất ra 1 cái bàn, 2 thợ mộc cần sử dụng những công cụ lao động như cưa, bào… tác động vào đối tượng lao động là gỗ… Bằng việc tác động sức lao động của mình qua các thao tác, 2 người thợ mộc đã tạo ra sản phẩm là cái bàn. Nhưng nếu 2 người thợ mộc không tác động sức lao động của mình vào cái cưa, bào…không tác động vào gỗ thì nó mãi vẫn chỉ là cái cưa, cái bào, khúc gỗ mà không phải là tư liệu sản xuất, và lúc đó cũng không có sản phẩm nào được tạo ra.
b. Sự tác động của các nhân tố khác tới con người:
Tư liệu sản xuất mà trước hết là công cụ lao động là một nhân tố của lực lượng sản xuất. Sự phát triển ngày càng cao của công cụ lao động đã làm giảm sức lao động của con người trong quá trình sản xuất. Trước đây công cụ lao động là thô sơ thì ngày nay nó được thay thế bằng máy móc hiện đại. Nhờ đó sức lao động của con người sử dụng trong quá trình sản xuất đã giảm đi đáng kể, năng suất lao động tăng lên, chất lượng sản phẩm cũng tăng lên, đem lại hiệu quả kinh tế cao. Sự phát triển của công cụ lao động một mặt nâng cao năng suất lao động, làm giảm sức lao động của con người, nhưng nó cũng đặt ra 1 vấn đề: người sử dụng. Một nền sản xuất với máy móc, trang thiết bị hiện đại nhưng trình độ của người sản xuất hạn chế, không có khả năng sử dụng, khả năng quản lý thì sẽ không khai thác được, hoặc khai thác không hết chức năng tác dụng của nó. Do đó gây ra tình trạng lãng phí trong sản xuất. Vì vậy cùng với sự phát triển của công cụ lao động, bản thân người sản xuất cần không ngừng học hỏi, tìm tòi, sáng tạo, nâng cao năng lực chuyên môn để không chỉ khai thác hết chức năng, tác dụng của nó mà còn sáng tạo công cụ lao động mới.
Trước đây đối tượng lao động chủ yếu là có sẵn trong tự nhiên như cá dưới nước, gỗ trong rừng… tất cả đều sẵn có chỉ việc khai thác và sử dụng. Nhưng một điều mà ai cũng phải nhận thấy là thiên nhiên của chúng ta đang ngày càng cạn kiệt. Do vậy việc tạo ra đối tượng lao động mới, đã qua chế biến để thay thế cho đối tượng lao động có sẵn trong tự nhiên là hết sức quan trọng. Con người từ chỗ chỉ biết bắt cá dưới sông nay đã biết nuôi cá. Nó không chỉ giúp con người chủ động về thức ăn mà còn tạo ra với số lượng lớn. Con người từ chỗ chỉ biết khai thác chặt cây trong rừng nay đã trồng rừng với số lượng lớn. Mặt khác, con người cũng đã tìm ra những nguyên liệu mới, tạo ra nguyên liệu tổng hợp thay thế cho nguyên liệu tự nhiên.
Ngày nay, khoa học công nghệ đã phát triển với tốc độ chóng mặt. Sự phát triển của khoa học công nghệ đã tác động không nhỏ tới con người. Nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ mà nhiều ngành sản xuất mới, nhiều máy móc thiết bị mới, nhiều công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới… đã ra đời. Cũng nhờ sự phát triển của khoa học công nghệ mà năng suất lao động tăng, sức lao động của con người giảm, sản phẩm tạo ra ngày càng nhiều. Điều đó đòi hỏi con người phải không ngừng nâng cao tri thức, nâng cao trình độ chuyên môn. Một nền sản xuất dù phát triển đến đâu, máy móc thiết bị hiện đại đến mấy nhưng trình độ quản lý, trình độ chuyên môn của người sản xuất thấp thì nó cũng không phát huy tác dụng.
Khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển, việc ứng dụng nó vào trong sản xuất là hết sức cần thiết. Muốn vậy bản thân người sản xuất phải có đủ trình độ kinh tế, năng lực quản lý thì mới có thể ứng dụng những thành tựu đó vào trong sản xuất. Do vậy con người trong nền sản xuất hiện đại không chỉ đơn thuần là có sức khỏe, có kinh nghiệm, mà hơn thế nữa là phải có năng lực, có trình độ, phải không ngừng học hỏi, không ngừng sáng tạo và phải nhanh nhạy nắm bắt những thành tựu mới nhất của nhân loại.
II- Chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam trong thời kì quá độ:
1. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam theo quan điểm của Đảng và Nhà Nước Việt Nam:
a.Khái niệm nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là tổng thể các yếu tố thuộc về vật chất, tinh thần, đạo đức, phẩm chất, trình độ tri thức, vị thế xã hội…tạo nên năng lực của con người, của cộng đồng và có thể sử dụng, phát huy trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
b. Khái niệm công nghiệp hóa- hiện đại hóa:
Công nghiệp hóa- hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản, toàn diện tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội từ việc sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến hiện đại dựa trên sự phát triển của công nghệ và tiến bộ khoa học công nghệ để tạo ra năng suất lao động xã hội cao.
c. Chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa ở Việt Nam theo quan điểm của Đảng và Nhà Nước Việt Nam:
Tình hình đất nước và bối cảnh quốc tế đòi hỏi toàn Đảng, toàn dân ta phải phát huy cao độ tinh thần cách mạng tiến công, tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, đưa đất nước tiến nhanh và vững chắc theo định hướng XHCN. Không làm được như vậy, sẽ tụt hậu xa về trình độ phát triển kinh tế so với các nước xung quanh, ảnh hưởng trực tiếp tới niềm tin của nhân dân, sự ổn định chính trị, xã hội và an ninh quốc gia.
Do vậy đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã đưa ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm đầu của thế kỉ XXI- Chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng XHCN, xây dựng nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Mục tiêu tổng quát của chiến lược 10 năm 2001- 2010 là: “Đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần của nhân dân; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành 1 nước công nghiệp hiện đại. Nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng – an ninh được tăng cường; thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN được hình thành về cơ bản; vị thế của nước ta trên trường quốc tế được nâng cao”.
[ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. 2001. Hà Nội. Trang 159 ].
Mục tiêu cụ thể của chiến lược về phát triển nguồn lực theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa như sau: “ Nâng lên đáng kể chỉ số phát triển con người của nước ta. Tốc độ tăng dân số đến năm 2010 còn khoảng 1,1%. Xóa đói, giảm nhanh hộ nghèo, giải quyết việc làm ở cả thành thị và nông thôn( thất nghiệp ở thành thị dưới 5%, quỹ thời gian được sử dụng ở nông thôn khoảng 80- 85%); nâng tỷ lệ người lao động được đào tạo nghề lên 40%. Trẻ em đến tuổi đi học đều được đến trường; hoàn thành phổ cập trung học cơ sở trong cả nước. Người có bệnh được chữa trị: giảm tỷ lệ trẻ em ( dưới 5 tuổi) suy dinh dưỡng xuống khoảng 20%, tăng tuổi thọ trung bình lên 71 tuổi. Chất lượng đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần được nâng lên rõ rệt trong môi trường xã hội an toàn, lành mạnh; môi trường tự nhiên được bảo vệ và cải thiện”.
[ Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX. Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Hà Nội- 2001. Trang 160].
2. Những giải pháp trung tâm của chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp hóa- hiện đại hóa:
a. Giáo dục- đào tạo là quốc sách hàng đầu:
“ Ai đó còn nghĩ rằng nếu có nhiều vốn thì có thể mua tri thức, mua công nghệ của nước ngoài để phát triển, thì hãy nhìn lại những bài học không thành công của một số nước giàu tài nguyên mà không có năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ. Truy cập vào kho tri thức toàn cầu, mua công nghệ là việc nhất thiết phải làm đối với các nước đi sau, nhưng nếu không có đủ năng lực tri thức nội sinh thì chỉ có tăng trưởng nhất thời, sau đó là sự tụt hậu và lệ thuộc” (Tạp chí cộng sản số 4- tháng 2 năm 2005- trang 31). Do đó để phát triển giáo dục trước hết cần tập trung nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục.
Mục tiêu giáo dục là đào tạo ra những con người có đủ khả năng, bản lĩnh thực hiện thành công công nghiệp hóa- hiện đại hóa theo định hướng XHCN. Do vậy cần kiên quyết khắc phục phương pháp giảng dạy cũ kỹ, lạc hậu, thầy giảng trò ghi, thụ động, 1 chiều. Nội dung chương trình phải hiện đại nhưng tinh giảm. Bộ giáo dục cần tiếp tục có nhưng chính sách trong cải cách sửa đổi SGK cho phù hợp với tình hình hiện nay. Kiên quyết khắc phục nạn đi học chỉ cốt để lấy bằng cấp, mà không quan tâm đến xây dựng năng lực. Chuyển trọng tâm của giáo dục từ trang bị hình thức sang bồi dưỡng rèn luyện phương pháp tư duy, phương pháp giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, khả năng tự đào tạo, thích nghi sự phát triển.
Cần hết sức quan tâm giáo dục trẻ thơ( nhà trẻ, mẫu giáo) vì đó là nền tảng cho sự phát triển nền giáo dục sau này. Đầu tư vào đây thì sẽ bớt được chi phí cho sự khắc phục những khiếm khuyết về chất lượng giáo dục trong tương lai.
Đổi mới mạnh mẽ hệ thống quản lý giáo dục, tập trung vào vấn đề quản lý chất lượng, xây dựng hệ thống đánh giá chất lượng đào tạo, tăng cường thanh tra kiểm tra, thay đổi cách tổ chức thi cử, tuyển sinh( hiện nay chỉ nặng về kiến thức sách vở), khắc phục tình trạng nặng nề quản lý đầu vào, nhẹ quản lý đầu ra, kiên quyết chống bệnh thành tích đang ngăn cản con đường đi tới chất lượng. Tăng quyền chủ động cho các trường công lập cũng như các trường ngoài công lập. Bộ và các sở giáo dục- đào tạo tăng chức năng quản lý Nhà Nước nhất là thanh tra chất lượng giáo dục đối với tất cả trường, xoá bỏ cơ chế xin cho. Các trường chủ động tổ chức thực hiện quá trình đào tạo và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo.
Một vấn đề hết sức quan trọng để phát triển giáo dục là tăng cường đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất cho các trường. Mở rộng hệ thống thư viện, phòng nghiên cứu, thực hành, thí nghiệm để nâng cao chất lượng dạy và học ở các trường. Tăng cường dạy công nghệ thông tin trong tất cả các bậc học.
Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh, sinh viên là một trong những mục tiêu mà nền giáo dục Việt Nam hướng tới. Trang bị cho người học những kiến thức cơ bản nhất, “ Dĩ bất biến, ứng vạn biên” và giúp người học biết nhân lên vốn tri thức cho mình, hướng dẫn người học phương pháp tiếp thu tri thức mới, bồi dưỡng cho họ những kỹ năng cần thiết, phương pháp tư duy, trí sáng tạo, phương pháp tự đào tạo… thông qua các trường hợp điển hình để bồi dưỡng phương pháp và năng lực giải quyết vấn đề. Cũng cần tổ chức nhiều hơn nữa các cuộc thi, các chương trình như: Đường lên đỉnh Olympia, cuộc thi Robocon, cuộc thi khởi nghiệp… Đây không chỉ là một sân chơi bổ ích cho học sinh- sinh viên nhằm phát huy tính sáng tạo mà còn là nơi tìm kiếm những nhân tài cho đất nước. Từ đó có chính sách để đào tạo, bồi dưỡng như đưa đi đào tạo ở các nước có nền khoa học và công nghệ tiên tiến.
Đi đôi với nâng cao chất lượng giáo dục, cần phát triển nhanh quy mô giáo dục. Đẩy nhanh phổ cập giáo dục THCS vào trước năm 2010, phổ cập giáo dục trung học vào khoảng năm 2015, nâng số năm đi học bình quân của người trong độ tuổi lao động lên 9 năm vào năm 2010, lên 12 năm vào năm 2020. Nâng tỷ lệ sinh viên đại học, cao đẳng trên 1 vạn dân ngang với các nước xung quanh.
Hiện nay, tình trạng thất nghiệp, làm việc trái ngành còn khá phổ biến ở nước ta. Nhiều sinh viên ra trường không có việc làm hoặc phải làm việc trái nghề, tình trạng “ thừa thầy, thiếu thợ” còn phổ biến. Do vậy cần có chính sách hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên, chuẩn bị cho thanh niên, thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả nước và trong từng địa phương. Một điều có thể nhận thấy là các gia đình thường có xu hướng muốn con em mình vào đại học hơn là các trường dạy nghề mà không quan tâm đén khả năng, trình độ của con em mình. Nhiều sinh viên ra trường không muốn trở về quê làm việc mà muốn ở lại các thành phố lớn để làm việc dù cho công việc đó là trái với ngành nghề mình học. Điều này dẫn đến tình trạng mật độ dân số ở các thành phố đông thừa lao động, trong khi ở các vùng nông thôn lại rất thiếu nhiều cán bộ có chuyên môn, gây ra tình trạng lãng phí người lao động. Do vậy, tuyên truyền nâng cao nhận thức cho mọi người về vấn đề này là hết sức quan trọng. Mặt khác, các địa phương cũng cần có chính sách thu hút lao động, tạo mội điều kiện để sinh viên ra trường trở về quê hương công tác, phát triển kinh tế địa phương.
Để thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, Đảng và Nhà Nước cần tiếp tục có những chính sách hỗ trợ học sinh nghèo vượt khó, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội học tập, tạo điều kiện để những học sinh có năng khiếu, có hoàn cảnh khó khăn được học ở các bậc học cao như: miễn giảm học phí cho con em vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít ngưòi, con em gia đình chính sách, gia đình khó khăn, tạo điều kiện về nơi ăn chốn ở để các em yên tâm học tập.
b. Chính sách đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ:
Phát triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực đẩy mạnh công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước.
Khoa học – công nghệ hướng vào việc nâng cao năng suất lao động, đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hóa trên thị trường, xây dựng năng lực công nghệ quốc gia, ứng dụng một cách sáng tạo những công nghệ nhập khẩu từng bước tạo ra công nghệ mới. Đi nhanh vào một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại, công nghệ cao( tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa). Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học- công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý, dịch vụ. Có chính sách khuyến khích và buộc các doanh nghiệp đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ.
Sắp xếp, đổi mới hệ thống nghiên cứu khoa học, phối hợp chặt chẽ nghiên cứu khoa học tự nhiên, khoa học công nghệ với khoa học xã hội và nhân văn. Hoàn thành xây dựng những khu công nghệ cao và hệ thống phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. Sử dụng có hiệu quả các quỹ hỗ trợ phát triển khoa học công nghệ. Cải tiến công tác quản lý khoa học, thực hiện quy chế dân chủ trong nghiên cứu và sáng tạo khoa học, đảm bảo chất lượng của các chương trình và đề tài nghiên cứu khoa học, khắc phục t