Đề tài Nhật Bản - Thị trường tiềm năng cho thủ công mỹ nghệ Việt Nam
Việt Nam trở thành một trong những nước thành công nhất trong công tác giảm nghèo. Từ giữa những năm 80 đến cuối những năm 90, tỷ lệ phần trăm những người nghèo đã giảm từ 70% xuống khoảng 1/3. Theo nghiên cứu đáng tin cậy về tình trạng nghèo đói thì “hầu như không một nước nào khác trên thế giới giảm nghèo nhanh bằng trong một thời gian ngắn như vậy” (Ngoại trừ Trung Quốc và Indonesia trong những năm 80) (Báo cáo phát triển Việt Nam 2000, "Attacking poverty" 1999) Một trong những yếu tố thường được nói đến cho sự thành công xuất khẩu của Việt Nam của những năm đầu của thập kỷ 90 là nỗ lực mạnh mẽ của chính phủ trong chuyển dịch chính sách kinh tế từ việc thay thế nhập khẩu sang hướng vào xuất khẩu, tự do hóa kinh tế và đi theo nền kinh tế thị trường. Bên cạnh những thay đổi quan trọng trong chính sách kinh tế là việc chính phủ Việt Nam đã áp dụng cách tiếp cận có hệ thống và năng động đối với phát triển xuất khẩu với một phác thảo lâu dài, thể hiện trong việc liên tục thay đổi chính sách cho phù hợp trên cơ sở những kinh nghiệm và nghiên cứu có được. Hàng thủ công mỹ nghệ là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của đất nước (năm 2000, hàng thủ công mỹ nghệ Việt Nam đứng thứ tám về kim ngạch xuất khẩu, đạt 235 triệu USD) đã trải qua nhiều thăng trầm, hiện đang chuẩn bị bước vào giai đoạn mới với chỉ tiêu đạt 1 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu năm 2005. Là những sản phẩm của ngành nghề thủ công truyền thống, mang đậm nét của một nền văn hoá dân tộc, có những dấu ấn lịch sử, nên hàng thủ công mỹ nghệ không chỉ là những vật phẩm đáp ứng nhu cầu sử dụng trong cuộc sống hàng ngày mà còn là những văn hoá phẩm phục vụ đời sống tinh thần, đáp ứng nhu cầu thưởng thức những tinh hoa văn hoá của dân tộc. Vì vậy, hàng thủ công mỹ nghệ vừa có nhu cầu ngày càng tăng ở trong nước, vừa có nhu cầu cao trên thị trường quốc tế theo sự phát triển giao lưu văn hoá giữa các nước, các dân tộc trên thế giới. Quan tâm phát triển các ngành nghề này, mở rộng tiêu thụ các sản phẩm được làm ra trên thị trường trong và ngoài nước, đẩy mạnh xuất khẩu, làm sống động những ngành nghề truyền thống là thiết thực bảo tồn và phát triển một trong những di sản văn hoá quý giá của dân tộc Việt Nam. Phát triển sản xuất và xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ có tác dụng lớn trong việc tạo việc làm và tăng thu nhập chính đáng cho lao động trong nước; góp phần xoá đói giảm nghèo, giải quyết vấn đề nhàn cư, nhất là trong tầng lớp trẻ; có tác dụng tích cực đẩy lùi các hiện tượng tiêu cực, các tệ nạn xã hội góp phần bảo đảm trật tự an ninh xã hội, nhất là trong điều kiện hiện nay tỉ lệ thất nghiệp còn cao thì ý nghĩa chính trị xã hội của vấn đề nêu trên càng lớn. Bên cạnh đó, phát triển và xuất khẩu thủ công mỹ nghệ còn tạo cơ hội sử dụng và đào tạo các nghệ nhân, thợ giỏi có tay nghề và kỹ xảo truyền thống góp phần bảo tồn, phát triển và truyền lại cho đời sau vốn quý nghề nghiệp này của dân tộc.