rong qúa trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đến thời điểm này, toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới của từng quốc gia, trở thành vấn đề của toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá và mang lại hiệu quả cao nhất.
88 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1366 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục
Danh mục các biểu
---cựd---
Hình 1: Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu qua các năm.40
Hình 2: kim ngạch xuất khẩu hàng dệt kim Việt Nam vào thị trường Nhật Bản...............................................................................52
Danh mục các bảng số liệu
---cựd---
Bảng 1: Năng lực sản xuất của một số sản phẩm dệt may Việt Nam ...................................................................................................................32
Bảng 2: Tình hình cơ sở sản xuất của ngành dệt may trong nước.....33
Bảng 3: Tình hình sản xuất một số sản phẩm chủ yếu của ngành dệt may...........................................................................................................36
Bảng 4: Tốc độ tăng sản xuất của ngành dệt may..............................39
Bảng 5: Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam 1991 - 2002.............40
Bảng 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may......................................44
Bảng 7: Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may----------------------------------.46
Bảng 8: KNXK Hàng dệt may của Việt nam trên một số thị trường.47
Bảng 9: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường EU.......49
Bảng 9: Chỉ tiêu sản xuất đến năm 2010..............................................63
Bảng 10: Đánh giá tiềm năng Xuất khẩu.............................................64
Bảng 11: Bảng so sánh giá hàng dệt may xuất khẩu sang thị trường......................................................................................................71
Lời mở đầu
---cựd---
T
rong qúa trình phát triển của lịch sử xã hội loài người đến thời điểm này, toàn cầu hoá kinh tế và tự do hoá thương mại là một xu thế khách quan bởi sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất do tác động của khoa học và công nghệ đã làm cho sự phân công lao động quốc tế vượt ra khỏi biên giới của từng quốc gia, trở thành vấn đề của toàn cầu. Với một nước đang phát triển như Việt Nam cần có những chính sách nhằm xúc tiến quan hệ kinh tế đối ngoại để tham gia vào xu hướng toàn cầu hoá và mang lại hiệu quả cao nhất.
Văn kiện của Đảng đã chỉ ra chiến lược Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước - hướng mạnh vào xuất khẩu và coi đây là một định hướng chiến lược phát triển kinh tế. Vấn đề đặt ra là chúng ta phải khai thác và tận dụng được các lợi thế của mình một cách tốt nhất.
Ngành may mặc của Việt Nam càng ngày càng khẳng định được vai trò của mình trong nền kinh tế thị trường. Hiện nay, ngành may mặc Việt Nam đã có quan hệ với hơn 250 công ty thuộc 60 quốc gia trên thế giới. Ngành may mặc Việt Nam là ngành xuất khẩu chủ lực của Việt Nam (chỉ sau dầu thô). Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu và không ngừng tăng nhanh. Nếu như năm 1991, kim ngạch xuất khẩu của ngành đạt 158 triệu USD thì đến năm 2002, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may đã tăng lên 2751 triệu USD. Hàng năm, ngành dệt may Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào ngân sách Nhà nước góp phần phát triển nền kinh tế của Việt Nam.
Nhận thức rõ vai trò của công nghiệp dệt may trong quá trình phát triển nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là ý nghĩa to lớn và sự cần thiết phải đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam. Vì vậy, em đã chọn đề tài “Những biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam đến năm 2010” làm đề tài nghiên cứu cho Luận văn tốt nghiệp của mình.
Mục tiêu của chuyên đề là nghiên cứu thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong sự phát triển chung của thị trường hàng dệt may thế giới, cũng như dự báo các biến động trong tương lai của thị trường hàng dệt may. Trên cơ sở đó đề ra các giải pháp thích hợp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường thế giới.
Kết cấu luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam trong những năm gần đây.
Chương III: Phương hướng và biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may đến năm 2010
Do thời gian đi thực tế và những hiểu biết về sản xuất kinh doanh trong một ngành kinh tế còn hạn chế nên bài nghiên cứu này không thể tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và các bạn để đề tài phát huy được tính hiệu quả trong thực tiễn.
Chương I
Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
---dựd---
I. Khái niệm và các hình thức xuất khẩu chủ yếu
1.1 Khái niệm
Khái niệm hoạt động xuất khẩu có thể hiểu trên nhiều góc độ khác nhau, nhưng xét theo bản chất của nó thì xuất khẩu chính là một hoạt động tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp thương mại. Trong đó khách hàng của doanh nghiệp có thể là một cá nhân, một tổ chức nước ngoài hay một quốc gia khác.
Như vậy: Xuất khẩu là hoạt động trao đổi hàng hoá và dịch vụ cho đối tác nước ngoài dưới hình thức mua bán thông qua quan hệ hàng hoá tiền tệ nhằm mục đích lợi nhuận.
Mọi công ty với nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu luôn cố gắng hướng tới xuất khẩu những sản phẩm dịch vụ của mình ra thị trường nước ngoài. Do vậy, xuất khẩu được xem như là một chiến lược kinh doanh quốc tế quan trọng, cơ bản của các công ty hoạt động kinh doanh quốc tế. Có nhiều nguyên nhân khuyến khích các công ty thực hiện xuất khẩu như:
Sử dụng, khai thác khả năng vượt trội (những lợi thế) của công ty .
Giảm được chi phí cho một đơn vị sản phẩm do nâng cao khối lượng sản xuất.
Nâng cao được lợi nhuận của công ty.
Giảm được rủi ro do tối thiểu hóa sự giao động của nhu cầu.
1.2 Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
1.2.1 Xuất khẩu trực tiếp
Là hình thức nhà xuất khẩu trực tiếp tiến hành các giao dịch với khách hàng nước ngoài thông qua các tổ chức của riêng mình. Hình thức này thường được áp dụng khi nhà sản xuất có đủ điều kiện về vốn để thành lập tổ chức bán hàng, nhờ đó có thể kiểm soát được trực tiếp thị trường xuất khẩu. Công ty tổ chức sản xuất sản phẩm sau đó trực tiếp giao dịch đàm phán ký kết hợp đồng, xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế là thể hiện nghiệp vụ kinh doanh của mình đã phát triển.
Các tổ chức bán hàng trực tiếp của nhà sản xuất gồm các loại sau:
Cơ sở bán hàng trong nước, để điều hành hay phối hợp các tổ chức phụ thuộc khác đặt tại thị trường nước ngoài.
Đại diện bán hàng xuất khẩu ở nước ngoài có nhiệm vụ thu thập các đơn đặt hàng của khách hàng.
Chi nhánh bán hàng tại nước ngoài: có trách nhiệm quản lý cả công việc xúc tiến và phân phối hàng hoá trên toàn bộ khu vực thị trường đã định ở nước ngoài.
Tổ chức trợ giúp ở nước ngoài: là một công ty riêng rẽ được thành lập và đăng ký ở nước ngoài song hầu hết vốn cổ phần của nó lại do nhà xuất khẩu nắm quyền sở hữu. Tổ chức này có nhiệm vụ qiải quyết vấn đề xuất khẩu như khi có hạn chế về xuất khẩu, có yêu cầu về sản phẩm phải phù hợp ở một thị trường.
Hình thức này có ưu điểm là lợi nhuận thu được của các doanh nghiệp thường cao hơn các hình thức xuất khẩu khác nhờ giảm bớt các chi phí trung gian. Với vai trò là người bán hàng trực tiếp, doanh nghiệp có thể liên hệ trực tiếp và đều đặn với khách hàng, tiếp cận thị trường, nắm bắt được thị hiếu người tiêu dùng nước ngoài và phản ứng của khách hàng một cách nhanh chóng. Tuy vậy, hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn khá lớn để sản xuất hoặc thu mua, không những thế, như một quy luật tất yếu, các doanh nghiệp có thể đối mặt với rủi ro không xuất được hàng, rủi ro do thay đổi tỷ giá hối đoái... Bởi vậy, với hình thức xuất khẩu này đòi hỏi nhà xuất khẩu phải có uy tín trên thị trường trong nước cũng như trên thị trường quốc tế và họ phải là những doanh nghiệp có trình độ chuyên môn cao.
1.2.2 Xuất khẩu gián tiếp
Xuất khẩu gián tiếp là việc sản xuất thông qua dịch vụ độc lập đặt ngay nước sản xuất để tiến hành xuất khẩu các sản phẩm của mình ra thị trường nước ngoài. Hình thức này thường được các doanh nghiệp mới tham gia vào thị trường quốc tế áp dụng.
Ưu điểm của hình thức này là các doanh nghiệp xuất khẩu không phải đầu tư nhiều vốn cũng như không phải triển khai lực lượng bán hàng và các hoạt động xúc tiến khuyếch trương sản phẩm ở nước ngoài. Như vậy, rủi ro đã được hạn chế vì trách nhiệm bán hàng thuộc về các tổ chức trung gian. Do đó, ưu điểm của hình thức này có thể khắc phục được nhược điểm của hình thức xuất khẩu trực tiếp. Song nhược điểm của nó chính là lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu bị giảm do phải chia sẻ lợi nhuận với tổ chức trung gian tiêu thụ; chính là do không có sự liên hệ trực tiếp với thị trường tiêu thụ nên chậm thích ứng thay đổi sản phẩm của mình với những biến động của thị trường và không thu được thông tin trực tiếp; vì phải thông qua trung gian nên buộc các doanh nghiệp phải mượn nhãn hiệu của họ cho nên phụ thuộc nhiều vào hoạt động của trung gian đó.
1.2.3 Xuất khẩu tại chỗ
Xuất khẩu tại chỗ là hình thức kinh doanh có xu hướng phát triển và phổ biến rộng rãi. Hàng hoá được sản xuất và trực tiếp tiêu thụ ngay tại nước sở tại bởi đối tượng khách hàng là người nước ngoài. Đặc điểm của hình thức xuất khẩu này là không có sự dịch chuyển ra khỏi biên giới quốc gia của hàng hoá dịch vụ. Đó là việc cung cấp hàng hoá, dịch vụ cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế. Hoạt động xuất khẩu tại chỗ có thể đạt hiệu quả cao do giảm bớt chi phí đóng gói, chi phí bảo quản, chi phí vận tải, tránh được các thủ tục phức tạp về hải quan, thu hồi vốn nhanh. Tuy nhiên, hình thức này manh mún, lợi nhuận thấp, hạn chế doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh do quy mô khách hàng bị thu hẹp.
1.2.4 Gia công quốc tế
Gia công quốc tế là hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên (bên nhận gia công) nhập khẩu nguyên liệu sau đó thực hiện quá trình sản xuất rồi bán thành phẩm cho một bên khác (bên phái gia công). Vì vậy, trong gia công quốc tế, hoạt động xuất khẩu cũng gắn liền với hoạt động sản xuất.
Hình thức xuất khẩu này ngày nay đang được thực hiện khá phổ biến trong buôn bán thương mại của nhiều nước nhất là đối với các nước đang phát triển. Bởi đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp họ tận dụng giá rẻ về nguyên liệu phụ, nhân công của bên nhận gia công. Đối với bên nhận gia công, phương thức này giúp họ giải quyết được công ăn việc làm cho người lao động trong nước, tiếp nhận công nghệ mới để thay thế công nghệ cũ lạc hậu.
1.2.5 Buôn bán đối lưu
Buôn bán đối lưu là một phương thức trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua, lượng hàng giao đi tương ứng với lượng hàng nhận về. ở đây mục đích xuất khẩu phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ, nhằm thu về một hàng hoá khác có giá trị tương đương. Nói tóm lại, phương thức này là lấy cái mình có đổi cái mình không có (hoặc ít).
Ưu điểm của hình thức này là không cần sử dụng ngoại tệ. Các nước có thể khai thác tiềm năng của mình (lao động, nguyên liệu, công nghệ ...) tránh được sự quản lý chặt chẽ về ngoại hối của Chính phủ.
Buôn bán đối lưu có nhiều hình thức như:
Hàng đổi hàng
Trao đổi bù trừ
Mua đối lưu
Chuyển nợ
Mua lại sản phẩm
...
1.2.6 Xuất khẩu theo nghị định thư (xuất khẩu trả nợ)
Đây là hình thức doanh nghiệp tiến hành xuất khẩu theo chỉ định của Nhà nước giao cho về một số hàng hoá nhất định cho hàng hoá nước ngoài trên cơ sở nghị định thư đã ký kết giữa hai Chính phủ. Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm các khoản chi phí tìm kiếm bạn hàng, tránh được rủi ro thanh toán. Tuy nhiên, không phải lúc nào doanh nghiệp cũng có thể xuất khẩu được theo hình thức này, mà nó chỉ là trường hợp hãn hữu.
Hình thức xuất khẩu này thường dùng để gán nợ được ký theo nghị định thư giữa hai Chính phủ. Thực tế hình thức xuất khẩu này xuất hiện rất ít, thường trong một số nước Xã hội chủ nghĩa trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước.
II. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân
2.1 Xuất khẩu tạo nguồn ngoại tệ cho nền kinh tế quốc dân.
Đất nước ta đang trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước nhằm xoá đói giảm nghèo dần dần tiến lên là nước công nghiệp phát triển. Để thực hiện được mục tiêu này trong thời gian ngắn nhất đòi hỏi phải có một số lượng vốn và ngoại tệ lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ hiện đại. Nguồn vốn này được thu từ các nguồn như: đầu tư nước ngoài, vay, viện trợ của nước ngoài, nguồn thu từ hoạt động du lịch, dịch vụ thu ngoại tệ, xuất khẩu hàng hoá và sức lao động...
Thông qua quá trình xuất khẩu, chúng ta có thể thu về nguồn vốn, ngoại tệ lớn góp phần quan trọng vào việc cải thiện cán cân thương mại, cán cân thanh toán, tăng dự trữ ngoại tệ. Nhờ vậy mà tăng khả năng nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ, nguyên vật liệu... phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2.2 Xuất khẩu góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Thông qua hình thức xuất khẩu, các doanh nghiệp có thể trực tiếp tiếp xúc với khách hàng nước ngoài, hiểu được giá cả, sở thích, thói quen, tập quán, truyền thống văn hoá của người tiêu dùng và các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở hoạt động ở thị trường này, các doanh nghiệp có thể mở rộng phạm vi sang các thị trường khác. Xuất khẩu ra nước ngoài sẽ làm cho các doanh nghiệp năng động hơn, nhạy bén hơn với sự biến động của thị trường, khách hàng, những rào cản và những thay đổi về chiến lược của đối thủ cạnh tranh. Đồng thời xuất khẩu còn giúp cho doanh nghiệp khai thác được lợi thế so sánh của mình và các biện pháp khuyến khích của Chính phủ. Xuất khẩu giúp cho doanh nghiệp nâng cao lợi nhuận, điều chỉnh cơ cấu vốn và công nghệ, thay đổi mặt hàng, mẫu mã sản phẩm và tiếp thu được kinh nghiệm quản lý của nước ngoài...
Xuất khẩu giúp các ngành khác có cơ hội phát triển thuận lợi, tạo khả năng mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy mạnh sản xuất phát triển, ổn định lâu dài. Thông qua hoạt động xuất khẩu, hàng hoá nước ta sẽ tham gia cạnh tranh trên thị trường thế giới về các mặt như giá cả, mẫu mã, chất lượng... Do đó để cạnh tranh được với các doanh nghiệp nước ngoài thì các doanh nghiệp của Việt Nam phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất mới thích nghi với thị trường quốc tế đồng thời các doanh nghiệp cũng phải luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý và sản xuất kinh doanh phù hợp với xu thế mới của thế giới.
Xuất khẩu cũng góp phần phát triển các dịch vụ đi kèm như: dịch vụ thương mại, bảo hiểm hàng hoá, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ tài chính tiền tệ, dịch vụ giao thông vận tải... giúp cho quan hệ ngoại giao giữa các quốc gia tốt hơn.
Xuất khẩu cũng giúp cho phát triển các ngành cung cấp đầu vào cho sản xuất, nâng cao năng lực sản xuất trong nước.
2.3 Xuất khẩu góp phần giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân
Các ngành sản xuất hàng xuất khẩu tạo ra hàng triệu công ăn việc làm, tạo một phần không nhỏ vào việc tạo công ăn việc làm cho người lao động và giảm tỷ lệ thất nghiệp. Nâng cao tay nghề cho người lao động, làm cho họ quen với tác phong công nghiệp. Xuất khẩu còn tạo ra nguồn vốn để nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống của nhân dân và tăng thu nhập cho nhân dân, đóng góp vào việc cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân ngày càng tốt hơn.
III. Nội dung chính của hoạt động xuất khẩu
3.1 Điều tra, nghiên cứu thị trường xuất khẩu:
3.1.1 Điều tra tìm hiểu thông tin
Thị trường quốc tế chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, thường là phong phú đa dạng hơn nhiều so với thị trường nội địa. Nhưng dù ở trong nước hay quốc tế thì việc điều tra cũng cần phải có thông tin. Hiện nay chúng ta có hai nguồn thông tin chính đó là thông tin thứ cấp và thông tin sơ cấp.
a. Các nguồn thông tin thứ cấp
Là tất cả những thông tin đã được công bố như tin tức và tài liệu thương mại, tạp chí... có thể phân loại thành các nguồn chủ yếu sau: thông tin của các tổ chức quốc tế như các tổ chức chuyên ngành của liên hợp quốc (WTO, ITC, ESCAP), các tổ chức theo ngành hàng, sách báo thương mại, nguồn tin của các tổ chức chuyên ngành về thông tin...
Ưu điểm cơ bản của các nguồn thông tin thứ cấp là chi phí thu thập rất rẻ, thông tin thu được rất đa dạng. Tuy nhiên, chúng có nhược điểm là kém tính cập nhật, độ tin cậy không cao và không phản ánh được nhiều khía cạnh quan trọng của thị trường như tập tính, thị hiếu, sở thích tiêu dùng.
b. Các nguồn thông tin sơ cấp
Là thông tin do bản thân doanh nghiệp tự thu thập trên thị trường thông qua trao đổi trực tiếp với thương nhân và khách hàng nước ngoài. Có 3 phương pháp chính để thu thập thông tin sơ cấp: phỏng vấn, quan sát, thử nghiệm thị trường.
Các nguồn thông tin sơ cấp có ưu điểm là cập nhật, có độ chính xác cao và bao quát được nhiều khía cạnh của thị trường không được phản ánh trong các nguồn thông tin thứ cấp song chi phí cho loại thông tin này rất cao.
3.1.2 Việc nghiên cứu thị trường quốc tế được tiến hành theo các nhóm nhân tố ảnh hưởng sau
Nghiên cứu các nhân tố mang tính toàn cầu
Nhân tố mang tính toàn cầu là nhóm nhân tố thuộc về hệ thống thương mại quốc tế. Mặc dù xu hướng hiện nay trên thế giới là tự do mậu dịch, các quốc gia đang nỗ lực để giảm bớt hàng rào ngăn cản đối với hoạt động kinh doanh quốc tế song các nhà kinh doanh quốc tế vẫn phải đối diện với các hạn chế thương mại khác nhau như: thuế quan, hàng rào phi thuế quan (hạn ngạch, cấm vận, sự kiểm soát ngoại hối chặt chẽ của Chính phủ các nước, giấy phép nhập khẩu...). Các nhà xuất khẩu phải nghiên cứu kỹ các hạn chế thương mại này và tính toán thật cẩn thận trước khi đưa ra quyết định kinh doanh.
Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường kinh tế
Khi xem xét, phân tích thị trường nước ngoài, nhà kinh doanh phải nghiên cứu nền kinh tế của từng nước. Có 3 đặc tính kinh tế phản ánh sự hấp dẫn của một nước xét như một thị trường cho doanh nghiệp nước ngoài:
Thứ nhất là cấu trúc công nghiệp của nước đó: Cấu trúc công nghiệp của một nước định hình các yêu cầu về sản phẩm và dịch vụ, mức lợi tức và mức độ sử dụng nhân lực. Có thể phân biệt các nước thành 4 loại cấu trúc công nghiệp như sau: các nền kinh tế tự cấp tự túc, các nền kinh tế xuất khẩu nguyên liệu thô, các nền kinh tế đang công nghiệp hoá, các nền kinh tế công nghiệp hoá.
Thứ hai là phân phối thu nhập: Sự phân phối thu nhập của một nước bị chi phối bởi cấu trúc công nghiệp, song còn chịu chi phối của nhân tố chính trị.
Thứ ba là động thái của nền kinh tế: Các nước trên thế giới đang trải qua những giai đoạn phát triển khác nhau được đặc trưng bằng tốc độ tăng trưởng như: các nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế rất cao, các nước công nghiệp phát triển đã đi vào thế ổn định với tốc độ tăng trưởng thấp, các nước phát triển có tốc độ tăng trưởng thấp, các nước kém phát triển có nền kinh tế trì trệ thậm chí suy thoái triền miên.
Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường chính trị - pháp luật:
Các quốc gia rất khác nhau về môi trường chính trị - pháp luật. Do đó khi xem xét khả năng mở rộng hoạt động sang một thị trường nước ngoài cần chú ý đến một số nhân tố cơ bản sau:
Sự ổn định chính trị
Sự điều tiết về tiền tệ
Tính hiệu lực của bộ máy chính quyền
Các quy định mang tính bắt buộc về pháp luật và quản lý
Thái độ đối với nhà kinh doanh nước ngoài.
Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường văn hoá
Mỗi nước đều có nền văn hoá, tập tục, quy tắc, thói quen, phong cách riêng. Chúng được hình thành theo truyền thống văn hoá của mỗi nước và có ảnh hưởng to lớn đến tập tính tiêu dùng của dân cư nước đó. Tuy sự giao lưu văn hoá giữa các nước đã làm xuất hiện rất nhiều tập tính tiêu dùng chung cho mọi dân tộc, song cũng có nhiều văn hoá truyền thống vẫn còn rất bền vững, có ảnh hưởng rất mạnh đến thói quen và tâm lý tiêu dùng.
Sự khác biệt về văn hoá ảnh hưởng đến cách thức giao dịch được tiến hành, loại sản phẩm mà khách hàng sẽ mua và những hình thức khuyếch trương có thể được chấp nhận. Đặc điểm văn hoá thể hiện ở những nội dung sau: Thời gian, không gian, ngôn ngữ, sự quen thuộc, kỹ thuật đàm phán, hệ thống pháp lý, cách tiêu thụ.
Nghiên cứu các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh
Sự hấp dẫn của thị trường nước ngoài còn chịu ảnh hưởng quan trọng của mức độ của cạnh tranh trên thị trường đó. Trước hết các nhà kinh doanh nước ngoài phải đối mặt với các đối thủ cạnh tranh n