Đề tài Những đặc điểm tâm lí của trẻ thiếu nhi

Tâm lí học là một khoa học tìm hiẻu ề ý thức con nguời để biét mình biét người,biết ứng xử sao cho hợp tình hợp lí, biết sống một cách hài hòa và sung mãn để trưởng thành tốt đẹp, tuơng ứng với từng lưa tuổi và tránh đựoc những thất bại trên đường đời. Đó là một khoa học về con người với những suy tư và hành động, cảm nhận và tương tác, bên trong và bên ngoài, chiếu sâu và chiều rộng. Trong chừng mực của vấn đề giáo dục thanh thiếu niên và thiếu nhi, các nhà sư phạm và giáo dục cũng sẽ không thể nào bỏ qua không thể tìm hiểu khoa tâm lí học đặc biệt đối với từng lứa tuổi các em. Với mỗi chúng ta cũng nên đối chiếu lại chính kinh nghiệm thời thơ ấu và niên thiếu của mình, những gì mình đã gánh chịu thiệt thòi, cũng như những gì mình đã may mắn được nhận. Bản thân mỗi chúng ta là một đứa trẻ nhỏ, vậy đừn biến các em nhỏ trở thành “ những ông cụ non”, “ các bà thánh nhỏ” nghĩa là bắt các em rập khuôn theo về tâm lí theo kiểu người lớn, điều mà ngầy xưa chúng ta đã bực bội khó chịu và âm thầm đề kháng. Trong thực tế, ở độ tuổi này, các em vẫn hoàn toàn nằm trong vòng tay chăm sóc và giáo dục của bố mẹ và các anh chị trong gia đình các em, trong bài viết này, người viết xin nghiên cứu giai đoạn này để có thể hiểu đựơc diễn biến tâm lí các cháu. Nơi mỗi một con người luôn có sự phát triển liên tục từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, cací trước làm tiền đề cho cái sau kế thừa và phát triển.

doc29 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 10351 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những đặc điểm tâm lí của trẻ thiếu nhi, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Những đặc điểm tâm lí của trẻ ấu nhi. Lý do và mục đích chọn đề tài. Tâm lí học là một khoa học tìm hiẻu ề ý thức con nguời để biét mình biét người,biết ứng xử sao cho hợp tình hợp lí, biết sống một cách hài hòa và sung mãn để trưởng thành tốt đẹp, tuơng ứng với từng lưa tuổi và tránh đựoc những thất bại trên đường đời. Đó là một khoa học về con người với những suy tư và hành động, cảm nhận và tương tác, bên trong và bên ngoài, chiếu sâu và chiều rộng. Trong chừng mực của vấn đề giáo dục thanh thiếu niên và thiếu nhi, các nhà sư phạm và giáo dục cũng sẽ không thể nào bỏ qua không thể tìm hiểu khoa tâm lí học đặc biệt đối với từng lứa tuổi các em. Với mỗi chúng ta cũng nên đối chiếu lại chính kinh nghiệm thời thơ ấu và niên thiếu của mình, những gì mình đã gánh chịu thiệt thòi, cũng như những gì mình đã may mắn được nhận. Bản thân mỗi chúng ta là một đứa trẻ nhỏ, vậy đừn biến các em nhỏ trở thành “ những ông cụ non”, “ các bà thánh nhỏ” nghĩa là bắt các em rập khuôn theo về tâm lí theo kiểu người lớn, điều mà ngầy xưa chúng ta đã bực bội khó chịu và âm thầm đề kháng. Trong thực tế, ở độ tuổi này, các em vẫn hoàn toàn nằm trong vòng tay chăm sóc và giáo dục của bố mẹ và các anh chị trong gia đình các em, trong bài viết này, người viết xin nghiên cứu giai đoạn này để có thể hiểu đựơc diễn biến tâm lí các cháu. Nơi mỗi một con người luôn có sự phát triển liên tục từ độ tuổi này sang độ tuổi khác, cací trước làm tiền đề cho cái sau kế thừa và phát triển. Nội dung đề tài 2.1. Vị trí và ý nghĩa của tuổi ấu nhi trong quá trình phát triển tâm lí con người. Lứa tuổi ấu nhi, là thời kì đứa bé bắt đầu thôi nôi và lẫm chẫm những bước đi đầu đời, đưa tay sờ nắm bất cứ vật gì trong tầm tay, dõ mắt khám phá những khung cảnh xa hơn và hoàn toàn mới lạ, phạm vi tiếp xúc với người khác cũng rọng hơn chứ không chỉ dừng lại nơi vòng tay người mẹ. do vậy cần chuẩn bị cho bé một không gian và môi trường an toàn, thoang đãng , không ô nhiễm về tiếng ộng và khi thở, có nhiều đồ vật tròn trĩnh, dễ thuơng, nhiều màu sắc hài hòa, hấp dẫn. bầu khong khí chung quanh phải trìu mến, yêu thương, hanh phúc. Đây là thời kì của những giác động mở ra cho các em những tiếp xúc vật chất và những tương quan nhân vị, chủ yếu dựa vào ngũ giác ( nhìn, nghe, ngửi, nếm, sờ) vượt trội hơn hẳn giai đoạn bé nằm trong nôi hoặc ẵm ngửa trên tay người lớn, thời kì này là nền tảng hết sức quan trọng cho tương lai. Hiểu được tâm lí của trể ấu nhi sẽ giúp chúng ta chăm sóc các trẻ nhỏ tốt hơn và xây dựng được những biện pháp giáo dục hiệu quả có tác động trực tiếp đến sự hình thành nhân cách của các bé sau này.Các giai đoạn phát triển trong tâm lí thanh thiếu niên được phân chia: Từ 0-1 tuổi: Hoạt động giao lưu cảm xúc trực tiếp với người lớn, trước hết là mẹ chiếm vị trí hàn đầu, quyết định sự hình thành và nhân cách của trẻ. Đó là hoạt động chủ đạo đầu tiên trong cuộc đời con người. Đây là giai đoạn cộng sinhvề mối quan hệ tình cảm giửa trẻ và người mẹ, tiếp theo sau thời kì cộng sinh về cơ thể. Từ 2-3 tuổi là thời kì vườn trẻ: Thời kì này xảy ra quá trình trẻ tiếp thu mạnh mẽ những thao tác công cụ- đối tượng, những tri thức thực tiễn đựơc hình thành. Hoạt động với đối tượng do xã hội tạo ra dần dần chiếm vị trí chủ đạo ở lứa tuổi này. Từ 4-6 tuổi: Hoạt động trò chơi chiếm vị trí chủ đạo. Ở đây nhờ trò chơi đóng vai, đứa trẻ mô phỏng lại trong trò chơi những mối quan hệ con người với con người cùng với những chuẩn mực xã hội mà nó tiếp thu được trong cuộc sống. Nhờ đó nó dần dần phát triển nhân cách của mình với tư cách là một thành viên của xã hội. Từ 6-7 tuổi: Hoạt động học tập nhằm chiếm lĩnh những hệ thống tri thức , những phương thức hoạt động chiếm vị trí chủ đạo. Đây là giai đoạn mà trí tuệ của trẻ phát triển rất thuận lợi. Từ 11-12 đến 14-15 tuổi: Ở giai đoạn này xuất hiện và phát triển một loạt hoạt động đặc biệt nhằm thiết lập các mối quan hệ trẻ em thiếu niên với nhau, dựa trên sự tin cậy, những sở thích , hứng thú, tình cảm bạn bè với nhau. Quan hệ giữa cá nhân với nhóm, với tập thể đựoc hình thành. Hoạt động giáo dục nhằm thiết lập và vận hành các mối quan hệ cá nhân thân tình chiếm vị trí chủ đạo ở lứa tuổi này. Từ 15-17 tuổi: Hoạt động học tập có định hướng nghề nghiệp để chuẩn bị bước vào đời là hoạt động chủ đạo ở lứa tuổi này. Những hoạt động chủ đạo ở từng giai đoạn không vận hành một cách trơ trọi mà nó còn liên quan đến những hoạt động đã được hình thành ở giai đoạn trước. Những hoạt động chủ đạo ở giai đoạn trước chính là cơ sở, điều kiện của những hoạt động chủ đạo được hình thành sau.Trong quá trình phát triển tâm lí con người, tuổi ấu nhi có vai trò đặc biệt quan trọng: Trẻ em có xúc cảm rất sớm “những phức cảm mừng rỡ” là biểu hiện của những cảm xúc xuất hiện đầu tiên trong cuộc đời đứa trẻ. Tất cả những cái đó diễn ra vào giai đoạn phát triển sớm nhất của đứa trẻ nghĩa là vào lứa tuổi ấu nhi. Lứa tuổi ấu nhi choán một thời kì không dài lắm trong quá trình phát triển của đứa trẻ, nó kéo dài trong khoảng hai năm. Nhưng biết bao nhiêu là những điều kì diệu đã diễn ra trong khoảng thời gian này! Trong suốt cả cuộc đời con người không hề có thời kì nào mà sự thay đổi lại diễn ra nhanh chóng và triệt để như vậy. Chỉ cần nói rằng trong thời kì này đứa trẻ bắt đầu biết đi, trọng lượng của não tăng lên hai lần, trọng lượng thân thể tăng lên ba lần và chiều cao tăng gấp rưỡi. Trong tuổi ấu nhi đã diễn ra “ quá trình trở thành người” thực sự của đứa trẻ: nó bắt đầu biết tri giác, biết ghi nhớ, biết suy nghĩ; nó đã có những tình cảm khá nhiều vẻ, đã hiểu lời nói của những người xung quanh và nó đã bắt đầu bập bẹ những tiến nói đầu tiên. Như chúng ta đã biết nếu một đứa trẻ không được tiếp xúc bình thường với mọi người thì khả năng trở thành người chẳng những không xuất hiện mà còn bị triệt tiêu vĩnh viễn trong lứa tuổi ngây thơ nghĩa là vào khoảng đứa trẻ từ hai đến bốn năm. Những trường hợp mà các em nhỏ được “giáo dục” bởi những động vật hoang dã đã chứng minh cho điều này. Những trẻ em như vậy vẫn chỉ là “ động vật”. Đứa trẻ cần con người dẫn dắt nó vào thế giới loài người. Đứa trẻ mới sinh ra không biết gì hết, nếu như những người lớn không bắt tay vào những biện pháp cần thiết để chăm sóc nó, để làm cho nó dễ dàng chuyển sang những điều kiện mới thì cuộc sống của nó sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm. Chính vào giai đoạn “ biết bao điều kì diệu xảy ra này” - mà tuổi ấu nhi chiếm vị trí hết sức quan trọng, nó quyết định sự “ trở thành người của đứa trẻ. 2.2. Những đặc điểm tâm lý ở lứa tuổi ấu nhi. 2.2.1. Hoạt động với đồ vật là hoạt động chủ đạo. Sự phát triển những hành động với đối tượng là thành tựu đầu tiên rõ rệt ở lứa tuổi này. Trong khi hành động với đối tượng, trẻ không chỉ lĩnh hội những phương thức hành động của các công cụ, các đối tượng mà còn lĩnh hội chức năng của chúng. Ví dụ: đứa trẻ tập ăn bằng thìa, uống bằng cốc… rồi dần dần lĩnh hội được ý nghĩa của các đồ vật đó theo kiểu người. Trong khi lĩnh hội những hành động sử dụng các đồ vật sinh hoạt hằng ngày, đồng thời trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc hành vi xã hội. Một em bé khi giận dỗi có thể ném cái cốc nước xuống sàn, nhưng bằng kinh nghiệm của mình ( thông qua thái độ của người lớn) dần dần nó nhận ra đó là một hành vi không đúng, không phù hợp với qui tắc sử dụng đồ vật và lần sau, “ nhỡ” có làm như vây, nó tỏ ra sợ hãi khi nhìn vào mặt người lớn. Những qui tắc ứng xử xã hội sẽ được hình thành dần dần như vậy. Suốt thời kì vườn trẻ (tuổi ấu nhi), hoạt động, hành động với đồ vật luôn luôn giữ vai trò chủ đạo. Trẻ hướng vào thế giới đồ vật do con người tạo ra để tìm hiểu, khám phá chúng theo hướng: “ Đây là cái gì? Có thể làm gì với cái này? Làm thế nào?”… Lúc này trẻ luôn luôn tìm hiểu, khám phá để xem cần phải hành động với các đồ vật xung quanh thế nào. Do đó khi gặp một đồ vật bất kì nào trẻ cũng muốn hành động với nó. Đó là những hành vi tích cực giúp cho sự phát triển tâm lý của trẻ. Tuy nhiên trong vô số đồ vật mà trẻ muốn hành động với chúng, có rất nhiều đồ vật dễ bị hư hỏng( như cốc dễ bị vỡ, sách dễ bị rách…) hoặc gây nguy hiểm( dao dễ làm đứt tay). Tình hình này dẫn đến mâu thuẫn giữa tính tích cực hoạt đọng của trẻ với sự “ bảo vệ ” cấm đoán của người lớn. do đó đồ chơi ra đời là để giải quyết mâu thuẫn này. Rẻ không hành động với đồ vật thật thì hành động với đồ chơi( là mô hình của đồ vật thật). Đối với mỗi loại đồ chơi hay đồ vật thật, trẻ đều cố gắng tìm kiếm một phương thức hành động tương ứng. Sự tiếp xúc với thế giới xung quanh ngày càng rộng thì phương thức hành động với đồ vật cũng ngày càng phong phú. Trong số những hành động với đồ vật mà trẻ nắm vững được ở lứa tuổi ấu nhi thì những hành động thiết lập các mối tương quan và những hành động công cụ là những hành động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng với sự phất triển của trẻ hơn cả. Hành động thiết lập các mối tương quan: Đó là những hành động đưa hai hoặc nhiều đối tượng( hoặc các bộ phận của chúng ) vào những mối tương quan nhất định. Chẳng hạn hành động chồng các khối gỗ từ to đến nhỏ thành hình tháp, hoạt động lắp rắp các đồ chơi, lồng những con búp bê đồng dạng vào nhau… Muốn thiết lập được mối tương quan trẻ phải tính đến thuộc tính của đối tượng và ý nghĩa của những thuộc tính ấy trong một trật tự nhất định nào đó. Nhờ hành động thiết lập mối tương quan mà các chức năng tâm lí như tri giác, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy được phát triển mạnh đặc biệt là tư duy trực quan hành động. Hành động thiết lập các mối tương quan giữa các đối tượng, những thuộc tính, chức năng của nó, ý nghĩa của nó... được bộc lộ trước hết nhờ ảnh hưởng giáo dục và dạy học của người lớn. Ngay trong tuổi hài nhi, trẻ đã bắt đầu thực hiện các hành động với đồ vật như tháo ra, lắp vàp, đậy lại. Tuy nhiên, các hành động này có đặc điểm là khi tiến hành, trẻ hài nhi chưa biết đến các thuộc tính của đồ vật, chưa biết chọn đồ vật theo hình dáng và kích thước sắp xếp chúng theo một trật tự nhát định. Ngựoc lại, những hành động thiết lập mói tương quan mà trẻ bắt đầu lĩnh hội ở tuổi ấu nhi đòi hỏi phải tính đến những thuộc tính của đối tượng. Chẳng hạn để xếp được hình tháp cho đúng, trẻ cần phải chuý ý đến tương quan về độ lớn của các khối gỗ, phải biết xếp khối gỗ to nhất ở dưới cùng, rồi chồng lên lần lượt những khối gỗ nhỏ dần. Hành động với đồ chơi lắp ghép cũng thế, trẻ càn phải biết thuộc tính của đồ chơi. dây là những hành đọng khá phức tạp đối với trẻ ấu nhi, bởi vì những hành động này phải được điều chỉnh bằng chính kết quả thu được. Nhưng trẻ lại chưa thể tự mình tạo ra kêt qua đó, nhất là ở trong thời kì đầu, trẻ rất khó đạt tới kết quả này, chung thưòng sắp xếp lung tung. Ngưòi lớn cần phải giúp trẻ đạt tới kết quả đúng bằng cách làm mẫu cho trẻ và giúp trẻ thực hiện cách hành động để trẻ dần nắm được hành động đó, dần dần trẻ hiểu ra rằng với những đồ vật khác nhau cần phải hành động theo những mức độ mang tính tự do khác nhau. Chẳng hạn, việc xâu hạt vào dây, lồng các con búp bê..., những việc hành động tương dối tự do hơn (ít chặt chẽ hơn) so với việc cầm búa để gõ, cầm bút chì để vẽ. Chính điều này hình thành ở trẻ tâm thế đi tìm trong mỗi hành động- công cụ một chức năng đặc biệt của nó. Hành động công cụ: là hành động trong đó một đồ vật nào đó được sử dụng như một công cụ để tác động lên các đồ vật khác. Chẳng hạn dùng thìa để xúc cơm, dùng dao để thái rau... Ở tuổi ấu nhi trẻ mới học cách sử dụng một số công cụ sơ đẳng nhất như thìa, cốc, bút chì,...Tuy vậy, những cái đó cũng đã có ý nghĩa rất lớn với sự phát triển tâm lí vì, bất kì một công cụ nào cũng có một cấu tạo và cách dùng nhất định: cách thức dùng là do xã hội qui định và cấu tạo công cụ là do chức năng của nó qui định. Việc sử dụng công cụ đòi hỏi phải thay đổi những động tác của bàn tay, làm cho bàn tay phải phục tùng cấu tạo của công cụ. Ví dụ: muốn ăn cơm bằng thìa đứa trẻ phải biết cầm đúng vào cán thìa, xoay cho thìa nằm ngửa thì mới xúc được cơm trong bát, từ bát đưa thẳng thìa lên mồm rồi mới cho vào mồm. Có nghĩa là động tác của tay phải được thay đổi sao cho phù hợp với cấu tạo của thìa. Điều này đuợc người lớn dạy bảo theo kiểu làm mẫu, hướng dẫn một cách cụ thể, nhiều lần. nhờ đó trẻ dần dần nắm được nguyên tắc của việc sử dụng công cụ mà loài người đã “ghi vào” trong đó. Hành động công cụ mà trẻ nắm đựoc ở lứa tuổi ấu nhi chưa phải là hoàn toàn thành thạo, còn phải tiếp tục hoàn thiện thêm, song điều quan trọng là ở chỗ trrẻ nắm đựơc chính nguyên tắc của việc sử dụng công cụ, một trong nhũng nguyên tắc hoạt động cơ bản của con người. 2.2.2. Sự phát triển ngôn ngữ. Song song với hoạt động công cụ, sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em ở lứa tuổi này là một thành tựu nổi bật. Hứng thú của trẻ ngày càng tăng với hoạt động đồ vật, ngày càng kích thích trẻ hướng tới ngưòi lớn, mở rộng sự giao tiếp với người lớn. Tuổi ấu nhi là thời kì nhạy cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ, là thời kì lĩnh hội ngôn ngữ diễn ra đặc biệt có hiệu quả “ thỏ thẻ như trẻ lên 3”. Cuối năm thứ nhất trẻ có khoảng 30-40 từ, năm thứ hai có khoản 300 từ và lên 3 tuổi trẻ có khoảng 1500 từ. Lúc đầu, việc thông hiểu ngôn ngữ gắn với tình huống: tình huống cụ thể + lời nói = tín hiệu hành động. Sau dần trẻ hiểu được lời nói không phụ thuộc vào tình huống nữa. Giai đoạn này bắt đầu thời kì “ phát cảm ngôn ngữ” và xuất hiện “ ngôn ngữ tự trị” các em thường ít chú ý tới ý nghĩa của những lời nói mà chú ý nhiều hơn đến giọng nói mà qua đó những lời được phát ra. Sự xuất hiện của lời nói là một mốc phát triển mới về chất rất quan trọng của tâm lý đứa trẻ. Lời nói trước hết tạo điều kiện cho nhu cầu tiếp xúc tích cực với người lớn của đứa trẻ. Hơn nữa, sự phát triển khả năng nói làm phong phú thêm nhu cầu nhận thức của đứa trẻ, làm phát triển tư duy của nó và có liên quan mật thiết với tính chất của những kết luận còn ấu trĩ của nó. Những lời nói đầu tiên của đứa trẻ thường có đặc điểm là có nhiều nghĩa. Nói cách khác, đứa trẻ thường gọi tên những sự vật hoàn toàn khác nhau bằng cùng một lời nói. Đến cuối năm thứ hai, đứa trẻ đã có thể hiểu được những câu chuyện đơn giản. Nhưng đứa trẻ hai tuổi vẫn còn duy trì lời nói có nhiều nghĩa. Trẻ nhận ra mối liên quan có thực giữa những đồ vật và những từ đứng sau nó(định danh cho nó). Khả năng gắn từ với đối tượng và hành động mà nó biểu thị được hình thành từng bước theo hai hướng chính: một mặt trẻ hoàn thiện sự thông hiểu lời nói của người lớn, một mặt khác hình thành ngôn ngữ tích cực của riêng mình. Hầu hết các công trình nghiên cứu về ngôn ngữ của trẻ em ở lứa tuổi này đã khẳng định: trình độ ngôn ngữ của trẻ em phụ thuộc chủ yếu vào sự dạy bảo của người lớn. Càng thoả mãn yêu cầu giao tiếp của trẻ bao nhiêu, ngôn ngữ của trẻ càng phát triển phong phú, đa dạng bấy nhiêu và ngược lại. Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ trong lứa tuổi này có nét đặc trưng là mang tính “ vô định hình”. Sự biểu hiện của nó là trẻ diễn đạt lời nói của mình theo cách riêng không giống với người lớn. Ví dụ: “ măm” là ăn, “ xịt” là thịt, trẻ thường dùng câu rút gọn để diễn tả: lúc đầu là câu một âm tiết, rôi 2,3 âm tiết : trật tự các âm tiết có khi không sắp xếp theo thứ tự như: măm ( mẹ cho ăn), bế mẹ ( mẹ bế con). Tình trạng ngôn ngữ như thế này sẽ nhanh chống được khắc phục nếu trẻ đựơc ở trong môi trường giao tiếp thường xuyên và được sự dạy dỗ đúng hướng của người lớn. Khi 3 tuổi ngôn ngữ của trẻ phát triển mạnh cả về khối lượng từ và cấu trúc ngữ pháp: trẻ nói khá thạo câu đơn. Cuối 3 tuổi trẻ nói đựoc câu phức như “ Ai hư không được đi chơi”, “ Tại chị ấy lấy của con, con mới khóc”. Trẻ lĩnh hội nghĩa của từ sẽ sâu sắc hơn khi trẻ lĩnh hội được phương thức sử dụng đồ vật. Trẻ nắm được từ chỉ đồ vật mang ý nghĩa khái quát mang theo chức năng ( thìa) hoặc từ chỉ hành động mang ý nghĩa khái quát theo mục đích ( khều) chủ yếu là thông qua hoạt động với đồ vật. Sự phát triển ngôn ngữ mạnh ở thời kì này làm cho các phẩm chất tâm lí khác như tri giác, trí nhớ, tư duy của trẻ có những thay đổi về chất. 2..2.3. Sự phát triển tư duy trực quan hành động. Loại tư duy này gắn với sự phát triển của hoạt động đồ vật. Ở tuổi ấu nhi, tri giác của trẻ tinh vi và đầy đủ dần chính là nhờ trẻ được hoạt động với đồ vật nhất là hành động công cụ và hành động thiết lập các mối tương quan. Trong khi hành động với một đồ vật nào đó để lĩnh hội phương thức sư dụng nó thì đồng thời cũng tri giác được kích thước và hình dạng của nó. Khi đứa trẻ học thực hiện hành động thiết lập những mối tương quan, nó cần phải lựa chọn và liên kết các đối tượng hay các phân của chúng cho phù hợp với hình dạng, độ lớn, màu sắc, xếp chúng vào mối tương quan nhất định trong không gian, thì trẻ cũng nhận ra được ác vị trí, phương hưóng và trình tự sắp xép của ác đồ vật. Như vạy, trẻ đã hình thành được những hành động tri giác mới đó là những hành động định hướng bên ngoài, tạo tiền đề để thiết lập những hành động định hướng bên trong sau này .Từ sự đối chiếu, so sánh những thuộc tính của các đối tượng bằng các hành động định hướng bên ngoài, trẻ chuyển sang so sánh đối chiếu các thuộc tính của các đồ vật bằng mắt. Một kiểu hành động tri giác mới được hình thành, chúng định hướng bằng mắt trong khi hành động với đồ vật. Tuy nhiên, trẻ đồng nhất các dấu hiệu của đối tượng thật và hình ảnh của chúng. Hành động định hướng bằng mắt cho phép trẻ tích luỹ được khá nhiều biểu tượng về các biểu tượng trong hiện thực và được ghi lại trong kí ức, biến thành các mẫu để so sánh với các đồ vật khác trong khi tri giác chúng. Bên cạnh tri giác bằng mắt ở tuổi ấu nhi, sự tri giác bằng tai cũng phát triển mạnh mẽ. Hoạt động cơ bản của trẻ gắn liền với tri giác âm thanh là sự giao tiếp ngôn ngữ. Thông thường ở tuổi thứ hai, tri giác được tất cả âm vị của tiếng mẹ đẻ. Cuối tuổi hài nhi ở nhiều trẻ đã xuất hiện những hành động có thể coi đó là mầm mống của tư duy, trẻ biết sử dụng mối liên hệ giữa đối tượng để đạt tới mục đích chẳng hạn lấy rổ để đựng đồ, nhưng việc này chỉ xuất hiện trong tình huống đơn giản và quen thuộc . Điều quan trọng là trẻ học được những hành động xác lập mối quan hệ giữa đồ vật để giải quyết một nhiệm vụ thực tiễn nào đó. Việc chuyển từ những mối liên hệ có sẵn hay những mối liên hệ do người lớn chỉ ra sang biết xác lập những mối liên hệ mới giữa các đối tượng là mức độ quan trọng đối với sự phát triển tư duy của trẻ.. Những biểu hiện tư duy của nó đang gắn rất chặt với hành động trong những tình huống cụ thể. Tư duy này có được là do trẻ hành động trực tiếp với đối tượng dưới sự giúp đỡ của người lớn. Chẳng hạn để thực hiện động tác lấy quả cam đựng trong rổ, đứa trẻ sẽ kéo cái rổ đến gần và lấy quả cam. Nếu quả cam nằm ở gầm bàn, trẻ phải dùng que để khều cho quả cam đến gần để lấy... Trẻ tuổi ấu nhi sử dụng loại tư duy trực quan hành động để “nghiên cứu” những mối quan hệ của thế giới khách quan. Nhờ đó trẻ dần dần xác lập được những mối quan hệ, liên hệ giữa sự vật, hiện tượng. Hành động công cụ và hành động thiết lập những mối tương quan không chỉ giúp trẻ giải quyết những nhiệm vụ cụ thể mà mặt khác đó chính là con đường để trẻ nắm được hoạt động của tư duy. Trong hành động thực tiễn với đối tượng trẻ khám phá ra rằng những đối tượng khác nhau có thể sử dụng bằng cách thức giống nhau. Ví dụ: cái gậy có thể khều quả cam ở gầm giường để lấy, cũng có thể giơ lên cao để chọc quả chuối, có thể lăn quả bóng từ góc này đến góc khác...Vậy là xuất hiện tính khái quát ban đầu của công cụ, của kinh nghiệm hành động. Đây chính là điều cực kì quan trọng của sự phát triển tư duy, vì như các nhà tâm lý học hiên đại đã khẳng định: trình độ tư duy của con nguời đều bắt đầu từ những hành động thực tiễn , vật chất ban đầu. Bằng kinh nghiẹm hoạt động của mình, dưới sự dạy dỗ củ người lớn, tư duy của trẻ em ở lứa tuổi này dần dần được gắn thông nhất với ngôn ngữ. Điền này thể hiện rõ ở chỗ vào lứa tuổi 3 tuổi, ngôn ngữ của người lớn có thể thúc đẩy sự phát triển tư duy hành động trực quan của trẻ. Ví dụ: trẻ đang loay hoay kéo một cái hộp qua những thanh ngang trên đầu giường, người mẹ nói: “ Con quay ngược