Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều
cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt
Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể , mà theo các chuyên gia nhận định đây là những
trứng vàng của nền kinh tế.
Từ 2006 đến thàng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam không
ngừng tăng lên và liên tiếp lập những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Năm
2009, trong giai đoạn kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề, nguồn
vốn FDI vẫn duy trì ở mức cao tuy thấp hơn so với đỉnh vào năm 2008, và dự báo
trong năm 2010 sẽ tiếp tục tăng trở lại.Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ là
tăng về số lượng các dự án mà tăng về cả qui mô và chất lượng của các dự án. Cũng
như ngày càng có nhiều quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới tìm hiểu cơ hội đầu tư
vào thị trường Việt Nam. Việc tiếp nhận vốn FDI sõ tạo ra cơ hội tiếp cận với trình độ
khoa học kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao của thế giới và giải quyết
công ăn việc làm cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát
triển, tạo nên tính năng động và cạnh tranh cho thị trường.
63 trang |
Chia sẻ: maiphuong | Lượt xem: 1381 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1
TÓM TẮT ĐỀ TÀI
1. Lý do chọn đề
Năm 2006, Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO đã mở ra nhiều
cơ hội phát triển cho nền kinh tế Việt Nam. Việc thu hút nguồn vốn FDI của Việt
Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể , mà theo các chuyên gia nhận định đây là những
trứng vàng của nền kinh tế.
Từ 2006 đến thàng 8 năm 2008, nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam không
ngừng tăng lên và liên tiếp lập những mốc kỷ lục mới về tổng mức vốn đầu tư . Năm
2009, trong giai đoạn kinh tế thế giới lâm vào tình trạng khủng hoảng nặng nề, nguồn
vốn FDI vẫn duy trì ở mức cao tuy thấp hơn so với đỉnh vào năm 2008, và dự báo
trong năm 2010 sẽ tiếp tục tăng trở lại.Nguồn vốn FDI đổ vào nước ta không chỉ là
tăng về số lượng các dự án mà tăng về cả qui mô và chất lượng của các dự án. Cũng
như ngày càng có nhiều quốc gia, các tập đoàn lớn trên thế giới tìm hiểu cơ hội đầu tư
vào thị trường Việt Nam. Việc tiếp nhận vốn FDI sõ tạo ra cơ hội tiếp cận với trình độ
khoa học kỹ thuật hiện đại, trình độ quản lý kinh tế tầm cao của thế giới và giải quyết
công ăn việc làm cho lao động trong nước. FDI trở thành một trong những nguồn
cung cấp vốn quan trọng cho nên kinh tế, là động lực thúc đẩy kinh tế Việt Nam phát
triển, tạo nên tính năng động và cạnh tranh cho thị trường.
Tuy nhiên, bên cạnh những đóng góp tích cực của vốn FDI, thì nguồn vốn này
vẫn tiềm ẩn những rui ro nếu chúng ta không có các biện pháp quản lý hợp lý và đồng
bộ. Đặt biệt trong những năm gần đây tình hình các doanh nghiệp FDI kê khai lỗ kéo
dài nhiều năm làm cho chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế ảnh hưởng trực tiếp đến
ngân sách, bên cạnh đó tạo ra sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp
trong nước, tác động không tốt đến cơ chế quản lý tài chính của chính phủ trong lĩnh
vực FDI, và ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng nguồn vốn này cũng như tác động xấu
đến mục tiêu thu hút và quản lý vĩ mô vốn FDI của chính phủ. Vấn đề dược đặt ra là
đã có hình vi “chuyển giá “tại các doanh nghiệp FDI hiện nay. Đứng trước tình hình
này Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư 66/2010/TT-BTC vào ngày 22 tháng 4 năm
2
2010 hướng dẫn thực hiện việc xác định giá thị trường trong giao dịch kinh doanh
giữa các bên có quan hệ liên kết. Thông tư này thay thế Thông tư 117/2005/TT-BTC
ngày 19 tháng 12 năm 2005. Tình hình chuyển giá đã và đang là một thực trạng đáng
báo động ở Việt Nam hiện nay, trong khi các quốc gia phát triển đã có nhiều kinh
nghiệm trong việc chống chuyển giá ở các công ty đa quốc gia, thì Việt Nam vẫn còn
thiếu kinh nghiệm trong vấn đề này. Chính vì lý do này tôi quyết định chọn đề tài
“Những diễn biến của hiện tượng chuyển giá ở Việt Nam trong thời kì hội nhập” làm
đề tài nghiên cứu.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Mục đích của đề tài này là tìm hiểu, nghiên cứu và phân tích hiện tượng
chuyển giá ở Việt Nam trong thơi gian qua, khi nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam
ngày càng tăng, và hoạt động của các công ty đa quốc gia ngày càng sôi động. Từ đó,
đề ra một số biện pháp chống chuyển nhằm giúp các cơ quan chức năng quản lý tốt
hơn các doanh nghiệp FDI trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các doanh nghiệp FDI đang hoạt động
trên địa bàn TP HCM nói riêng và cả nước nói chung và hiện tượng chuyển giá của
các doanh nghiệp này tại Việt Nam trong những năm gần đây.
3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp sử dụng trong đề tài là và phương pháp thống kê, liệt kê, phân
tích các nguồn số liệu từ đó đưa ra nhận xét để làm rõ vấn đề. Bên cạnh đó dê tài còn
sử dụng phương pháp phương so sánh trong quá trình phân tích.
4. Cấu trúc dự kiến
Chương 1: Công ty đa quốc gia và hoạt động chuyển giá
Chương 2: Thực trạng chuyển giá quốc tế ở Việt Nam trong thởi kì hội nhập kinh tế
thế giới
Chương 3: Những giải pháp chống chuyển giá ở Việt Nam
5. Đóng góp của đề tài
Đóng góp một số giải pháp chống chuyển giá cho các cơ quan quản lý của
nhà nước quản lý tốt hơn đối với các doanh nghiệp FDI, góp phần làm tăng nguồn thu
3
ngân sách Nhà nước từ việc thu thuế TNDN đối với các công ty này.Mặt khác, giúp
các doanh nghiệp Việt Nam, đặt biệt các doanh nghiệp có tham gia trong liên doanh
có cái nhìn rõ hơn về chuyển giá quốc tế cũng như những biện pháp tự bảo vệ mình
trong khi hợp tác với các đối tác nước ngoài.
4
NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CÔNG TY ĐA QUỐC GIA VÀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN
GIÁ.
1.1 Công ty đa quốc gia
1.1.1 Khái niệm.
Công ty đa quốc gia, thường viết tắt là MNC (Multinational corporation) hoặc
MNE (Multinational enterprises), là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung
cấp dịch vụ ở ít nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả
ngân sách của nhiều quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các
mối quan hệ quốc tế và các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia
đóng một vai trò quan trọng trong quá trình toàn cầu hóa. Một số người cho rằng một
dạng mới của MNC đang hình thành tương ứng với toàn cầu hóa – đó là xí nghiệp
liên hợp toàn cầu.
Công ty đa quốc gia là Công ty hoạt động và có trụ sở ở nhiều nước khác nhau.
(khác với Công ty quốc tế: chỉ là tên gọi chung chung của 1 công ty nước ngoài tại 1
quốc gia nào đó.)
1.1.2 Đặc điểm hoạt động các công ty đa quốc gia
Quyền sở hữu tập trung: các chi nhánh, công ty con, đại lý trên khắp thế giới
đều thuộc quyền sở hữu tập trung của công ty mẹ, mặc dù chúng có những hoạt động
cụ thể hằng ngày không hẳn hoàn toàn giống nhau.
Thường xuyên theo đuổi những chiến lược quản trị, điều hành và kinh doanh
có tính toàn cầu. Tuy các công ty đa quốc gia có thể có nhiều chiến lược và kỹ thuật
hoạt động đặc trưng để phù hợp với từng địa phương nơi nó có chi nhánh.
5
Các công ty đa quốc gia có thể xếp vào ba nhóm lớn theo cấu trúc các phương tiện
sản xuất:
Công ty đa quốc gia “theo chiều ngang” sản xuất các sản phẩm cùng loại hoặc
tương tự ở các quốc gia khác nhau (ví dụ: McDonalds).
Công ty đa quốc gia “theo chiều dọc” có các cơ sở sản xuất ở một số nước nào
đó, sản xuất ra sản phẩm là đầu vào cho sản xuất của nó ở một số nước khác
(ví dụ: Adidas).
Công ty đa quốc gia “nhiều chiều” có các cơ sở sản xuất ở các nước khác nhau
mà chúng hợp tác theo cả chiều ngang và chiều dọc (ví dụ: Microsoft).
Một số khác cho rằng đặc điểm cơ bản của các công ty đa quốc gia là bộ phận
không trực tiếp làm việc với khách hàng, tiếng Anh: back-office, (ví dụ cung cấp
nguyên liệu, tài chính và nguồn nhân lực) ở mỗi quốc gia mà nó hoạt động. Các công
ty đa quốc gia đã tạo ra một phiên bản nhỏ của chính nó ở mỗi công ty. Xí nghiệp liên
hợp toàn cầu mà một số người cho rằng sẽ là giai đoạn tiếp theo trong tiến trình phát
triển của công ty đa quốc gia thì không có đặc điểm này.
1.1.3 Mục đích phát triển thành công ty đa quốc gia
Thứ nhất: đó là nhu cầu quốc tế hóa ngành sản xuất và thị trường nhằm tránh
những hạn chế thương mại, quota, thuế nhập khẩu ở các nước mua hàng, sử dụng
được nguồn nguyên liệu thô, nhân công rẻ, khai thác các tìêm năng tại chỗ.
Thứ hai , đó là nhu cầu sử dụng sức cạnh tranh và những lợi thế so sánh của
nước sở tại, thực hiện việc chuyển giao các ngành công nghệ bậc cao.
Thứ ba, tìm kiếm lợi nhuận cao hơn và phân tán rủi ro. Cũng như tránh những
bất ổn do ảnh hưởng bởi chu kỳ kinh doanh khi sản xuất ở một quốc gia đơn nhất.
Ngoài ra, bảo vệ tính độc quyền đối với công nghệ hay bí quyết sản xuất ở một
ngành không muốn chuyển giao cũng là lý do phải mở rộng địa phương để sản xuất.
Bên cạnh đó, tối ưu hóa chi phí và mở rộng thị trường cũng là mục đích của MNC.
6
Hoạt động MNC, vì được thực hiện trong một môi trường quốc tế, nên những
vấn đề như thị trường đầu vào, đầu ra, vận chuyển và phân phối, điều động vốn, thanh
toán… có những rủi ro nhất định. Rủi ro thường gặp của các MNC rơi vào 2 nhóm
sau:
_Rủi ro trong mua và bán hàng hóa như: thuế quan, vận chuyển, bảo hiểm, chu
kỳ cung cầu, chính sách vĩ mô khác…
_Rủi ro trong chuyển dịch tài chính như: rủi ro khi chính sách của chính quyền
địa phương thay đổi, các rủi ro về tỷ giá, lạm phát, chính sách quản lý ngoại hối, thuế
,khủng hoảng nợ…
1.1.4 Tác hại của chuyển giá.
_Tác hại của thủ thuật chuyển giá không chỉ là ngân sách nhà nước bị mất đi
một khoản thuế lớn, mà hàng năm chúng ta còn phải cân đối một lượng ngoại tệ
không nhỏ cho việc nhập về những nguyên liệu, máy móc cao hơn giá trị thực của nó.
_ Ngoài ra, nguy hiểm hơn là còn tạo ra một môi trường kinh doanh, cạnh
tranh không bình đẳng với các doanh nghiệp trong nước.
_ Khi tình trạng thua lỗ ảo kéo dài, trong liên doanh bị kiệt sức, phải rút vốn,
nhường sân cho đối tác. Thực tế cho thấy không ít DN “con” tại VN đã bị DN “mẹ” ở
nước ngoài thôn tính theo kiểu này.
1.2 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ và hoạt động chuyển giá ở
các công ty đa quốc gia.
1.2.1 Các nghiệp vụ mua bán nội bộ.
Các MNC do hoạt động trên nhiều quốc gia khác nhau và ở mỗi quốc gia
thường có chi nhánh hay công ty con vì vậy mà hoạt động sản xuất kinh doanh của
công ty phải phù hợp với phong tục tập quán và luật pháp kinh doanh tại quốc gia đó.
Các đặc điểm kinh doanh trên dẫn đến các giao dịch nội bộ của các MNC diễn ra rất
7
đa dạng, phức tạp, khối lượng giao dịch ngày càng lớn. Vì vậy mà các cơ quan thuế
riêng lẻ của từng quốc gia sẽ rất khó khăn trong việc quản lý và kiểm soát.
Với tính chất đặc biệt quan trọng và tính bảo mật cao của các nghiệp vụ này,
các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ sẽ được bảo mật và chỉ có các nhà quản trị cấp cao
trong MNC mới tiếp cận được. Các nghiệp vụ chuyển giao nội bộ này sẽ ảnh hưởng
rất lớn đến chiến lược phát triển của các MNC. Trong thực tế các nghiệp vụ chuyển
giao nội bộ được thực hiện theo chỉ thị của các nhà quản trị cấp cao với giá trị rất lớn
nhưng giá trị này đã không được ghi nhận hoặc chỉ thể hiện một số rất nhỏ. Các
chứng từ, chứng cứ kèm theo không thể hiện chính xác giá trị và bản chất của nghiệp
vụ vì vậy đã gây khó khăn cho các cơ quan thuế trong việc đưa ra bằng chứng chứng
minh các MNC đã thực hiện hành vi chuyển giá.
Dựa vào tính chất và đặc điểm của các nghiệp vụ mua bán nội bộ phổ biến
trên thị trường, ta phân chia các nghiệp vụ mua bán nội bộ thành các nhóm như sau :
_ Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan nguyên vật liệu có tính đặc thù cao,
hay các nguyên vật liệu mà một công ty con đặt tại một quốc gia có các lợi thế riêng
làm cho giá của nguyên vật liệu ấy thấp.
_Các nghiệp vụ mua bán nội bộ liên quan đến các thành phẩm, các công ty con
tại các quốc gia khác nhau có thể mua thành phẩm được sản xuất tại một quốc gia
(Sourcing country) và sau đó bán lại mà không cần phải đầu tư máy móc hay nhân
công cho sản xuất.
_Các giao dịch liên quan việc dịch chuyển một lượng lớn máy móc, thiết bị
cho sản xuất mà đặc biệt hơn là điểm đến của các giao dịch này là các quốc gia đang
phát triển.
_Các giao dịch liên quan đến các tài sản vô hình như nhượng quyền, bản
quyền, thương hiệu, nhãn hàng, các chi phí liên quan đến nghiên cứu và phát triển
sản phẩm.
8
_Có sự cung cấp các dịch vụ quản lý, dịch vụ tài chính hay chi phí cho các
chuyên gia vào làm việc tại các nước nhận chuyển giao.
_Có sự tài trợ và nhận tài trợ về các nguồn lực như tài lực và nhân lực.
_Có các khoản đi vay và cho vay nội bộ các công ty con của MNC hay giữa
công ty mẹ và các công ty con.
Các chuyển giao nội bộ này diễn ra thường xuyên với giá trị lớn, vì vậy để hạn
chế các tác động tiêu cực của các nghiệp vụ này cần có một nguyên tắc áp dụng
chung và thống nhất trên các quốc gia.Nguyên tắc này được lập ra nhằm đảm bảo tính
công bằng trong thương mại, là cơ sở cho các nghiệp vụ mua bán, trao đổi hàng hóa
và cung cấp dịch vụ giữa các quốc gia.
1.2.2 Chuyển giá:
Chuyển giá (transfer pricing) là việc định giá quá cao hoặc quá thấp trong hoạt
động thương mại giữa nội bộ công ty của các công ty đa quốc gia nhằm chuyển thu
nhập và lợi nhuận từ nước có thuế cao sang nước có thuế thấp.
Như vậy, chuyển giá là một hành vi mang tính chủ quan, áp đặt giá cả mua bán
lên các giao dịch nội bộ, không căn cứ trên giá cả thị trường, quy luật cung cầu giữa
công ty mẹ và công ty con hay giữa các công ty con với nhau nhằm mục đích cuối
cùng là tối thiểu số thuế phải nộp.
1.2.3 Phương thức trốn thuế qua chuyển giá:
Thực ra, trốn thuế qua chuyển giá có thể được thực hiện một cách bài bản ngay
từ giai đoạn đầu tư thông qua việc tính giá trị công nghệ, thương hiệu... (vốn vô hình)
cao. Phần vốn góp cao lên cùng tỉ lệ góp vốn cao, làm cho Tỷ lệ lợi nhuận được chia
cao hơn nhiều so với vốn thực. Chưa hết, bằng cách tăng chi phí khấu hao (nghĩa là
lợi nhuận giảm). Tức là: Thu nhập chịu thuế giảm = Việc giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp.
9
Ví dụ:
Khi doanh nghiệp nâng giá trị lên 1.000 USD với thời gian khấu hao 10 năm
thì mỗi năm sẽ đưa vào chi phí 100 USD và như thế có nghĩa là thu nhập chịu thuế
giảm 100 USD; và với mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp là 25% như hiện
nay, Nhà nước sẽ thấp thu 25 USD. Đến giai đoạn hoạt động, việc nâng giá vật tư,
phụ tùng đầu vào cũng kéo theo ngân sách bị thấp thu rất nhiều loại thuế.
Chẳng hạn, khi doanh nghiệp nâng giá lên 100.000 USD thì công ty mẹ không
phải nộp một đồng thuế GTGT nào (vì là hàng xuất khẩu), đồng thời được khấu trừ
thuế đầu vào. Còn công ty con, phải nộp thuế với hàng nhập khẩu nhưng bù lại, được
khấu trừ khi bán sản phẩm. Thế là đương nhiên cả "mẹ" và "con" đều không mất một
đồng thuế nào trong khi được hưởng trọn khoản tiền do nâng giá mà có.
Với thuế nhập khẩu:
Hàng nằm trong diện miễn giảm: số tiền được miễn giảm = số thấp thu của
Nhà nước.
Nhưng ngay cả khi không nằm trong diện miễn giảm: số tiền nộp thuế cũng đã
được đưa vào chi phí và làm giảm thu nhập chịu thuế = một lượng tương
đương.
Thất thu thuế thu nhập doanh nghiệp cho ngân sách.
Giả sử:
Với trị giá hàng hóa được nâng lên là 100.000 USD và thuế suất thuế nhập
khẩu là 30%
Thuế nhập khẩu phải nộp là 30.000 USD (nghĩa là thu nhập chịu thuế giảm
30.000 USD).
Thuế thu nhập doanh nghiệp bị mất là: 30.000 x 25% = 7.500 USD
Thuế suất ở trong nước = nước ngoài:
10
Công ty mẹ ở nước ngoài tăng thu nhập chịu thuế lên 100.000 USD sẽ phải nộp thuế
là 25.000 USD, phần còn lại được coi như thu nhập là 72.000 USD. Công ty con giảm
thu nhập chịu thuế 100.000 USD sẽ giảm thuế thu nhập 25.000 USD.
Đây chính là khoản mà Nhà nước ta bị thất thu.
Thuế suất nước ngoài < Việt Nam:
Thuế thu nhập DN ở Đài Loan là 20%
Thuế thu nhập DN ở Việt Nam là 28% (trước đây)
Chi nhánh ở Đài Loan sẽ có thể tăng giá chuyển giao hàng hoá và dịch vụ cho chi
nhánh ở Việt Nam.
Nếu khoản nâng giá là 100.000 USD lợi nhuận báo cáo ở Đài Loan sẽ tăng 100.000
USD & thuế nộp cho nước này tăng thêm 20.000 USD. Đồng thời lợi nhuận ở Việt
Nam giảm đi 100.000 USD.
Tức số thuế phải đóng ở đây giảm đi 28.000 USD. Như vậy thông qua chuyển giá
quốc tế công ty này đã "tiết kiệm" được 8.000 USD.
Hơn 60% hoạt động thương mại toàn cầu là giao dịch có khả năng chuyển giá.
Chống chuyển giá hiệu quả sẽ ngăn chặn được thất thoát thuế thu nhập và làm
Giảm giá thành sản phẩm, mang lợi ích cho người tiêu dùng + tăng thu nhập cho
ngân sách.
Rõ ràng trốn thuế qua “chuyển giá” là cách rất tốt để các doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài có thể thu lợi nhuận tối đa. Và đây chính là một hình thức gian lận
thương mại.
11
CHƯƠNG 2.THỰC TRẠNG CHUYỂN GIÁ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI
KÌ HỘI NHẬP
2.1. Những hành vi chuyển giá thường thấy ở các doanh nghiệp có
nguồn vốn FDI ở Việt Nam
2.1.1. Nâng giá trị vốn góp
Các MNC có máy móc thiết bị công nghệ hiện đại nên tậng dụng những lợi thế
của mình các MNC sẽ tiến hành góp vốn bằng máy móc thiết bị và công nghệ hiện
đại. Do phía Việt Nam chưa có đủ năng lực và trình độ để thẩm định giá các loại thiết
bị công nghệ hiện đại này nên thường sẽ bị các đối tác nước ngoài định giá các thiết
bị, công nghệ cao hơn giá trị thực tế của chúng. Việc định giá cao sẽ làm nâng giá trị
vốn góp trong liên doanh của bên đối tác và chiếm lấy quyền quản trị công ty. Về
phía đối tác Việt Nam đa phần chỉ góp vốn bằng giá trị sử dụng đất nên giá trị vốn
góp trong liên oanh thường rất thấp. Việc định giá cao thiết bị máy móc đầu tư ban
đầu đã giúp cho các MNC chuyển một lượng tiền đi ngược trở ra cho công ty mẹ
ngay từ lúc đầu tư ban đầu.
Ví dụ : Một khách sạn liên doanh giữa Tổng Công ty Du lịch Sài Gòn và Vina
Group đã xác định giá trị đưa vào góp vốn của Vina Group là 4.340.000 USD. Nhưng
theo sự thẩm định giá của công ty giám định giá Quốc Tế thì giá trị tài sản góp vốn
của Vina Group chỉ có giá trị là 2.990.000 USD. Như vậy trong nghiệp vụ định giá
giá trị góp vốn liên doanh này phía Việt Nam đã bị thiệt 1.350.000 USD tương đương
45.2%.
Tình trạng nâng giá tài sản góp vốn trên mang lại sự thiệt hại cho cả 3 đối tượng là
phía liên doanh góp vốn Việt Nam, chính phủ Việt Nam và cả người tiêu dùng Việt
Nam. Bên liên doanh Việt Nam bị thiệt trong phần vốn góp, làm cho tỷ lệ góp vốn
nhỏ lại; Chính phủ Việt Nam bị thất thu thuế; còn người tiêu dùng Việt Nam phải tiêu
dùng sản phẩm với giá cả đắt hơn giá trị thực tế của sản phẩm.
Do nâng giá trị tài sản góp vốn nên tỷ lệ vốn cao hơn phía Việt Nam, vì vậy
bên đối tác nước ngoài thường sẽ nắm quyền kiểm soát và điều hành doanh nghiệp.
12
Đối tác nước ngoài sẽ điều hành công ty theo mục đích của họ để cho tình hình thua
lỗ kéo dài và bên liên doanh Việt Nam không đủ tiềm lực tài chính để tiếp tục hoạt
động đành phải bán lại phần vốn góp và hàng loạt các công ty liên doanh trở thành
công ty 100% vốn nước ngoài.
2.1.2 Chuyển giá thông qua chuyển giao công nghệ
Đây là hành vi chuyển giá thông qua việc chuyển giao công nghệ và thu phí
tiền bản quyền, đây là một loại chi phí chiếm tỷ trọng lớn do khấu hao giá trị tài sản
cố định vô hình. Một ví dụ điển hình cho việc chuyển giá thông qua chuyển giao công
nghệ đó là tại Công ty Liên doanh Nhà máy Bia Việt Nam. Công ty Liên doanh Nhà
máy Bia Việt Nam là một liên doanh hoạt động theo Luật Đầu tư Nước ngoài được
Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư) cấp phép số
287/GP ngày 09 tháng 12 năm 1991. Hai đối tác liên doanh là Công ty Thực phẩm II
tại thành phố Hồ Chí Minh và Công ty Heneiken International Behler (Hà Lan). Đến
năm 1994 thì giấy phép liên doanh này được chuyển nhượng sang giấy phép số
287/GPDCI ngày 27/10/1994 liên doanh với Asia Pacific Breweries PTE.LTD
(Singapore). Tổng số vốn đầu tư là 49,5 triệu USD và vốn pháp định là 17 triệu USD.
Bên liên doanh Việt Nam chiếm 40% và bên liên doanh Singapore chiếm 60% vốn,
ngành nghề sản xuất của liên doanh là sản xuất bia để tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu. Khi đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh thì tình trạng kinh doanh của công ty
bị thua lỗ kéo dài qua các năm, nguyên nhân chủ yếu là do phải trả cho chi phí bản
quyền quá cao và tăng dần qua các năm.
Trong tình hình công ty liên doanh thường xuyên thua lỗ, phía liên doanh Việt
Nam chịu ảnh hưởng nặng nề nhưng ngược lại phía liên doanh nước ngoài vẫn không
hề hấn gì vì họ vẫn nhận đủ tiền bản quyền từ nhãn hiệu và tiền bản quyền lại có xu
hướng ngày càng tăng ngày càng tăng.
13
2.1.3 Chuyển giá nhằm mục đích chiếm lĩnh thị trường
Các công ty đa quốc gia khi vào thị trường một quốc qia nào đó, mục tiêu ưu
tiên của họ là giành láy thị phần của các công ty nội địa đang hoạt động trong lãnh
vực mà họ kinh doanh. Với mục tiê u này Các MNC thường sẽ liên doanh với một
công ty nội địa hơn là vào đầu tư thẳng là công ty 100% vốn nước ngoài. Nguyên
nhân là các MNC này muốn sử dụng hệ thống phân phối và thị phần có sẵn của các
công ty nội địa. Sau một thời gian liên doanh thì các MNC này sẽ dùng các thủ thuật