Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mục tiêu của cổ phần hoá trước hết là nhằm thay đổi phương thức quản lý; huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm và nâng cao sức cạnh tranh; tạo điều kiện để người lao động và những người khác có cổ phần;
91 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1365 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời cám ơn
Với lòng biết ơn sâu sắc em xin trân trọng cám ơn cô giáo TS. Vũ Thị Kim Oanh đã hướng dẫn và giúp đỡ em rất tận tình trong suốt thời gian em làm khoá luận. Em cũng xin gửi lời cám ơn tới thầy giáo TS. Vũ Sỹ Tuấn; các thầy cô giáo khoa Kinh tế Ngoại thương; khoa Tại chức; các cán bộ công tác tại Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, công ty Bảo hiểm Dầu khí, công ty Dung dịch khoan và Hoá phẩm Dầu khí; các bạn sinh viên lớp A2CN9 đã giúp đỡ em hoàn thành bản khoá luận tốt nghiệp này.
Hà Nội, ngày 24 tháng 5 năm 2003
Lê Thị Thu Hường
Lời mở đầu
Cổ phần hoá là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường. Mục tiêu của cổ phần hoá trước hết là nhằm thay đổi phương thức quản lý; huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn bên ngoài doanh nghiệp để đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm và nâng cao sức cạnh tranh; tạo điều kiện để người lao động và những người khác có cổ phần; tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả; tăng tài sản của Nhà nước; nâng cao thu nhập của người lao động và góp phần tăng trưởng kinh tế, v.v… và tiến trình cổ phần hoá là một yếu tố quan trọng đối với sự thành công và phát triển của thị trường chứng khoán. Vì vậy, cổ phần hoá là một xu thế tất yếu khách quan.
Tổng công ty Dầu khí Việt Nam là một doanh nghiệp lớn của Nhà nước, xu hướng trong tương lai còn là tập đoàn dầu khí Việt Nam. Về phương diện cơ cấu, tập đoàn sẽ là một tổ chức đa ngành, đa chức năng thì việc đa dạng hoá phương thức quản lý xem như một nhu cầu cấp bách. Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, từ năm 1997, Tổng công ty Dầu khí Việt Nam đã thành lập Ban Đổi mới doanh nghiệp nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ở Tổng công ty. Tuy nhiên, cho đến nay kết quả còn dừng lại ở việc một số đơn vị thành viên đang hoàn chỉnh phương án để trình Ban Đổi mới doanh nghiệp Tổng công ty trình lên Ban Đổi mới doanh nghiệp Trung ương. Vì vậy, việc nghiên cứu tìm những giải pháp tích cực cho việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam trong giai đoạn tới là cần thiết. Trên cơ sở nghiên cứu, phân tích và đánh giá thực tiễn và kinh nghiệm cổ phần hoá trong và ngoài nước, thực trạng công tác cổ phần hoá ở Tổng công ty Dầu khí Việt Nam, em đã lựa chọn đề tài: “Những giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh tiến trình cổ phần hoá của Tổng công ty Dầu khí Việt Nam” làm khoá luận tốt nghiệp.
chương I
cơ sở lý luận và thực tiễn về cổ phần hoá
Cơ sở lý luận về cổ phần hoá
1. Công ty cổ phần và việc cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước
1.1. Công ty cổ phần
1.1.1. Sự ra đời của công ty cổ phần là tất yếu khách quan:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp trong đó các cổ đông góp vốn kinh doanh và chịu trách nhiệm trong phạm vi phần góp vốn của mình trên cơ sở tự nguyện để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi nhuận.
Loại hình công ty cổ phần ra đời từ cuối thế kỷ XVI ở một số nước châu Âu, đến nay đã có lịch sử phát triển mấy trăm năm. Công ty cổ phần là sự hình thành một kiểu tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Nó ra đời không nằm trong ý muốn chủ quan của bất cứ lực lượng nào mà là một quá trình kinh tế khách quan do các nguyên nhân sau:
Quá trình xã hội hoá tư bản, tăng cường và tích tụ tập trung tư bản ngày càng cao là nguyên nhân thúc đẩy công ty cổ phần ra đời:
Trong nền sản xuất hàng hoá, quy luật giá trị tác động mạnh đến sự cạnh tranh khốc liệt giữa các nhà tư bản, buộc họ tìm cách cải tiến nâng cao trình độ kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí sản xuất nhằm sao cho giá trị hàng hoá cá biệt của mình thấp hơn hoặc bằng mức giá trị hàng hoá xã hội, thì mới có thể tiếp tục tồn tại và phát triển. Điều này thường chỉ những nhà tư bản lớn có quy mô sản xuất ở mức độ cao nhất định mới có đủ khả năng để trang bị kỹ thuật hiện đại, làm cho năng suất lao động tăng lên, do đó mới có thể giành thắng lợi trong cạnh tranh. Còn các nhà tư bản nào có giá trị hàng hoá cá biệt cao hơn mức giá trị hàng hoá xã hội thì sẽ bị thua lỗ và bị phá sản. Để tránh những kết cục bi thảm có thể xảy ra trong cạnh tranh, các nhà tư bản vừa và nhỏ phải tự tích tụ vốn để mở rộng quy mô sản xuất và hiện đại hoá các trang thiết bị, tạo điều kiện nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Song đây là biện pháp hết sức khó khăn, và hơn nữa việc tích tụ vốn và phải mất một thời gian dài mới có thể thực hiện được. Một lối thoát nhanh hơn, có hiệu quả hơn là các nhà tư bản vừa và nhỏ có thể thoả hiệp và liên minh với nhau, tập trung các tư bản cá biệt của họ lại thành một tư bản lớn đủ sức cạnh tranh và dành ưu thế với các nhà tư bản khác. Từ hình thức tập trung vốn như vậy các công ty cổ phần dần dần hình thành và phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Tác động của quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển:
Sự phát triển lực lượng sản xuất và do trình độ kỹ thuật ngày càng cao, đòi hỏi tư bản cố định tăng lên, và vì thế quy mô tối thiểu mà một tư bản phải có để có thể kinh doanh dù trong điều kiện bình thường ngày càng lớn hơn. Mặt khác, do kỹ thuật ngày càng phát triển, làm xuất hiện ngày càng nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh doanh và những mặt hàng mới có hiệu quả hơn, đã thu hút các nhà tư bản đổ xô vào các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng mới này, bằng cách di chuyển tư bản từ các ngành, lĩnh vực và các mặt hàng kinh doanh kém hiệu quả. Điều này càng gây ra nhiều khó khăn cho các nhà tư bản khi thực hiện di chuyển vốn, bởi họ không thể bỗng chốc xoá bỏ ngay các xí nghiệp cũ để thu hồi và chuyển vốn sang xây dựng ngay một doanh nghiệp mới, mà chỉ có thể rút bớt và chuyển dần từng bộ phận mà thôi. Quá trình đó có thể kéo dài và do vậy họ có thể mất thời cơ. Mâu thuẫn như vậy chỉ được giải quyết bằng cách các nhà tư bản cá biệt liên minh với nhau, cùng nhau góp vốn để xây dựng các doanh nghiệp lớn. Cùng chung mục đích đi tìm lợi nhuận cao hơn, họ đã gặp nhau và thoả thuận cùng nhau góp vốn thành lập các công ty cổ phần để cùng kinh doanh.
Sự phân tán tư bản để tránh rủi ro trong cạnh tranh và tạo thế mạnh về quản lý:
Sản xuất ngày càng phát triển, trình độ kỹ thuật càng cao, cạnh tranh càng khốc liệt thì sự rủi ro trong kinh doanh, đe doạ phá sản đối với các nhà tư bản càng lớn. Để tránh gặp phá sản, các nhà tư bản đã phải phân tán tư bản của mình để tham gia vào nhiều tư bản khác biệt, nghĩa là tham gia đầu tư kinh doanh ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều công ty khác nhau. Với cách làm này, một mặt các nhà tư bản tìm cách chia sẻ thiệt hại cho nhiều người khi gặp rủi ro. Nhưng mặt khác do cùng một số đông người tham gia quản lý, tập trung được trí tuệ của nhiều người, công ty cổ phần hạn chế được rủi ro trong kinh doanh. Cho đến nay, công ty cổ phần là hình thức tổ chức quản lý sản xuất kinh doanh được các nhà tư bản ưa chuộng nhất nên nó được hình thành và ngày càng phát triển mạnh mẽ.
Sự ra đời và phát triển rộng rãi của của các định chế tài chính tạo động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển:
Sự ra đời và phát triển của tín dụng là kết quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế hàng hoá.
Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có vai trò to lớn trong quá trình cạnh tranh, làm giảm chi phí lưu thông và đẩy nhanh quá trình tái sản xuất. Tín dụng còn có vai trò động lực thúc đẩy việc hình thành và phát triển các công ty cổ phần, bởi vì:
Việc phát hành cổ phiếu trong công ty cổ phần không thể nào thực hiện nếu không có thị trường tiền tệ phát triển, nếu không có những doanh nghiệp và dân cư có nhu cầu sử dụng vốn tiền tệ trên thị trường.
Thực tiễn lịch sử ra đời và phát triển của các công ty cổ phần trên thế giới đều chứng tỏ việc phát hành cổ phiếu chỉ được thực hiện thông qua các ngân hàng, đôi khi còn do bản thân ngân hàng tiến hành. Chẳng hạn ở Đức năm 1896, trong ngành công nghiệp điện lực, có 39 công ty cổ phần. Hầu hết các công ty này đều nảy sinh từ sự giúp đỡ của các ngân hàng.
Như vậy, về lịch sử cũng như về logic, tín dụng có trước khi thành lập công ty cổ phần, tín dụng là cơ sở trực tiếp, là động lực thúc đẩy công ty cổ phần ra đời và phát triển.
1.1.2. Những vấn đề chung về công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường nó có những đặc trưng cơ bản sau:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức kinh doanh có tư cách pháp nhân và các cổ đông chỉ có trách nhiệm pháp lý hữu hạn trong phần góp vốn của mình. Điều này cho phép công ty có tư cách pháp lý đầy đủ để huy động những lượng vốn lớn nhằm rải rác thuộc nhiều cá nhân trong xã hội. Vốn của công ty được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là các cổ phần. Cổ phần là phần vốn cơ bản thể hiện một khoản giá trị thực tế tính bằng tiền. Cổ phiếu chứng minh tư cách thành viên của người góp vốn vào công ty cổ phần, những thành viên này gọi là cổ đông.
Như vậy vốn cổ phần là do các cổ đông đóng góp bất cứ ai kể cả tư nhân, Nhà nước và cá nhân dù chỉ mua một cổ phiếu thôi cũng trở thành người chủ sở hữu chung tài sản hợp nhất của công ty cổ phần. Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ đồng sở hữu. Quyền trách nhiệm và lợi ích của mỗi chủ sở hữu phụ thuộc vào số lượng cổ phiếu của họ trong công ty. Cổ đông nắm được số lượng cổ phiếu khống chế thì có quyền chi phối hoạt động của công ty. Khi muốn thu hồi vốn nhanh, các cổ đông chỉ có cách là bán các cổ phiếu của mình trên thị trường chứng khoán.
Cơ cấu tổ chức và điều hành công ty cổ phần:
Do đặc điểm nhiều chủ sở hữu trong công ty cổ phần, nên các cổ đông không thể trực tiếp thực hiện vai trò chủ sở hữu của mình, mà phải thông qua tổ chức đại diện làm nhiệm vụ trực tiếp quản lý công ty, bao gồm: Đại hội cổ đông, Hội đồng quản trị, Giám đốc điều hành và Ban kiểm soát.
Đại hội cổ đông là cơ quan quyết định cao nhất của công ty là đại hội của những người đồng sở hữu đối với công ty cổ phần.
Hội đồng quản trị là bộ máy quản lý của công ty cổ phần. Hội đồng quản trị bao gồm những thành viên có trình độ chuyên môn cao và quản lý giỏi, để có khả năng hoàn thành tốt các nhiệm vụ do Đại hội đồng cổ đông giao phó. Số thành viên của Hội đồng quản trị do Đại hội cổ đông quyết định và ghi vào Điều lệ công ty.
Giám đốc điều hành là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn được giao. Về thực chất, Giám đốc điều hành công ty là người làm thuê cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, Giám đốc không làm việc theo nhiệm kỳ mà làm việc theo thời hạn hợp đồng ký kết với Chủ tịch hội đồng quản trị.
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh doanh dựa trên cơ sở xã hội hoá sản xuất:
Công ty cổ phần là hình thức tổ chức kinh tế thích ứng đòi hỏi của nền sản xuất xã hội hoá. Nó là sự xác định và xác nhận quyền sở hữu tài sản của doanh nghiệp bằng hình thức cổ phần và phân phối lợi tức cổ phần theo mức doanh lợi của công ty. Công ty cổ phần là sự biểu hiện xã hội hoá về mặt kinh tế xã hội, nó phù hợp với tính chất và trình độ xã hội hoá về mặt kinh tế kỹ thuật.
1.1.3. Điều kiện để hình thành công ty cổ phần:
Muốn thành lập công ty cổ phần cần phải có một số điều kiện nhất định, trong đó nhất thiết phải có được các điều kiện:
Tồn tại sở hữu khác nhau về vốn:
Công ty cổ phần thực chất là công ty hợp danh do nhiều thành viên (tức là các cổ đông) tham gia góp vốn để cùng kinh doanh. Các cổ đông của công ty cổ phần có thể là thể nhân hay pháp nhân nghĩa là có thể do các cá nhân hay các tổ chức kinh tế, xã hội có tư cách pháp nhân tham gia. Nhưng các cá nhân hay các tổ chức đó phải độc lập có quyền tự quyếtt định đối với phần vốn của mình. Để có quyền quyết định họ phải là người chủ sở hữu của phần vốn đó, hay nói cách khác họ là những người sở hữu độc lập. Như vậy công ty cổ phần là công ty có nhiều người đồng sở hữu.
Những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận:
Trong xã hội có thể có nhiều người có vốn nhàn rỗi và ai cũng muốn dùng nó để thu lợi nhuận, nhưng do kinh doanh có nhiều may rủi nên không phải bất cứ ai cũng dám bỏ vốn đầu tư vào kinh doanh. Chỉ có một số người có vốn dám “mạo hiểm” mới góp vốn hình thành công ty cổ phần, và họ trở thành cổ đông. Đây là hình thức đầu tư mạo hiểm nhất so với đầu tư như là: mua công trái, trái phiếu, tiền gửi tiết kiệm v.v.., do kinh doanh có khả năng bị phá sản, nhưng lại là dạng đầu tư có hứa hẹn cao nhất và không bị lạm phát làm sói mòn tiền vốn.
Lợi nhuận thu được phải đủ sức hấp dẫn người có vốn tham gia kinh doanh:
Những người có vốn luôn tìm nơi nào đầu tư có lợi nhất, nên khi có ý định góp vốn vào công ty cổ phần để kinh doanh thu lợi nhuận bao giờ họ cũng so sánh giữa lợi nhuận có thể thu được khi góp vốn vào công ty cổ phần với khoản lợi tức họ thu được, nếu đem số tiền đó gửi vào ngân hàng, hoặc đầu tư lĩnh vực khác. Nếu doanh thu do kinh doanh lớn hơn lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức ngân hàng hoặc lợi tức đầu tư vào lĩnh vực khác, lớn hơn đủ mức cần thiết thì người có vốn mới sẵn sàng góp vốn vào công ty cổ phần để tham gia kinh doanh. Nếu ngược lại thì họ sẽ gửi tiền vào ngân hàng hoặc đầu tư vào lĩnh vực khác mà không góp vốn vào công ty cổ phần, do đó công ty cổ phần không thể hình thành được. Như vậy trong kinh doanh, yếu tố rủi ro thường hay xảy ra, làm cho những người có vốn góp vào công ty không thu được doanh lợi mà còn có khi mất cả vốn (trường hợp công ty bị phá sản), còn nếu gửi vào ngân hàng thì chỉ phải chịu ảnh hưởng của yếu tố lạm phát, nhưng ổn định và an toàn cả vốn lẫn lãi.
Phải có sự nhất trí thành lập công ty:
Những người có vốn muốn tham gia kinh doanh phải thoả thuận được với nhau để cùng góp vốn và đứng ra thành lập công ty cổ phần trên cơ sở những quy định của pháp luật. Trong trường hợp những người có vốn muốn tham gia đầu tư để kinh doanh thu lợi nhuận, song họ không thống nhất được với nhau về phương thức góp vốn, phương thức kinh doanh của công ty, phương hướng chiến lược phát triển công ty, quyền đại diện trong bộ máy quản lý, điều hành công ty, phương thức phân phối lợi nhuận v.v... thì công ty không thành lập được.
Vai trò của công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một hình thức tổ chức doanh nghiệp phổ biến trong nền kinh tế thị trường, có vai trò to lớn trong quá trình phát triển kinh tế, góp phần hoàn thiện cơ chế thị trường. Kiểu tích tụ theo kiểu công ty cổ phần bằng cách thu hút được các nguồn vốn của đông đảo các nhà đầu tư và tiết kiệm của quảng đại quần chúng, lại cho phép tăng quy mô rất nhanh. Mác đánh giá vai trò này của công ty cổ phần: “Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho một nhà tư bản riêng lẻ lớn lên đến mức có thể đảm đương việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế giới vẫn chưa có đường sắt. Ngược lại, qua công ty cổ phần sự tập trung đã thực hiện việc đó trong nháy mắt”.
Công ty cổ phần có thời gian tồn tại là vô hạn (nếu không có quy định thời gian hoạt động và loại trừ trường hợp bị phá sản) vì vốn góp cổ phần có sự độc lập nhất định đối với các cổ đông. Người bỏ tiền ra mua cổ phiếu của công ty cổ phần không có quyền rút vốn mà chỉ có quyền sở hữu cổ phiếu. Các cổ phiếu có thể tự do mua bán trên thị trường và được thừa kế. Vì vậy, khác với loại công ty khác, vốn cổ phiếu đã được góp tồn tại với quá trình “sống” của công ty, còn chủ sở hữu có thể thay đổi. Sự tồn tại của công ty cổ phần không bị ảnh hưởng bởi các cổ đông chết hay tù tội.
Công ty cổ phần tạo điều kiện tập hợp được nhiều lực lượng khác nhau vào hoạt động chung nhưng vẫn tôn trọng sở hữu riêng về quyền, trách nhiệm và lợi ích của các cổ đông theo mức góp vốn. Mở rộng sự tham gia của các cổ đông vào công ty cổ phần, đặc biệt là người lao động là cách để họ tham gia vào hoạt động của công ty với tư cách là người chủ sở hữu đích thực chứ không phải với tư cách là người làm thuê. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong công tác quản lý.
1.1.4. Lịch sử và con đường hình thành công ty cổ phần
Lịch sử hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần ra đời trên cơ sở nền sản xuất xã hội hoá đặc biệt là xã hội hoá về vốn, quan hệ tín dụng phát triển, quan hệ thị trường hình thành đầy đủ. Trải qua vài trăm năm, công ty cổ phần đã phát triển ở hầu hết các nước tư bản theo xu hướng từ giản đơn đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một lĩnh vực đến nhiều lĩnh vực, từ một ngành đến đa ngành, từ một quốc gia đến các công ty xuyên quốc gia.
Con đường hình thành công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là một tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân do nhiều người cùng thoả thuận lập nên, trên cơ sở tự nguyện góp tài sản hoặc khả năng của mình để tiến hành các hoạt động chung nhằm thu lợi nhuận. Có hai hướng để thành lập công ty cổ phần:
- Thành lập công ty cổ phần mới
- Cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước để hình thành công ty cổ phần.
I.1.5. Tính tất yếu của việc cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước
Việc đề ra những mục tiêu nhằm đưa đến thực hiện đa dạng hoá sở hữu về tư liệu sản xuất gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, của phân công lao động trong xã hội là điều tất yếu, là quá trình “lịch sử - tự nhiên” và là một quy luật phát triển của xã hội. Đó cũng là quá trình xã hội hoá sản xuất cả về mặt lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản xuất. Quá trình xã hội hoá về mặt lực lượng sản xuất, chính là quá trình phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc trong mỗi nước cũng như trên phạm vi quốc tế và khu vực. Còn xã hội hoá về quan hệ sản xuất (quan hệ sở hữu) là quá trình ngày càng đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Tiến hành cổ phần hoá về thực chất là quá trình chuyển đổi sở hữu để thực sự đưa các doanh nghiệp Nhà nước có chỗ đứng vững và tồn tại trong cơ chế thị trường. Đa dạng hoá sở hữu tạo động lực mạnh mẽ cho các nhà đầu tư, tạo điều kiện thuận lợi để cơ cấu lại nền kinh tế, thực hiện quyền làm chủ thật sự của người lao động trong xí nghiệp, khuyến khích cạnh tranh đặc biệt là nâng cao hiệu quả hoạt động kinh tế và phát triển kinh tế thị trường.
Chính vì vậy, Nghị định số 44 - 1998/NĐ - CP ngày 29/6/1998 của Chính phủ nêu rõ: Chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần nhằm các mục tiêu sau:
Huy động vốn của toàn bộ xã hội, bao gồm cá nhân, các tổ chức kinh tế tổ chức xã hội trong nước và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ, tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp, nâng cao sức cạnh tranh, thay đổi cơ cấu doanh nghiệp nhà nước.
Tạo điều kiện để người lao động trong doanh nghiệp có cổ phần và những người đã góp vốn được làm chủ thực sự; thay đổi phương thức quản lý tạo động lực thúc đẩy doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, tăng tài sản Nhà nước, nâng cao thu nhập của người lao động, góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước.
2. Cổ phần hoá và thị trường chứng khoán
2.1. Thị trường tài chính
Khái niệm, cấu trúc của thị trường tài chính:
Khái niệm thị trường tài chính:
Thị trường tài chính là thị trường trong đó nguồn tài chính được chuyển từ người có vốn dư thừa sang người thiếu vốn. Thị trường tài chính là tổng hoà các quan hệ cung cầu về vốn.
Chức năng cơ bản nhất của thị trường tài chính là dẫn vốn từ người dư thừa vốn tới người cần vốn, ngoài ra nó còn thể hiện chức năng giám sát thông qua sự vận động của các nguồn tài chính.
Phân loại thị trường tài chính:
Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có thể phân loại thị trường tài chính như sau:
Dựa vào việc mua bán chứng khoán lần đầu (chứng khoán mới) và mua bán chứng khoán sau khi phát hành lần đầu người ta chia làm thị trường cấp 1 và thị trường cấp 2.
Thị trường cấp 1 (thị trường sơ cấp): là thị trường tài chính trong đó những phát hành mới của chứng khoán được tổ chức phát hành bán cho người mua đầu tiên.
Thị trường cấp 2 (thị trường thứ cấp): là thị trường tài chính nơi diễn ra các hoạt động mua bán lại các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường cấp 1.
Dựa vào phương thức giao dịch trên thị trường tài chính, thị trường cấp 2 được chia làm hai loại: Sở giao dịch và thị trường phi tập trung.
Căn cứ vào bản chất, chức năng và phương thức hoạt động của các chủ thể tài chính và các công cụ tài chính giao dịch trên đó, hệ thống t