Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính chất toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm vui nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên con đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng vượt bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế hiện nay trong 6 tỷ người của thế giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức sống 2UDS/ngày, đặc biệt có 1,2 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày. Cứ 100 đứa trẻ ra đời thì có 8 trẻ không sống được đến 5 tuổi, 9 trong số 100 bé trai và 14 trong 100 bé gái ở độ tuổi đến trường không được đi học.
Ngày nay khái niệm phát triển đã được nhận thức rằng, không phải chỉ có sự về sản lượng ccủa nền kinh tế mà còn bao hàm cả sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội cho nhân dân chính vì vậy công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bền vững. Ở nước ta, sau 15 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao (11% năm 2000) đang là một thách thức lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp bách phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó phát triển kinh tế, cái nhìn tổng quát, chính là giải quyết vấn đề giảm nghèo, chuyển nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước giàu có, văn minh.
Quán triệt qua điểm của Đảng tỉnh Bắc Giang đã luôn quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển. Tuy đã đạt được những thành tựu tốc đọ tăng trưởng khá trong nhiều năm nhưng do xuất phát điểm thấp đến nay Bắc Giang mới chỉ đạt mức thu nhập bình quân là 208 USD/người (năm 2000 ) và giữa người giàu và người nghèo vẫn có một khoảng cách về thu nhập khá lớn. Mục tiêu của Bắc Giang là tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010. Đây là một hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự phối hợp lỗ lực của toàn thể cộng đồng cũng như ý trí vươn lên của chính người nghèo.
Qua quá trình học tập tại trường và qua một thời gian nghiên cứu thực tế em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Bắc Giang nói riêng và của Việt Nam nói chung. Chính vì vậy em đã chọn và nghiên cứu đề tài này: “Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang”. Nhằm mở rộng phần nhận thức của mình hơn về vấn đề nan giải đó và cũng hy vọng đóng góp một ý kiến nhỏ bé của mình vào sự phát triển của tỉnh nhà trên con đường phát triển chung của đất nước.
Kết cấu của đề tài bao gồm 3 phần chính sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo.
Chương II: Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Bắc Giang.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang trong thời gian tới.
114 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1827 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
LỜI NÓI ĐẦU 4
CHƯƠNG I 6
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO 6
I. CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI, NGHÈO. 6
II .CÁC QUAN NIỆM VỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO. 9
III. TỔNG QUAN KINH NGHIỆM XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO Ở MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI, BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐƯỢC RÚT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ BẮC GIANG NÓI RIÊNG. 21
1. Bức tranh chung về nghèo đói trên thế giới. 21
2. Một số mô hình giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo trên thế giới. 22
3. Những bài học kinh nghiệm rút ra đối với Việt Nam nói chung và Bắc Giang nói riêng trong công cuộc xoá đói giảm nghèo hiện nay. 26
CHƯƠNG II 30
THỰC TRẠNG VÀ NGUYÊN NHÂN ĐÓI, NGHÈO Ở BẮC GIANG. 30
I. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA TỈNH VÀ NHỮNG ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỜI SỐNG NGƯỜI DÂN TRONG TỈNH. 30
1. Đặc điểm tự nhiên - xã hội của tỉnh. 30
2. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 31
3. Những nhân tố ảnh hưởng tới đời sống người dân trong tỉnh. 35
II. THỰC TRẠNG NGHÈO ĐÓI VÀ NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC TRONG CÔNG CUỘC XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO CỦA BẮC GIANG TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY. 37
1.Thời kỳ từ năm 1993 - 1996. 37
2. Thời kỳ từ 1997 - 1999. 39
3. Tình hình đói nghèo của Bắc Giang từ năm 1999 đến nay. 45
4. Các chính sách, chương trình và dự án trong và ngoài nước đã và đang thực hiện trong công cuộc xoá đói giảm nghèo của Bắc Giang. 49
II. NGUYÊN NHÂN NGHÈO ĐÓI Ở BẮC GIANG. 53
1. Những nguyên nhân chung. 54
2. Những nguyên nhân trực tiếp. 55
CHƯƠNG III. 62
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở BẮC GIANG TRONG THỜI GIAN TỚI. 62
I. QUAN ĐIỂM CHUNG VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO. 62
1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề xoá đói giảm nghèo đối với Việt Nam. 62
2. Quan điểm của Bắc Giang về xoá đói giảm nghèo. 64
II. PHƯƠNG HƯỚNG MỤC TIÊU GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA CHÍNH PHỦ CŨNG NHƯ CỦA ĐẢNG BỘ, CẤP CHÍNH QUYỀN TỈNH BẮC GIANG. 66
1. Phương hướng mục tiêu giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của Chính phủ. 66
2. Phưong hướng mục tiêu giải quyết vấn đề xoá đói giảm nghèo của Đảng bộ cấp chính quyền tỉnh Bắc Giang. 67
III. CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO CỦA TỈNH BẮC GIANG HIỆN NAY VÀ TRONG THỜI GIAN TỚI. 68
KẾT LUẬN 93
LỜI NÓI ĐẦU
Thế giới bước sang thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng cũng ngổn ngang những vấn đề gay gắt mang tính chất toàn cầu. Nó chứa đựng trong mình cả niềm vui nỗi bất hạnh, cả nụ cười và nước mắt, nỗi đau nhân loại là nghèo đói vẫn còn trầm trọng trên một phạm vi vô cùng rộng lớn. Nghèo, đói luôn là nỗi bất hạnh của loài người, là một nghịch lý trên con đường phát triển. Trong khi thế giới đã đạt được những thành tựu to lớn về tiến bộ khoa học kỹ thuật, làm tăng đáng kể của cải vật chất xã hội, tăng vượt bậc sự giàu có của con người, thì thảm cảnh đeo đẳng mãi trên lưng con người lại chính là sự nghèo đói. Thực tế hiện nay trong 6 tỷ người của thế giới, thường xuyên có 2,8 tỷ người sống dưới mức sống 2UDS/ngày, đặc biệt có 1,2 tỷ người sống dưới mức 1 USD/ngày. Cứ 100 đứa trẻ ra đời thì có 8 trẻ không sống được đến 5 tuổi, 9 trong số 100 bé trai và 14 trong 100 bé gái ở độ tuổi đến trường không được đi học.
Ngày nay khái niệm phát triển đã được nhận thức rằng, không phải chỉ có sự về sản lượng ccủa nền kinh tế mà còn bao hàm cả sự tiến bộ về cơ cấu kinh tế xã hội cho nhân dân chính vì vậy công bằng xã hội và xoá đói giảm nghèo là điều kiện cần thiết cho sự phát triển bền vững. Ở nước ta, sau 15 đổi mới, nền kinh tế đang từng bước khởi sắc và đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nhiên, bên cạnh khối dân cư giàu có và trung lưu ngày một gia tăng, vẫn còn một bộ phận lớn dân cư nghèo đói. Tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam còn rất cao (11% năm 2000) đang là một thách thức lớn đối với sự phát triển và trở thành mối quan tâm chung, vấn đề cấp bách phải giải quyết của toàn xã hội. Do đó phát triển kinh tế, cái nhìn tổng quát, chính là giải quyết vấn đề giảm nghèo, chuyển nước ta từ một nước nghèo trở thành một nước giàu có, văn minh.
Quán triệt qua điểm của Đảng tỉnh Bắc Giang đã luôn quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo trong suốt quá trình phát triển. Tuy đã đạt được những thành tựu tốc đọ tăng trưởng khá trong nhiều năm nhưng do xuất phát điểm thấp đến nay Bắc Giang mới chỉ đạt mức thu nhập bình quân là 208 USD/người (năm 2000 ) và giữa người giàu và người nghèo vẫn có một khoảng cách về thu nhập khá lớn. Mục tiêu của Bắc Giang là tiến tới xoá hẳn tình trạng đói nghèo vào năm 2010. Đây là một hết sức khó khăn đòi hỏi phải có sự phối hợp lỗ lực của toàn thể cộng đồng cũng như ý trí vươn lên của chính người nghèo.
Qua quá trình học tập tại trường và qua một thời gian nghiên cứu thực tế em đã nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác xoá đói giảm nghèo đối với quá trình phát triển kinh tế xã hội của Bắc Giang nói riêng và của Việt Nam nói chung. Chính vì vậy em đã chọn và nghiên cứu đề tài này: “Những giải pháp cơ bản thực hiện xoá đói giảm nghèo tỉnh Bắc Giang”. Nhằm mở rộng phần nhận thức của mình hơn về vấn đề nan giải đó và cũng hy vọng đóng góp một ý kiến nhỏ bé của mình vào sự phát triển của tỉnh nhà trên con đường phát triển chung của đất nước.
Kết cấu của đề tài bao gồm 3 phần chính sau:
Chương I: Một số vấn đề lý luận chung về xoá đói giảm nghèo.
Chương II: Thực trạng và nguyên nhân đói nghèo ở Bắc Giang.
Chương III: Phương hướng và giải pháp chủ yếu xoá đói giảm nghèo ở Bắc Giang trong thời gian tới.
Trong chuyên đề này em đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu như: phương pháp duy vật biện chứng; phương pháp duy vật lịch sử; phương phương pháp so sánh; phương pháp quy nạp; phương pháp diễn dịch; phương pháp phân tích...để hoàn thành chuyên đề.
Do nhận thức còn hạn chế, thời gian nghiên cứu có hạn nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô, của ban lãnh đạo viện, của các bạn để bài viết này hoàn chỉnh hơn. Qua đây, em cũng xin chân thành cảm ơn thầy giáo cùng các cô chú Ban Nguồn Nhân Lực và các vấn đề Xã Hội - Viện chiến lược phát triển - Bộ kế hoạch và đầu tư đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này.
Em xin chân thành cảm ơn !
CHƯƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO
I. CÁC QUAN NIỆM VỀ ĐÓI, NGHÈO
1. Quan niệm về đói, nghèo.
Xã hội loài người đã phát triển qua nhiều nấc thang lịch sử do trình độ lực lưọng sản xuất quyết định. Bằng lao động sản xuất, con người nkhai thác thiên nhiên để tạo ra của cải vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu ăn, mặc, ở và những nu cầu khác. Năng xuất lao động ngày càng cao thì của cải ngày càng nhiều, các nhu cầu sống được đáp ứng đầy đủ hơn, trái lại năng xuất lao động thấp, của cải vật chất thu được ít, con người rơi vào cảnh nghèo đói.
Tuy nhiên, ở trong các thời đại khác nhau, cũng có nhiều cách lý giải khác nhau về quan niệm, nguyên nhân và cách giải quyết đối với hiện tượng nghèo đói.
Trong thời kỳ tiền sử mông muội, loài người trong khi bức ra, tách khỏi thế giới động vật trong giới tự nhiên để trở thành người và tổ chức thành đời sống xã hội thì cùng với bước ngoặc vĩ đại ấy, con người đã phải thường xuyên đối mặt với đói nghèo. ở đây, nghèo đói là hệ quả trực tiếp của lạc hậu, mông muội là điển hình của sự thống trị của tự nhiên đối với con người.
Khi xuất hiện con người vvới thân phận nô lệ, một thứ hàng hoá có thể mua bán, một công cụ biết nói ( chế độ chiếm hữu nô lệ ) hoặc là những kể đi làm thuê kiếm miếng cơm manh áo qua ngày ( chế đọ phong kiến) thì nghèo đói mới diễn ra như hệ quả của áp bức xã hội, của chế độ người bóc lột người. Trong các chế độ xã hội này sự giàu có ở cực này dựa trên sự bóc lột, sự bần cùng hoá ở cực khác. Cực này càng giàu thì cực kia càng nghèo.
Sự ra đời và phát triển cuả Chủ nghĩa Tư bản vẫn chủ yếu dựa trên phương thức cướp đoạt, bóc lột, bần cùng hoá đối với người lao động. Và nguồn gốc sâu xa của nghèo đói trên đây là ở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, ở chế độ áp bức, bóc lột và tình trạng nô dịch của con người. Do đó, chỉ xoá bỏ chế độ tư hữu, bóc lột đó thì mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi cảnh nghèo đói lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và làm chủ tiến tới một xã hội công bằng văn minh, đạt được sự hài hoà giữa ôựi ích cá nhân và lợi ích xã hội.
Chính vì vậy sau Cách Mạng Tháng Mười năm 1917, trong bước chuyển từ “Chính sách cộng sản thời chiến” sang “Chính sách kinh tế mới” (NEP) Lênin là người chủ trương phát triển kinh tế hàng hoá, dùng lợi ích vật chất, coi đó như là một nhân tố kích thích, một đòn bẩy kinh tế khuyến khích người lao động, giải phóng sức sản xuất, làm cho nền kinh tế khởi sắc, từng bước thoát khỏi sự trì trệ, trên cơ sở đó đã xoá được căn bản tình trạng nghèo đói đang hoành hành khắp nước Nga.
Tiếp thu và vận dụng sáng tạo chủ nghiã Mác-Lênin, trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc nước ta, Hồ Chí Minh đã để lại cho chúng ta những tư tưởng quý báu về cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đó là quan niệm của Người về chủ nghĩa xã hội là xa lạ với nghèo đói, bần cùng và lạc hậu. Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất hơn nữa, thực hành tiết kiệm. “Tăng gia là tay phải của hạnh phúc, tiết kiệm là tay trái của hạnh phúc”. Đây là con đường lâu dài và chắc chắn đối với công tác xoá đói giảm nghèo nói riêng và không ngừng nâng cao đời sống nhân dân nói chung. Đặc biệt là tư tưởng của Người: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm”. Theo Người, xoá đói phải tiến tới giảm nghèo và tăng giàu. Đói, nghèo là một cửa ải phải vượt qua, phải tiến tới giàu có, giàu có nữa giàu có mãi, “dân có giàu thì nước mới mạnh”. Cần phải xây dựng chủ nghĩa xã hội như một xã hội giàu có, phồn thịnh về kinh tế ,lành mạnh về xã hội,văn minh và văn hoá. Quan niệm trên đây chứa đựng ý nghĩa giải phóng to lớn sức sản xuất, giải phóng tư tưởng và tiềm năng xã hội, hướng tới một sự phát triển năng động của toàn xã hội vì hạnh phúc của con người.
Nếu điểm xuất phát tới chủ nghĩa xã hội lại quá thấp và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội còn là mới mẻ, đang từng bước phải tìm tòi về con đường, cách đi, mô hình, cách làm ... như ở nước ta thì vấn đề đói nghèo đói vẫn còn tồn tại là vấn đề khó tránh khỏi.
Đối với Việt Nam để tránh khỏi nguy cơ tụt hậu ngày càng xa hơn so với các nước, con đường phát đi của chúng ta là phát triển rút ngắn đồng thời gắn liền với việc giảm tối đa cái giá phải trả - trong đó có việc giải xoá đói giảm nghèo. ở Việt Nam,đó là nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Các khái niện về đói nghèo.
2.1.Các khái niệm về nghèo.
Khái niệm về nghèo khổ của UNDP – 1998.
Năm 1998, UNDP công báo một bản báo cáo nhan đề “Khắc phục sự nghèo khổ của con người” đã đưa ra những định nghĩa về nghèo như sau:
Sự nghèo khổ của con người : Thiếu những quyền cơ bản của con người như biết đọc, biết viết và được nuôi dưỡng tạm đủ.
Sự nghèo khổ về tiền tệ : Thiếu thu nhập tối thiểu thích đáng và khả năng chi tiêu tối thiểu.
Sự nghèo khổ cực độ: Nghèo khổ, khốn cùng tức là không có khả năng thoả mãn những nhu cầu cơ bản tối thiểu.
Sự nghèo khổ chung: Mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu lương thực và phi lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác nhau ở những nước khác nhau.
Sự nghèo khổ tương đối: Sự nghèo khổ được xác định theo những chuẩn mực có thể thay đổi với thời gian ở nước này hay nước khác. Ngưỡng này có thể tăng lên đồng thơì với thu nhập.
Sự nghèo khổ tuyệt đối: Sự nghèo khổ được xác định bằng một chuẩn mực nhất định. Chẳng hạn như ngưỡng quốc tế của sự nghèo khổ là 1USD/người/ngày.
Khái niệm về nghèo đói của Ngân hàng thế giới (WB).
Ngưỡng nghèo thứ nhất là số tiền cần thiết để mua một rổ hàng hoá lương thực hàng ngày trong năm 1993 và được gọi là “ngưỡng nghèo về lương thực, thực phẩm”. Ngưỡng nghèo này thưòng thấp bởi vì nó không tính đến số tiền chi tiêu cho những sản phẩm phi lương thực khác.
Ngưỡng nghèo thứ hai là “ ngưỡng nghèo chung” bao gồm cả chi tiêu cho lương thực thực phẩm và chi tiêu cho sản phẩm phi lương thực.
Xuất phát từ nhu cầu calo tối thiểu cần thiết cho mỗi cơ thể theo thể trạng con người: WB đã đưa ra con số phổ biến được sử dụng là 2100 kilo calo cho một người mỗi ngày. Mỗi gia đình Việt Nam phải mất bao nhiêu tiền để mua được một rổ hàng hoá lương thực đủ để cung cấp 2100 calo cho mỗi người một ngày. Vì vậy, nghèo đói theo đĩnh nghĩa của WB là những hộ không có khả năng chi trả cho số hàng hoá lương thực của mình để đủ cung cấp 2100 calo cho mỗi ngưòi một ngày.
Khái niệm về nghèo đói trong khu vực Châu á - Thái Bình Dương do ESCAP tháng 9/1993.
Nghèo tuyệt đối: Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con ngưòi, mà những nhu cầu này đã được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập quán của địa phương.
Nghèo tương đối: Là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung bình của cộng đồng.
2.2. Các khái niệm về đói.
Đói là tình trạng của một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Hay có thể nói đói là một nấc thấp nhất của nghèo.
Tài liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã phân loại đói làm hai dạng (theo mốc đánh giá năm 1993):
Thiếu đói: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có thu nhập dưới mức thu nhập là 12 kg gạo/người/tháng. Hay là tình trạng của một bộ phận dân cư ở nông thôn có thu nhập dưói mức 20.400 đồng/ngưòi/tháng và ở thành thị là 24.500 đồng/người/tháng.
Đói gay gắt: Là tình trạng của một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới mức 8 kg gạo/người/tháng và ở thành thị là 16.300 đồng/ngưòi/tháng.
Ngoài ra còn có khái niệm khác nhằm làm rõ hơn tình trạng nghèo đói ở Việt Nam.
Nghèo đói kinh niên: ( tương ứng với nghèo truyền từ đời này qua đời khác) là bộ phận dân cư nghèo đói nhiều năm liền cho tới thời đang xét.
Nghèo đói cấp tính:( hay còn gọi là nghèo mới ) là bộ phậ dân cư rơi vào tình trạng nghèo đói đột xuất vì nhiều nguyên nhân như phá sản và các rủi ro khác, tại thời điểm đang xét.
II .CÁC QUAN NIỆM VỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO.
1. Khái niệm về xoá đói, giảm nghèo.
1.1 Khái niệm về xoá đói.
Xoá đói là làm cho bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống, từng bước nâng cao mức sống đến mức tối thiểu và có thu nhập đủ để đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống.
1.2 Khái niệm giảm nghèo.
Giảm nghèo là làm cho bộ phận dân cư nghèo nâng cao mức sống, từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống. Nói một cách khác giảm nghèo là quá trình chuyển bộ phận dân cư nghèo lên một mức sống cao hơn.
Ở khía cạnh khác giảm nghèo là chuyển từ tình trạng có ít điều kiện lựa chọn sang tình trạng có đầy đủ điều kiện lựa chọn hơn để cải thiện đời sống mọi mặt của mỗi người.
Ở góc độ nước nghèo: Giảm nghèo ở nước ta chính là từng bước thực hiện quá trình chuyển đổi các trình đọ sản xuất cũ, lạc hậu còn tồn đọng trong xã hội sang trình độ sản xuất mới, cao hơn. Mục tiêu hướng tới là trình độ sản xuất tiến tiến của thời đại.
Ở góc độ người nghèo: Giảm nghèo là quá trình tạo điều kiện giúp đỡ người có khả năng tiếp cận các nguồn lực của sự phát triển một cách nhanh nhất, trên cơ sở đó có nhiều lựa chọn hơn, giúp họ từng bước thoát khỏi tình trạng.
2. Các cách xác định mức nghèo đói và bất bình đẳng .
2.1 Cách cách tính xác định mức độ nghèo đói.
Sau khi xác định được ngưỡng nghèo (sẽ được nêu ở phần sau), có thể tính toán được một số chỉ tiêu thống kê tóm tắt để mô tả quy mô, mức độ và tính nghiêm trọng của đói nghèo. Những thống kê này bao gồm chỉ số đếm đầu người (xác định tỉ lệ đói nghèo), khoảng cách đói nghèo (xác định mức độ sâu của đói nghèo) và bình phương khoảng cách đói nghèo (xác định tính nghiêm trọng của đói nghèo). Foster, Green và Thodbecke (1984) đã chỉ ra rằng 3 thước đo xác định mức độ đói nghèo có thể được tính bằng công thức sau:
Trong đó yi là đại lượng xác định phúc lợi( ở đây chi tiêu tính trên đầu người) cho người thứ i, z là ngưỡng nghèo, N là số người có trong mẫu dân cư, M là số người nghèo và có thể được diễn giải như là đại lượng đo mức độ quan tâm đến sự bất bình đẳng giữa những người nghèo.
Khi =0, đẳng thức trên tương đương với M/N, tức là bằng số người nghèo chia cho tổng số người ở trong mẫu. Thước đo xác định quy mô đói nghèo và được sử dụng rất phổ biến này được gọi là tỷ số đếm đầu người hay chỉ số đếm đầu khi chuyển sang tính dưới dạng %. Mặc dù chỉ số đếm đầu dễ được diễn giải song nó không nhạy cảm với khoảng cách của những người nghèo so với ngưỡng nghèo.
Khi =1, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói. Chỉ số này cho biết sự thiếu hụt trong chi tiêu của các hộ nghèo so với ngưỡng nghèo và nó được biểu hiện như mức trung bình của tất cả mọi người trong quần thể . Khoảng cách nghèo đói được tính đơn giản như là tổng tất cả các khoảng cách nghèo đói ở trong quần thể, có thể được sử dụng để xác định chi phí tối thiểu để xoá bỏ nghèo đói trong điều kiện mọi khoản chuyển nhượng được chuyển đến đúng đối tượng. Tuy nhiên, việc chuyển giao các khoản chuyển nhượng theo định hướng mục tiêu thường đi kèm với hao hụt và chi phí hành chính và bởi vậy chi phí thực tế để xoá bỏ nghèo đói thường là bội số của khoảng cách nghèo đói .
Khi =2, ta có chỉ số khoảng cách nghèo đói bình phương. Chỉ số này thể hiện mức độ nghiêm trọng (hay cường độ ) của nghèo đói và tăng thêm trọng số cho nhóm người nghèo nhất trong số những người nghèo.
Không giống như một số thước đo mức độ nghèo đói khác, 3 đại lượng này có tính chất rất hữu ích là nó có thể tính như là tổng số các số hạng được phân nhỏ (chẳng hạn, mức đói nghèo chỉ số đếm đầu người trên toàn quốc sẽ bằng bình quân gia quyền của nghèo đói ở khu vực nông thôn và thành thị , hay bằng bình quân gia quyền của chỉ số đếm tỉ lệ nghèo đói ở các vùng khác nhau).
2.2 .Các cách tính xác định sự bất bình đẳng.
Ba thước đo xác định mức độ bất bình đẳng được sử dụng trong báo cáo gồm: Tỷ số giữa chi tiêu của nhóm người có mức chi tiêu cao nhất với chi tiêu của nhóm người có mức chi tiêu thấp nhất, hệ số Gini , và chỉ số Theil L. Cũng giống như thước đo nghèo đói đã đề cập ở trên, các đại lượng này đều được tính dựa vào mức chi tiêu trên đầu người như là thước đo của phúc lợi, nếu được sử dụng khác đi sẽ được giải thích rõ.
Tỉ số chi tiêu của nhóm giàu nhất chia cho chi tiêu của nhóm người nghèo nhất là một đại lượng được sử dụng rất phổ biến ở cả các nước phát triển và đang phát triển, (một nhóm bao gồm 20% dân số) .Hạn chế chính của thước đo xác định sự bất bình đẳng này là bỏ qua chi tiêu của 60% dân số là những người có mức chi tiêu trung bình và nó cũng không tính đến sự phân bố chi tiêu trong các nhóm người nghèo nhất và người giàu nhất.
Hệ số Gini là thước đo xác định sự bất bình đẳng nhận giá trị trong khoảng từ 0 (khi tất cả mọi người có mức chi tiêu hoặc thu nhập như nhau) đến 1 (khi một người nắm giữ mọi thứ của xã hội !). Hệ số Gini càng tiến tới gần 1 thì sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập càng lớn. Đối với hầu hết các nước đang phát triển, hệ số Gini chi tiêu hoặc thu nhập nằm trong khoảng từ 0,3-0,6 .
Hệ số Gini minh hoạ trên đồ thị được biểu thị bằng phần diện tích nằm dưới đường cong Lorenz chia cho phần diện tích nằm phía dưới đường chéo công bằng. Do vậy đường cong Lorenz càng cách xa đường công bằng bao nhiêu thì hệ số Gini càng lớn bấy nhiêu. Tuy là một thước đo xác định sự bất bình đẳng được sử dụng rất phổ biến song hệ số Gini còn có một số hạn chế. Những hạn chế đó là : (a) hệ số Gini không phải lúc nào cũng tăng lên khi lấy tiền của một người và chuyển sang cho một ngươì khác giàu hơn; và (b) không thể phân tách hệ số Gini theo các nhóm con (chẳng hạn như các khu nông thôn và đô thị hoặc cho 7 khu vực hành chính ở Việt Nam) và sau đó