Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động, và sức lao động. TSCĐ là tư liệu lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, tuy nhiên phải tất cả các tư liệu lao động của doanh nghiệp đều là TSCĐ mà một tư liệu lao động muốn trở thành TSCĐ phải thoả mãn hai yếu tố về thời gian sử dụng và giá trị đầu tư.
a) Khái niệm về TSCĐ:
Tư liệu lao động là phương tiện lao động để chuyển đổi đối tượng lao động thành sản phẩm, do vậy yếu tố tư liệu lao động quyết định sự tiến bộ hay lạc hậu của sản xuất. Bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là TSCĐ. Tư liệu lao động chia làm 2 nhóm: TSCĐ và công cụ lao động nhỏ.
Sở dĩ có sự phân chia làm 2 loại tài sản vì tư liệulao động có nhiều loại, mỗi loại có đặc tính riêng về giá trị và giá trị sử dụng, thời gian sử dụng. Thực tế những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài: máy móc, nhà xưởng. được tập hợp lại gọi là TSCĐ.
Theo quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
81 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp để tăng cường, mở rộng bảo hiểm y tế tự nguyện cho nông dân và lao động tự do, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Website: Email : lienhe@docs.vn Tel (: 0918.775.368
PHẦN I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG CỦA TỔ CHỨC HẠCH TOÁN TSCĐ VỚI VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUẢN LÝ QUẢN LÝ TSCĐ TRONG DOANH NGHIỆP .
I. TSCĐ ở các doanh nghiệp và sự cần thiết phải tổ chức hạch toán TSCĐ.
1. Tài sản cố định và đặc điểm TSCĐ:
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần phải có ba yếu tố: tư liệu lao động, đối tượng lao động, và sức lao động. TSCĐ là tư liệu lao động là một trong ba yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, tuy nhiên phải tất cả các tư liệu lao động của doanh nghiệp đều là TSCĐ mà một tư liệu lao động muốn trở thành TSCĐ phải thoả mãn hai yếu tố về thời gian sử dụng và giá trị đầu tư.
a) Khái niệm về TSCĐ:
Tư liệu lao động là phương tiện lao động để chuyển đổi đối tượng lao động thành sản phẩm, do vậy yếu tố tư liệu lao động quyết định sự tiến bộ hay lạc hậu của sản xuất. Bộ phận quan trọng nhất của tư liệu lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là TSCĐ. Tư liệu lao động chia làm 2 nhóm: TSCĐ và công cụ lao động nhỏ.
Sở dĩ có sự phân chia làm 2 loại tài sản vì tư liệulao động có nhiều loại, mỗi loại có đặc tính riêng về giá trị và giá trị sử dụng, thời gian sử dụng. Thực tế những tài sản có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài: máy móc, nhà xưởng... được tập hợp lại gọi là TSCĐ.
Theo quyết định số 166/1999/QĐ-BTC ngày 30/12/1999 của Bộ trưởng Bộ tài chính.
Tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ:
1. Tiêu chuẩn và nhận biết TSCĐ hữu hình:
Mọi tư liệu lao động là từng tài sản hữu hình có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau để cùng thực hiện một hay một số chức năng nhất định mà nếu thiếu bất kỳ một bộ phận nào trong đó thì cả hệ thống không thể hoạt động được, nếu thoả mãn đồng thời cả hai tiêu chuẩn dưới đây thì được coi là TSCĐ.
a. Có thời gian sử dụng từ một năm trở lên:
b. Có giá trị từ 5.000.000 đ (Năm triệu đồng ) trở lên.
Trường hợp một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản riêng lẻ liên kết với nhau, trong đó một bộ phận cấu thành có thời gian sử dụng khác nhau và nếu thiếu một bộ phận nào đó và cả hệ thống vẫn thực hiện được chức năng hoạt động chính của nó mà do yêu cầu quản lý, sử dụng TSCĐ đòi hỏi phải quản lý riêng từng bộ phận tài sản thì mỗi bộ phận phân tài sản đó được coi là một tài sản cố định hữu hình , độc lập (ví dụ ghế ngồi, khung và động cơ trong một máy bay).
Đối với súc vật làm việc và/ hoặc cho sản phẩm, thì từng con súc vật được coi là TSCĐ hữu hình.
Đối với vườn cây lâu năm thì từng mảnh vườn cây được coi là một tài sản cố định hữu hình.
2. Tiêu chuẩn và nhận biết tài sản cố định vô hình:
Mọi chi phí thực tế mà doanh nghiệp đã chi ra thoả mãn đồng thời cả hai điều kiện quy định tại khoản 1 điều này, mà không hình thành TSCĐ hữu hình thì được coi là TSCĐ vô hình. Nếu khoản chi phí này không đồng thời thoả mãn cả hai tiêu chuẩn nêu trên thì được hạch toán trực tiếp hoặc được phân bổ dần vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp .
“ TSCĐ là xương và bắp thịt của sản xuất”- Mac. TSCĐ là điều quan trọng để tăng NSLĐ xã hội và phát triển nền KTQD, nó thể hiện một cách chính xác nhất năng lực và trình độ trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật của mỗi doanh nghiệp.
Có thể khẳng định trong hoạt động SXKD của doanh nghiệp nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế nói chung, TSCĐ là cơ sở vật chất có ý nghĩa và vai trò quan trọng, là cơ sở để doanh nghiệp tồn tại và phát triển trên thị trường.
Qua những phân tích nêu trên có thể rút ra định nghĩa về TSCĐ trong doanh nghiệp như sau:
“TSCĐ trong các doanh nghiệp là những tư liệu lao động chủ yếu, mà đặc thù của chúng là tham gia vào chu kỳ sản xuất. Trong quá trình đó, giá trị của TSCĐ không bị tiêu hao hoàn toàn trong lần sử dụng đầu tiên mà nó được chuyển dịch dần sang chu kỳ sản xuất tiếp theo”.
Để quản lý tốt và nâng cao hiệu quả sử dụng TSCĐ nhằm tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá trị doanh nghiệp thì việc quản lý TSCĐ phải xuất phát từ đặc điểm của TSCĐ.
b) Đặc điểm của TSCĐ.
Trong quá trình sản xuất, mặc dù TSCĐ bị hao mòn, xong chúng vẫn giữ nguyên được hình thái vật chất ban đầu. Chỉ khi nào chúng đã bị hao mòn, hư hỏng hoàn toàn hoặc xét thấy không có lợi về mặt KINH Tế thì khi đó mới cần được thay thế, đổi mới. Cụ thể:
* Về mặt hiện vật: TSCĐ tham gia hoàn toàn và nhiều lần trong sản xuất, nhưng giá trị sử dụng giảm dần cho đến khi hư hỏng hoàn toàn loại ra khỏi sản xuất.
* Về mặt giá trị: TSCĐ được biểu hiện dưới hai hình thái:
+ Một bộ phận giá trị tồn tại dưới hình thái ban đầu gắn với hiện vật TSCĐ.
+ Một bộ phận giá trị chuyển sản phẩm mà tài sản cố định sản xuất ra và bộ phận này sẽ chuyển hoá thành tiền khi bán được sản phẩm.
Bộ phận thứ nhất ngày càng giảm, bộ phận thứ hai ngày càng tăng cho đến khi bằng giá trị ban đầu của TSCĐ thì kết thúc quá trình vận động. Như vậy, khi tham gia vào quá trình sản xuất, nhìn chung TSCĐ không bị thay đổi hình thái hiện vật nhưng tính năng công suất bị giảm dần, tức là nó bị hao mòn và cùng với sự giảm dần về giá trị sử dụng thì giá trị của nó cũng giảm đi. Bộ phận giá trị hao mòn đó đã chuyển vào giá trị sản phẩm mà nó sản xuất ra và được gọi là khấu hao.
Bên cạnh đặc điểm nêu trên, một tư liệu lao động chỉ được coi là TSCĐ khi nó là sản phẩm của lao động. Do đó, TSCĐ không chỉ có giá trị sử dụng mà còn có giá trị. Nói một cách khác, TSCĐ phải là một hàng hoá như mọi hàng hoá thông thường khác. Thông qua mua bán trao đổi, nó có thể được chuyển quyền sở hữu và quyền sử dụng từ chủ thể này sang chủ thể khác trên thị trường tư liệu sản xuất.
2- Yêu cầu quản lý TSCĐ trong doanh nghiệp.
Quản lý là một quá trình định hướng và tổ chức thực hiện các hướng đã định trên cơ sở những nguồn lực xác định nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
Yêu cầu quản lý TSCĐ đó là:
+ Phải quản lý TSCĐ như là một yếu tố cơ bản của sản xuất-kinh doanh, góp phần tạo ra năng lực sản xuất đơn vị. Do đó kế toán phải cung cấp thông tin về số lượng TSCĐ hiện có tại đơn vị, tình hình biến động tăng giảm của TSCĐ trong đơn vị.
+ Phải quản lý TSCĐ như là một bộ phận vốn cơ bản, đầu tư dài hạn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, có tốc độ chu chuyển chậm tính bằng nhiều năm tài chính, có độ rủi ro lớn. Vì vậy kế toán phải cung cấp những thông tin về các loaị vốn đã đầu tư cho tài sản và chi tiết vốn đầu tư cho chủ sở hữu, phải biết được nhu cầu vốn cần thiết để đầu tư mới cũng như để sửa chữa TSCĐ.
+ Phải quản lý phần giá trị TSCĐ đã sử dụng như là một bộ phận chi phí của sản xuất kinh doanh. Do đó, yêu cầu kế toán phải tính đúng, tính đủ mức khấu hao trích tuỳ từng kỳ kinh doanh theo hai mục đích: Thu hồi được vốn đầu tư hợp lý và đảm bảo khả năng bù đắp được chi phí.
+ Quản lý TSCĐ còn là để bảo vệ tài sản cho doanh nghiệp không những đảm bảo cho TSCĐ “Sống” mà là “Sống có ích” cho doanh nghiệp, đảm bảo khả năng tài sản xuất và có kế hoạch đầu tư mới khi cần thiết.
3- Sự cần thiết phải tổ chức hạch toán TSCĐ tại doanh nghiệp .
Do TSCĐ là cơ sở vật chất kỹ thuật của sản xuất, là điều kiện quan tọng để tăng NSLĐ xã hội vf phát triển nền kinh tế quốc dân nên cần sự tăng thêm và đổi mới không ngừng. Điều đó có tác dụng quyết định đến yêu cầu và nhiệm vụ của công tác quản lý và sử dụng TSCĐ. Mỗi ngành. mỗi địa phương cũng như từng doanh nghiệp phải đề cao trách nhiệm làm chủ các nguồn vốn, bảo tồn và bảo vệ an toàn triệt để, có hiệu quả cao mọi TSCĐ hiện có nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm và giữ vững được thị trường có đủ sức để cạnh tranh với doanh nghiệp khác. Hơn nữa kế toán TSCĐ rất phức tạp vì các nghiệp vụ về TSCĐ rất nhiều và thường có quy mô lớn, thời gian phát sinh dài như: mua sắm, xây dựng, khấu hao, sửa chữa thanh lý... thêm vào đó, yêu cầu về quản lý TSCĐ rất cao. Do vậy, để đảm bảo ghi chép kịp thời chính xác các nghiệp vụ kinh tế phát sinh và cung cấp những thông tin hữu hiệu nhất cho quản lý thì cần phải tổ chức hạch toán TSCĐ một cách khoa học, tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa các yếu tố cấu thành nên bản chất của kế toán. Vì vậy có thể nói tổ chức hạch toán TSCĐ là rất cần thiết.
4. Nhiệm vụ tổ chức hạch toán TSCĐ.
Xuất phát từ đặc điểm, vị trí và vai trò của TSCĐ trong hoạt động sản xuất kinh doanh, kế toán TSCĐ phải đảm bảo thực hiện các nhiệm vụ chủ yếu sau:
+ Ghi chép, phản ánh tổng hợp chính xác kịp thời số lượng, giá trị TSCĐ hiện có, tình hình tăng giảm và hiện trạng TSCĐ trong phạm vi toàn đơn vị, cũng như tại từng bộ phận sử dụng TSCĐ, tạo điều kiện cung cấp thông tin để kiểm tra, giám sát thường xuyên việc giữ gìn, bảo quản, bảo dưỡng TSCĐ và kế hoạch đầu tư đổi mới TSCĐ trong từng đơn vị.
+ Tính toán và phân bổ chính xác mức khấu hao TSCĐ vào chi phí sản xuất kinh doanh theo mức độ hao mòn của tài sản và chế độ quy định.
+ Tham gia lập kế hoạch sửa chữa và dự toán chi phí sửa chữa TSCĐ, giám sát việc sửa chữa TSCĐ về chi phí và kết quả của công việc sửa chữa.
+ Tính toán phản ánh kịp thời, chính xác tình hình xây dựng trang bị thêm, đổi mới nâng cấp hoặc tháo gỡ bớt làm tăng giảm nguyên giá TSCĐ cũng như tình hình quản lý , nhượng bán TSCĐ.
+ Hướng dẫn, kiểm tra các đơn vị, các bộ phận phụ thuộc trong các doanh nghiệp thực hiện đầy đủ chế độ ghi chép ban đầu về TSCĐ, mở các sổ, thẻ kế toán cần thiết và hạch toán TSCĐ đúng chế độ quy định.
+ Tham gia kiểm tra đánh giá lại TSCĐ theo quy định của nhà nước và yêu cầu bảo quản vốn, tiến hành phân tích tình hình trang bị, huy động bảo quản, sử dụng TSCĐ tại đơn vị.
II. Phân loại và đánh giá TSCĐ.
1. Phân loại TSCĐ.
a. Sự cần thiết phải phân loại TSCĐ.
TSCĐ có nhiều loại nhiều thứ, có đặc điểm và yêu cầu quản lý khác nhau. Do vậy để tiện cho công tác quản lý và hạch toán TSCĐ thì phân loại TSCĐ là rất cần thiết. Nhờ vào việc phân loại chúng ta sẽ biết được chất lượng cơ cấu của từng loại TSCĐ hiện có trong nền kinh tế quốc dân nói chung và trong từng doanh nghiệp nói riêng. Tài liệu của phân loại TSCĐ được dùng để lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch sửa chữa lớn, hiện đại hoá TSCĐ, nếu phân loại chính xác TSCĐ sẽ tạo điều kiện phát huy hết tác dụng của TSCĐ trong quá trình sản xuất, đồng thời phục vụ tốt cho công tác thống kê, kế toán TSCĐ thành từng loại, từng nhóm theo những đặc trưng nhất định.
b. Phân loại:
Phân loại TSCĐ là việc phân chia toàn bộ TSCĐ hiện có của doanh nghiệp theo những tiêu thức nhất định nhằm phục vụ cho yêu cầu quản lý và hạch toán TSCĐ, thông thường có 4 cách phân loại TSCĐ như sau:
* Phân loại TSCĐ theo hình thái biểu hiện:
+ TSCĐ hữu hình: là những tư liệu lao động chủ yếu có hình thái vật chát (từng đơn vị tài sản có kết cấu độc lập hoặc là một hệ thống gồm nhiều bộ phận tài sản liên kết với nhau để thực hiện một hay một số chức năng nhất định) có giá trị lớn và thời gian sử dụnglâu dài, tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên hình thái vật chất ban đầu như nhà cửa, vật kiến trúc, thiết bị.... bao gồm:
Loại 1: Nhà cửa, vật kiến trúc: là TSCĐ của doanh nghiệp được hình thành sau quá trình thi công xây dựng như trụ sở làm việc, nhà kho, hàng rào, tháp nước, sân bãi, các công trình trang trí cho nhà cửa, đường xá, cầu cống, đường sắt, cầu tầu, cầu cảng...
Loại 2: Máy móc, thiết bị, là toàn bộ các loại máy móc, thiết bị dùng trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy móc chuyên dùng, thiết bị công tác, dây truyền công nghệ, những máy móc đơn lẻ...
Loại 3: Phương tiện vận tải , thiết bị truyền dẫn: là các loại phương tiện vận tải gồm phương tiện vận tải đường sắt, đường thuỷ, đường bộ, đường không, đường ống và các thiết bị truyền dẫn như hệ thống thông tin, hệ thống điện, đường ống nước, băng tải..
Loại 4: Thiết bị, dụng cụ quản lý: là những thiết bị , dụng cụ dùng trong công tác quản lý hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp như máy vi tính phục vụ quản lý, thiết bị điện tử, thiết bị, dụng cụ đo lường, kiểm tra chất lượng, máy hút ẩm, hút bụi, chống mối mọt...
Loại 5: Vườn cây lâu năm, súc vật làm việc và /hoặc cho sản phẩm. Là các vườn cây lâu năm như vườn cà phê, vườn chè, vườn cao su, vườn cây ăn quả, thảm cỏ, thảm cây xanh. Súc vật làm việc và / hoặc cho sản phẩm như đàn voi, đàn ngựa, đàn trâu, đàn bò...
Loại 6: Các loại TSCĐ khác là toàn bộ các TSCĐ khác chưa liệt kê vào năm loại trên như tranh ảnh, tác phẩm nghệ thuật...
+ TSCĐ vô hình : là những TSCĐ không có hình thái vật chất, thể hiện một lượng giá trị đã được đầu tư có liên quan trực tiếp đến nhiều chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp như: chi phí thành lập doanh nghiệp. Chi phí về đất sử dụng, chi phí về bằng phát minh, bằng sáng chế, bản quyền tác giả... bao gồm:
- Quyền sử dụng đất: là giá trị quyền sử dụng một diện tích, một mặt đất, một mặt nước , mặt biển nhất định thuộc vốn Nhà nước cấp cho doanh nghiệp sử dụng vào kinh doanh trong thời gian quy định.
- Chi phí thành lập và chuẩn bị sản xuất: là các chi phí phát sinhlúc doanh nghiệp mới được thành lập như: chi phí cho công tác nghiên cứu thăm dò, lập dự án đầu tư, chi phí về huy động vốn ban đầu, chi phí đi lại hội họp, chi phí khai trương quảng cáo... Các chi phí này chấm dứt khi doanh nghiệp đi vào hoạt động chính thức.
- Bằng phát minh sáng chế: giá trị các bằng phát minh sáng chế là các chi phí doanh nghiệp phải trả để mua bản quyền về bằng phát minh sáng chế của các nhà nghiên cứu hoặc chi phí phải tgrả cho các công trình nghiên cứu sản xuất thử được nhà nước cấp bằng phát minh sáng chế.
- Chi phí nghiên cứu phát triển: là các chi phí doanh nghiệp tự thực hiện hoặc thuê ngoài thực hiện các công trình quy mô lớn về nghiên cứu, lập kế hoạch dự án dài hạn để đầu tư phát triển nhằm đem lại lợi ích lâu dài cho doanh nghiệp.
- Chi phí về lợi thế thương mại: là các chi phí tính thêm ngoài giá trị của các loại TSCĐ hữu hình do có sự thuận lợi về vị trí thương mại, sự tín nhiệm với bạn hàng, danh tiếng của doanh nghiệp.
- Tài sản cố định vô hình khác: gồm quyền đặc nhượng , quyền thuê nhà, bản quyền tác giả, quyền sử dụng hợp đồng, độc quyền nhãn hiệu và tên hiệu... Trong đó:
Quyền đặc nhượng là các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để có được đặc quyền khai thác các nghiệp vụ quan trọng hoặc độc quyền sản xuất một loại sản phẩm nào đó theo các hợp đồng đặc quyền ký kết với Nhà nước hoặc một đơn vị khác nhượng quyền.
Quyền thuê nhà là các chi phí sang nhượng chuyển quyền mà doanh nghiệp phải trả cho người thuê nhà trước đó để được thừa kế các quyền lợi về thuê nhà theo hợp đồng đã ký kết với Nhà nước hoặc các đối tượng khác.
Bản quyền tác giả là chi phí tiền thù lao trả cho tác giả và được Nhà nước công nhận cho tác giả có độc quyền phát hành và bán tác phẩm của mình.
Độc quyền nhãn hiệu và tên hiệu là chi phí phải trả cho việc mua lại nhãn hiệu hàng hoá và tên hiệu của doanh nghiệp nào đó...
Phương pháp phân loại TSCĐ theo hình thái vật chất sẽ giúp cho người quản lý có một nhãn quang tổng thể về cơ cấu đâù tư của doanh nghiệp. Đây là một căn cứ quan trọng để xây dựng các quyết định đầu tư hoặc điều chỉnh phương hướng đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế. Mặt khác, nhà quản lý có thể dùng phương pháp phân loại này để đề ra các biện pháp quản lý tài sản, quản lý vốn, tính toán khấu hao chính xác và hợp lý.
* Phân loại TSCĐ theo quyền sở hữu:
Theo cách phân loại này TSCĐ cũng được chia thành 2 loại:
+ TSCĐ tự có: là những tài sản được xây dựng, mua sắm hoặc chế tạo bằng nguồn vốn ngân sách cấp hoặc cấp trên cấp, nguồn vốn vay, nguồn vốn liên doanh, các quỹ của doanh nghiệp và các tài sản cố định được biếu tặng.
+ TSCĐ thuê ngoài: Do yêu cầu sử dụng mà doanh nghiệp cần một số TSCĐ, tuy nhiên chưa đủ khả năng tài chính hoặc không cần thiết phải mua. Trong trường hợp này, doanh nghiệp sẽ đi thuê tài sản dưới 2 hình thức:
- TSCĐ thuê tài chính.
TSCĐ thuê tài chính là những TSCĐ doanh nghiệp thuê của công ty cho thuê tài chính nếu hợp đồng thuê thoả mãn ít nhất 1 trong 4 điều kiện sau đây:
a. Khi kết thúc thời hạn cho thuê theo hợp đồng, bên thuê được chuyển quyền sở hữu tài sản thuê hoặc được tiếp tục thuê theo sự thoả thuận của 2 bên;
b. Nội dung hợp đồng thuê có quy định: khi kết thúc thời hạn thuê, bên thuê được quyền lựa chọn mua tài sản thuê theo giá danh nghĩa thấp hơn giá thực tế của tài sản thuê tại thời điểm mua lại.
c. Thời hạn cho thuê một loại tài sản ít nhất phải bằng 60% thời gian cần thiết để khấu hao tài sản thuê.
d. Tổng số tiền thuê một loại tài sản quy định tại hợp đồng thuê, ít nhất phải tương đương với giá của tài sản đó trên thị trường vào thời điểm ký hợp đồng.
Theo thông lệ quốc tế, TSCĐ được coi là thuê tài chính khi hợp đồng thuê phải thoả mãn một trong bốn điều kiện sau đây.
. Quyền sở hữu TSCĐ thuê được chuyển cho bên thuê khi hết hạn hợp đồng thuê.
. Hợp đồng cho phép bên đi thuê được lựa chọn mua TSCĐ thuê với giá thấp hơn giá thực tế của TSCĐ thuê tại thời điểm mua lại.
. Thời gian thuê theo hợp đồng ít nhất phải bằng 3/4 (75% thời gian hữu dụng của TSCĐ thuê.
. Giá trị hiện thời của hợp đồng thuê phải trả cho TSCĐ đi thuê ít nhất bằng 90% giá trị TSCĐ thuê.
- TSCĐ thuê hoạt động:
Mọi hợp đồng thuê TSCĐ nếu không thoả mãn bất kỳ điều kiện nào trong 4 điều kiện trên được coi là TSCĐ thuê hoạt động.
Cách phân loại này cho ta biết được cơ cấu TSCĐ của doanh nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc sử dụng tài khoản cấp I và cấp II một cách hợp lý. Cho dù là TSCĐ tự có hay thuê ngoài thì điều phải trích khấu hao. Do vậy việc phân loại TSCĐ theo quyền tự chủ về vốn giúp cho công tác quản lý TSCĐ có hiệu quả và giúp cho công tác ghi sổ kế toán được rõ ràng. Tuy nhiên phương pháp phân loại này chưa phản ánh được tình hình sử dụng TSCĐ của đơn vị.
* Phân loại TSCĐ theo nguồn hình thành TSCĐ:
Theo cách phân loại này ta có thể chia ra:
+ TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước cấp
+ TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn tự bổ sung
+ TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn liên doanh.
+ TSCĐ được mua sắm đầu tư bằng nguồn vốn vay.
Cách phân loại này có ý nghĩa rất quan trọng giúp chúng ta quyết định sử dụng nguồn vốn khấu hao hợp lý. Như ta đã biết để quản lý tốt TSCĐ chúng ta phải xác định được đối tượng ghi TSCĐ. Có thể là TSCĐ độc lập hoặc tổng thể các bộ phận cấu thành cùng tham gia thực hiện một chức năng nhất định. Từ đó giúp chúng ta ghi số hiệu TSCĐ trên cơ sở đó lập sổ và thẻ chi tiết TSCĐ.
* Phân loại TSCĐ theo công dụng và tình hình sử dụng:
Theo cách này, TSCĐ được phân thành các loại sau:
+ TSCĐ dùng trong sản xuất kinh doanh: là TSCĐ đang thực tế sử dụng trong các hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Những TSCĐ này bắt buộc phải trích khấu hao tính vào chi phí sản xuất kinh doanh.
+ TSCĐ hành chính sự nghiệp: là TSCĐ của các đơn vị hành chính sự nghiệp (như đoàn thể quần chúng, tổ chức y tế, văn hoá...)
+ TSCĐ phúc lợi: là những TSCĐ của đơn vị dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng như: nhà văn hoá, nhà trẻ, câu lạc bộ, nhà nghỉ mát, xe ca phúc lợi...
+ TSCĐ chờ xử lý: bao gồm những TSCĐ không cần dùng, chưa cần dùng vì thừa so với nhu cầu sử dụng hoặc vì không thích hợp với sự đổi mới quy trình công nghệ, bị hư hỏng chờ thanh lý, tài sản cố định tranh chấp chờ giải quyết. Những TSCĐ này cần xử lý nhanh chóng để thu hồi vốn sử dụng cho việc đầu tư đổi mới TSCĐ.
Dựa vào cách phân loại này, có thể tiến hành phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp thông qua việc phân tích kết cấu TSCĐ ở doanh nghiệp. Kết quả phân tích thể hiện: Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp có hợp lý hay không? Phương hướng đầu tư và trọng điểm quản lý TSCĐ của doanh nghiệp? Từ việc trả lợi các câu hỏi đặt ra có thể giúp đánh giá chính xác hiệu qủa do sử dụng tài sản mang lại.
Mỗi cách phân loại trên đây cho phép đánh giá, xem xét kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp theo các tiêu thức khác nhau. Kết cấu TSCĐ là tỷ trọng giữa nguyên giá của một loại TSCĐ nào đó so với tổng nguyên giá các loaị TSCĐ của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ khác nhau cũng khác nhau. Sự biến động của kết cấu TSCĐ của doanh nghiệp trong các thời kỳ khác nhau chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như quy mô sản xuất, khả năng thu hút vốn đầu tư, khả năng tiêu thụ sản phẩm trên thị trường, trình độ tiến bộ khoa họ