Bước sang thế kỷ XXI, thế giới với xu hướng mở cửa và hội nhập, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong những năm gần đây Việt nam được biết đến không chỉ qua xuất khẩu than, dầu mỏ mà còn được biết đến qua xuất khẩu nông sản.
Ngày nay thị trường thế giới đang mở ra nhiều triển vọng lớn, cùng với chính sách mở cửa của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản xuất khẩu phát triển và đủ khả năng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trước cộng với lợi thế của mình,Việt nam đã chọn xuất khẩu nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xét tương quan trong toàn ngành nông nghiệp, xuất khẩu nông sản chiếm một vị trí quan trọng về tổng sản lượng, nộp ngân sách và đặc biệt đã thu hút hơn 70% lực lượng lao động của cả nước.
Bên cạnh những thuận lợi cũng như những thời cơ nói trên, xuất khẩu nông sản cũng gặp nhiều thắch thức, khó khăn, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu nông sản luôn luôn mất ổn định và trải qua những thăng trầm diễn biến của thị trường. Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến với tên giao dịch: “VINAFIMEX” cũng trải qua những thách thức đó.
Trong thời gian qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu Á và lan rộng ra một số nước phương Tây cũng làm thu hẹp thị trường hàng nông sản xuất khẩu của Tổng công ty. Trong thời gian tới đất nước gia nhập AFTA đặt ra cho Tổng công ty bài toán làm sao để khổi bị loại khỏi thị trường quốc tế, đứng vững và kinh doanh có lãi. Cả thị trường trong nước và ngoài nước đều có nhữngvấn đề khó khăn cho Tổng công ty khi tiếp cận. Đối với thị trường nước ngoài người tiêu dùng là người khó tính, họ có nhiều khả năng lựa chọn từ chủng loại đến kiểu cách tiêu chuẩn chất lượng nhưng hộ là những người có vai trò quan trọng. Bên cạnh đó việc xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước làm cho cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn.
Tình hình đó đòi hỏi nhà quản lý Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến phải làm sao giữ được bạn hàng cũ, mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới tiềm năng. Muốn đạt được điều đó Tổng công ty phải hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, vận chuyển giao hàng đúng thời hạn,phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực. Điều đó có nghĩa là Tổng công ty phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước và trên thị trường thế giới.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại Tổng công ty VINAFIMEX với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Trần Đại, cùng ban giám đốc cán bộ phòng XNK5 và phòng kinh tế tổng hợp tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài góp phần làm rã căn cứ luận, phương pháp luận và thực tiễn nội dung của các khâu từ thu mua chế biến, bảo quản, đống gói để đảm bảo chất lượng và có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng nhằm đưa ra nhữnh kiến nghị nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu đặc biệt là hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty như cà phê, điều nhân , cao su
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 phần.
Phần I – tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến.
Phần II – Thực trạng khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến .
Phần III - Định hướng phát triển hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu và một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng đó.
110 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1344 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Bước sang thế kỷ XXI, thế giới với xu hướng mở cửa và hội nhập, Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Trong những năm gần đây Việt nam được biết đến không chỉ qua xuất khẩu than, dầu mỏ mà còn được biết đến qua xuất khẩu nông sản.
Ngày nay thị trường thế giới đang mở ra nhiều triển vọng lớn, cùng với chính sách mở cửa của nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hàng nông sản xuất khẩu phát triển và đủ khả năng hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kinh nghiệm của các nước đi trước cộng với lợi thế của mình,Việt nam đã chọn xuất khẩu nông sản là một trong những ngành xuất khẩu mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội. Xét tương quan trong toàn ngành nông nghiệp, xuất khẩu nông sản chiếm một vị trí quan trọng về tổng sản lượng, nộp ngân sách và đặc biệt đã thu hút hơn 70% lực lượng lao động của cả nước.
Bên cạnh những thuận lợi cũng như những thời cơ nói trên, xuất khẩu nông sản cũng gặp nhiều thắch thức, khó khăn, các đơn vị kinh doanh xuất khẩu nông sản luôn luôn mất ổn định và trải qua những thăng trầm diễn biến của thị trường. Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến với tên giao dịch: “VINAFIMEX” cũng trải qua những thách thức đó.
Trong thời gian qua cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở các nước Châu Á và lan rộng ra một số nước phương Tây cũng làm thu hẹp thị trường hàng nông sản xuất khẩu của Tổng công ty. Trong thời gian tới đất nước gia nhập AFTA đặt ra cho Tổng công ty bài toán làm sao để khổi bị loại khỏi thị trường quốc tế, đứng vững và kinh doanh có lãi. Cả thị trường trong nước và ngoài nước đều có nhữngvấn đề khó khăn cho Tổng công ty khi tiếp cận. Đối với thị trường nước ngoài người tiêu dùng là người khó tính, họ có nhiều khả năng lựa chọn từ chủng loại đến kiểu cách tiêu chuẩn chất lượng…nhưng hộ là những người có vai trò quan trọng. Bên cạnh đó việc xuất hiện nhiều đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước làm cho cạnh tranh càng trở nên gay gắt hơn.
Tình hình đó đòi hỏi nhà quản lý Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến phải làm sao giữ được bạn hàng cũ, mở rộng quan hệ tìm kiếm khách hàng mới tiềm năng. Muốn đạt được điều đó Tổng công ty phải hạ giá thành sản phẩm, nâng cao chất lượng, vận chuyển giao hàng đúng thời hạn,phù hợp với thị hiếu của người tiêu dùng ở từng khu vực. Điều đó có nghĩa là Tổng công ty phải nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm trong nước và trên thị trường thế giới.
Chính vì vậy trong quá trình thực tập tại Tổng công ty VINAFIMEX với sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo hướng dẫn Trần Đại, cùng ban giám đốc cán bộ phòng XNK5 và phòng kinh tế tổng hợp tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài:
“Những giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến”.
Mục đích nghiên cứu của đề tài góp phần làm rã căn cứ luận, phương pháp luận và thực tiễn nội dung của các khâu từ thu mua chế biến, bảo quản, đống gói…để đảm bảo chất lượng và có thể cạnh tranh với hàng hoá thế giới. Trên cơ sở đó phân tích thực trạng nhằm đưa ra nhữnh kiến nghị nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu đặc biệt là hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty như cà phê, điều nhân , cao su…
Ngoài phần mở đầu và kết luận chuyên đề tốt nghiệp được kết cấu gồm 3 phần.
Phần I – tính tất yếu khách quan của việc nâng cao khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến.
Phần II – Thực trạng khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu nông sản và thực phẩm chế biến .
Phần III - Định hướng phát triển hàng xuất khẩu chủ yếu ở Tổng công ty xuất nhập khẩu và một số giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của các mặt hàng đó.
PHẦN I
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH CỦA MỘT SỐ MẶT HÀNG XUẤT KHẨU CHỦ YẾU Ở TỔNG CÔNG TY XUẤT NHẬP KHẨU NÔNG SẢN VÀ THỰC PHẨM
CHẾ BIẾN (VINAFIMEX)
I - VAI TRÒ CỦA CẠNH TRANH TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG.
Cạnh tranh là một đặc tính cơ bản của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là điều kiện tất yếu, là môi trường hoạt động của nền kinh tế thị trường. Không có một nền kinh tế thị trường nào không có cạnh tranh và ta cũng chỉ thấy cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Là một phạm trù rất rộng, được rất nhiều nhà kinh tế học quan tâm nên cạnh tranh có rất nhiều khái niệm khác nhau.Tuy nhiên tựu chung lại cạnh tranh được hiểu là:
2 - Khái niệm về cạnh tranh.
Theo Marx: “cạnh tranh là sự ganh đua gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản suất và tiêu thụ hàng hoá để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Trong kinh tế học cạnh tranh (Competition) được định nghĩa là sự giành giật thị trường (khách hàng) để tiêu thụ sản phẩm giữa các doanh nghiệp.
Trong từ điển kinh doanh (Anh - Xuất bản 1920), cạnh tranh trong cơ chế thị trường được định nghĩa là: “Sự kinh doanh ,sự kình địch giữa các nhà kinh doanh nhằm tranh giành tài nguyên sản suất cùng loại sản phẩm về phía mình”.
Ngoài ra trên thực tế còn thấy cạnh tranh được hiểu là cuộc đấu tranh giữa các doanh nghiệp nhằm giành điều kiện thuận lợi trong sản suất, tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ trên thị trường nhưng những cuộc đấu đá này không hề thấy trong nền kinh tế tập trung mà cạnh tranh theo nghĩa là giành giật thị phần (khách hàng) thì chỉ có trong nền kinh tế thị trường và có nền kinh tế thị trường thì đương nhiên có cạnh tranh.
Như vậy các nhà doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường thì đương nhiên phải đối mặt với cạnh tranh. Họ sẽ không được hậu thuẫn: “lãi hưởng, lỗ bù” mà họ phải tự vận động để cạnh tranh mà tồn tại. Hơn nữa vấn đề sống còn của doanh nghiệp là lợi nhuận, lợi nhuận được tạo ra bởi những lợi thế của doanh nghiệp như mua rẻ, bán đắt, là thu hút được khách hàng nhiều hơn để tiêu thụ được lượng sản phẩm lớn hơn.
Suy cho cùng vì vấn đề lợi nhuận mà các doanh nghiệp phải làm vừa lòng khách hàng. Khách hàng sẽ hài lòng với những sản phẩm tốt giá cả phải chăng mẫu mã đẹp. Theo đó doanh nghiệp phải tìm mọi cách để nâng cao chất lượng, giảm thiểu giá thành, cải tiến mẫu mã, bao bì …để cung ứng ra thị trường những sản phẩm không những làm thoả mãn khách hàng mà còn có khả năng cạnh tranh trên thị trường, chính lợi nhuận sẽ đưa các nhà kinh doanh đến lĩnh vực sản xuất, kinh doanh mà xã hội cần nhiều hàng hoá hơn và từ bỏ những lĩnh vực mà xã hội cần ít hàng hoá hơn.
2 - Phân loại cạnh tranh.
2.1 - Phân loại theo mức độ cạnh tranh.
2.1.1 - Cạnh tranh hoàn hảo.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo là thị trường trong đó có nhiều người mua và người bán và mỗi người trong số họ hành động độc lập với tất cả những người khác. Nghĩa là giao dịch bình thường của người mua hay người bán đều không ảnh hưởng gì tới giá mà ở đó các giao dịch được thực hiện. Hàng hoá trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo được coi là tương tự nhau, nên khách hàng không phải quan tâm tới việc mua hàng hoá đó ở nhà cung cấp nào. Cả người mua và người bán đều có hiểu biết đầy đủ thông tin liên quan đên việc trao đổi. Thị trường này đòi hỏi tất cả người mua và người bán đều liên hệ với những người trao đổi tiềm năng biết tất cả các đặc trưng của các mặt hàng trao đổi, biết tất cả giá người bán đòi hỏi và người mua phải trả. Mọi người có liên hệ mật thiết với nhau và sự thông tin giữa họ là liên tục.Thị trường cạnh tranh hoàn hảo ở mỗi thời điểm mọi người tự do tham gia vào thị trường trở thành người mua hoặc người bán và được trao đổi ở cùng một mức giá. Đồng thời nó cũng không có một trở ngại nào cản người mua hay người bán rút khỏi thị trường .
2.1.2 - Cạnh tranh không hoàn hảo .
2.1.1.1 - Cạnh tranh độc quyền.
Giống như thị trường cạnh tranh hoàn hảo thị trường cạnh tranh độc quyền cũng có sự tự do gia nhập nhưng khác với thị trường cạnh tranh hoàn hảo các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau bằng việc bán những sản phẩm riêng biệt (được làm cho khác với sản phẩm cửa doanh nghiệp khác). Các sản phẩm này có thể thay thế cho nhau ở mức độ cao nhưng không phải là thay thế hoàn hảo. Khi các sản phẩm này trở nên không có lãi thì gia nhập hay rút lui khỏi thị trường trở nên dễ dàng .
So với thị trường cạnh tranh hoàn hảo thì giá cân bằng trên thị trường này cao hơn chi phí cận biên nghĩa là giá trị của những đơn vị hàng hoá bổ sung đối với người tiêu dùng cao hơn chi phí để sản suất ra chúng .
2.1.2.2 - Độc quyền tập đoàn.
Trong thị trường độc quyền tập đoàn, sản phẩm có thể giống hoặc khác nhau. Chỉ có một số doanh nghiệp sản xuất toàn bộ hay hầu hết tổng sản phẩm trên thị trường và họ có thể họ có thể thu lợi nhuận đáng kể trong dài hạn vì hàng rào gia nhập sẽ không cho phép hoặc ngăn cản các doanh nghiệp mới gia nhập vào thị trường .
2.1.3 - Độc quyền.
2.1.3.1- Độc quyền bán.
Độc quyền bán là một thị trường trong đó chỉ có một người bán và nhiều người mua.
Các doanh nghiệp có được vị trí độc quyền bán nhờ đạt được tính quy mô hoặc phát minh sáng chế hoặc kiểm soát được các yếu tố đầu vào hoặc do quy dịnh của Chính Phủ.
Sự khác nhau cơ bản giữa doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo và doanh nghiệp độc quyền bán là doanh nghiệp độc quyền bán có sức mạnh thị trường . Doanh nghiệp cạnh tranh hoàn hảo phải đặt giá ngang chi phí cận biên còn doanh nghiệp độc quyền bán đặt giá thấp hơn.
2.1.3.2 - Độc quyền mua.
Là một thị trường trong đó có nhiều người bán nhưng chỉ có một người mua.
Khi đó người mua có sức mạnh thị trường, họ có thể thay đổi giá cả hàng hoá.Tuy nhiên họ chỉ mua hàng hoá đến số lượng mà đơn vị mua cuối cùng đem lại giá trị bổ sung hay lợi ích đúng bằng chi phí trả cho đơn vị cuối cùng đó.
Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo và độc quyền các doanh nghiệp không phải thay đổi giá hoặc sản lượng ở diểm cân bằng. Trong thị trường cạnh tranh hoàn hảo các doanh nghiệp bán tất cả sản lượng mà doanh nghiệp sản xuất ra và tối đa hoá lợi nhuận ở mức sản lượng cung và cầu bằng nhau. Các nhà độc quyền tập đoàn cũng làm được điều đó nếu như các doanh nghiệp muốn làm điều tốt nhất mình có thể có tính đến các đối thủ và giả định rằng các đối thủ của mình cũng làm như thế.
2.2 - Phân loại theo hình thức cạnh tranh .
2.2. 1 - Cạnh tranh bằng giá cả .
Là hình thức cạnh tranh theo đó các doanh nghiệp ưu tiên mọi nỗ lực của mình hướng tới mục tiêu hàng đầu là giảm thiểu giá thành.Từ đó giá cả sẽ là phương tiện chính để các doanh nghiệp cạnh tranh .
Theo thuyết kinh tế giá được hình thành do sự gặp gỡ của cung và cầu .Trên thực tế để cạnh tranh các doanh nghiệp thường đưa ra mức giá thấp hơn mức giá của các đối thủ nhằm lôi kéo khách hàng và chiếm lĩnh thị trường. Giá cả là tín hiệu phản ánh tình hình biến động của thị trường, là thông số qua đó doanh nghiệp có thể nắm bắt được sự tồn tại, sức chịu đựng của khách hàng cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Do vậy việc xác định giá bán trên thị trường là rất quan trọng, song theo dõi biến động giá thông tin phản hồi từ khách hàng là tối cần thiết. Đôi khi giá mà các doanh nghiệp xác định chỉ thu được lợi nhuận nhỏ đôi khi hoà vốn thậm chí thua lỗ tạm thời. Khi các doanh nghiệp thực sự chiếm lĩnh thị trường, đẩy đối thủ cạnh tranh ra khỏi vòng chiến hoặc làm suy yếu tiềm lực của đối thủ cạnh tranh cũng là lúc doanh nghiệp lấy lại những gì đã chi phí trong cạnh tranh.
2.2.2 - Cạnh tranh bằng chất lượng.
Nếu như giá cả là yếu tố quan trọng nhất trong cạnh tranh khi mà nhu cầu tiêu dùng chỉ dừng lại ở mức tiêu dùng đủ thì chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quyết định khi nhu cầu tiêu dùng không phải là tiêu dùng đủ mà là tiêu dùng tốt hơn, đẹp hơn… Thực tế cạnh tranh bằng giá cả đã trở thành biện pháp nghèo nàn nhất vì nó làm giảm lợi nhuận thu được.
Đời sống ngày một nâng cao, khách hàng sẵn sàng chấp nhận giá cao hơn cho sản phẩm tốt hơn. Đáp ứ ng nhu cầu đó, doanh nghiệp phải nỗ lực để tung ra thị trường sản phẩm có độ bền, chắc, kiểu dáng, mẫu mã đẹp, dễ sử dụng, giá thành và giá cả thích hợp với túi tiền của mọi người có nhu cầu tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm trở thành cái cốt lõi đảm bảo cho doanh nghiệp tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh. Nó là yêu cầu, động lực cho doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào khoa học công nghệ trang bị máy móc hiện đại cũng như tuyển chọn đội ngũ lao động có kỹ năng chuyên môn điều hành những máy móc đó và có khả năng ứng biến linh hoạt trong quản lý. Chính công nghệ hiện đại cộng với trình độ học vấn, kỹ năng, kỹ sảo của những người trực tiếp làm ra sản phẩm là cái tạo ra chất lượng của sản phẩm.
Do vậy để cạnh tranh bằng chất lượng doanh nghiệp phải xây dựng thật tốt chiến lược bằng công nghệ và chiến lược nguồn nhân lực bên cạnh với việc kết hợp chiến lược thị trường, chiến lược kinh doanh.
2.2.3 - Cạnh tranh bằng dịch vụ.
Đây là hình thức cạnh tranh phổ biến trên thị trường quốc tế. Ngoài hình thức cạnh tranh bằng giá cả, chất lượng thì các doanh nghiệp còn cạnh tranh với nhau ở dịch vụ trước, trong và sau khi bán hàng mà chủ yếu ở khâu tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Để tiêu thụ sản phẩm việc đầu tiên là các doanh nghiệp lựa chọn kênh phân phối sản phẩm một cách hợp lý, có hiệu quả nhằm đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu của khách hàng, nhanh chóng giải phóng nguồn hàng để bù đắp chi phí sản xuất, thu hồi vốn. Xây dựng hệ thống mạng lưới tiêu thụ sản phẩm tốt cho phép doanh nghiệp có được một sự vững chắc để phát triển thị trường, mở rộng thị phần của doanh nghiệp. Từ đó sản lượng tiêu thụ của doanh nghiệp sẽ tăng lên kéo doanh thu tăng lên làm cho khả thu hồi vốn nhanh. Không những thế, tổ chức tiêu thụ sản phẩm tốt làm cho nhiếu khách hàng biết đến và hiểu rõ tính năng, công dụng của sản phẩm gúp doanh nghiệp khai thác được nhiều thị trường mới, kích thích sản xuất kinh doanh phát triển.
Tiếp đến doanh nghiệp cần đẩy mạnh hoạt động hỗ trợ bán hàng như quảng cáo, khuyến mãi. Đây là hình thức cạnh tranh phi giá cả, gây sự chú ý và thu hút khách hàng.
Ngày nay hình thức cạnh tranh bằng dịch vụ ngày càng phong phú và tinh vi hơn, thể hiện chi phí cho marketing của các doanh nghiệp ngày càng cao.
Ngoài hai hình thức phân loại trên, cạnh tranh còn được phân loại theo các tiêu thức khác nhau như cạnh tranh trong nội bộ ngành hoặc dựa vào sức cạnh tranh của doanh nghiệp phân thành cạnh tranh mạnh, trung bình, yếu trong mối quan hệ so sánh với doanh nghiệp khác.
3. Vai trò của cạnh tranh trong kinh tế thị trường.
3.1. Khái niệm, đặc trương của kinh tế thị trường.
3.1.1. Khái niệm.
kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. kinh tế hàng hoá phát triển nghĩa là phạm trù hàng hoá, phạm trù tiền tệ và thị trường được phát triển và được mở rộng. Hàng hoá không chỉ bao gồm sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm cả yếu tố dầu vào của qúa trình sản xuất. Dung lượng và cơ cấu thị trường được mở rộng và hoàn thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hoá, khi đó người ta gọi kinh tế hàng hoá là kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường có trật tự nội tại rất cao có khả năng tự điều chỉnh và tự xác định nhu cầu, khối lượng sản phẩm cần thiết nhờ cơ chế giá và hệ thồng thông tin thị trường. Nó là một guồng máy phức tạp và chỉ hoạt động có hiệu quả nếu tất cả các bộ phần cấu thành nó thực sự ăn khớp với nhau.
3.1.2 - Những đặc trưng chung của kinh tế thị trường.
Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Họ tự bù đắp chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Họ cũng được tự do liên kết kinh doanh, tự tổ chức quá trình sản xuất theo luật định. Đây là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế thị trường. Đặc trưng này xuất phát từ điều kiện khách quan của việc tồn tại kinh tế hàng hoá, là biểu hiện và yêu cầu nội tại của kinh tế hàng hoá. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ, năng động.
Hai là: Hàng hoá trên thị trường rất phong phú. Người mua tự do mua hàng hoá và chọn người bán, người bán bán hàng hoá và tìm người mua. Họ gặp gỡ nhau ở giá cả thị trường. Đây là đặc trưng phản ánh tính ưu việt hơn của kinh tế thị trường so với kinh tế tự nhiên.
Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường. Giá cả vừa là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hoá trên thị trường vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ. Trên cơ sở giá trị thị trường, giá cả là kết quả của sự thương lượng và thoả hiệp giữ người mua và người bán. Trong quá trình trao đổi mua bán hàng hoá người bán luôn luôn muốn bán với giá cao, người bán lại muốn mua với giá thấp. Đối với người bán, giá cả phải đáp ứng nhu cầu bù đắp chi phí và có doanh lợi. Chi phí sản xuất là giới hạn dưới, là phần cứng của giá cả còn doanh lợi thì càng nhiều càng tốt. Đối với người mua giá cả phải phù hợp với lợi ích giới hạn của họ. Giá cả thị trường dung hoà cả lơi ích của người mua và người bán.
Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của kinh tế thị trường. Nó tồn tại trên cơ sở những ơn vị sản xuất hàng hoá độc lập và khác nhau về lợi ích kinh tế. theo quy luật giá trị tất cả các đơn vị sản xuất hàng hoá đều phải sản xuất và kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Các đơn vị sản xuất, phải đua nhau cải tiến kỹ thuật mới vào sản xuất để nâng cao năng xuất lao động cá biệt giảm hao phí lao động nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch.
Năm là: Kinh tế thị trường là một hệ thống mở. Nó rất đa dạng và phức tạp, được điều hành bởi hệ thông tiền tệ và hệ thông pháp luật của Nhà nước. Trong những đặc trưng cơ bản nêu trên thì cạnh tranh là đặc trưng cơ bản quan trọng nhất, là điều kiên để nền kinh tế thị trường tồn tại và phát triển theo cơ chế thị trường.
3.2 - Vai trò của cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
* Cạnh tranh buộc doanh nghiệp sử dụng tài nguyên một cách tối ưu và khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất. Chỉ có như vậy các doanh nghiệp mới có thể giảm bớt chi phí, giảm giá thành sản phẩm để giành thị phần với các đối thủ cạnh tranh. Áp dụng khoa học công nghệ mới không những cho phép doanh nghiệp sử dụng các nguồn lực một cách tối ưu nhất mà còn cho phép hiện đại hoá dây truyền sản xuất tăng năng suất góp phần hiện đại hoá sản phẩm.
* Cạnh tranh làm cho nhu cầu tiêu dùng gắn liền với nhu cầu sản xuất. Nếu như trong nền kinh tế kế hoạch tập trung để sản xuất ra một loại hàng hoá thì cần một thời gian dài cho các khâu đệ trình, xét duyệt, thì trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh đã buộc các doanh nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu để từ đó đáp ứng nhu cầu một cách nhanh nhất, kịp thời nhất và hiệu quả nhất. Như vậy vì lợi nhuận mà các doanh nghiệp phải cạnh tranh, từ hoạt động cạnh tranh của họ đã dẫn đến nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất được gắn liền. Tuy nhiên, không chỉ tính kịp thời đã giúp các doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh mà việc thi nhau sản xuất đã làm cho giá cả hàng hoá ngày càng có xu hướng giảm, chủng loại hàng hoá ngày càng đa dạng và phong phú, chất lượng và dịch vụ phục vụ ngày một tốt hơn. Tựu chung lại vì lợi nhuận – mục tiêu nóng bỏng của doanh nghiệp mà họ phải quan tâm tới khách hàng và tìm mọi cách để thuyết phục họ. Bất kỳ một ý kiến nào của khách hàng cũng được các nhà sản xuất quan tâm lập tức nghiên cứu và đáp ứng nhu cầu đó một cách nhanh nhất, tốt nhất.
* Cạnh tranh là động lực cho sự phát triển kinh tế, là cách hữu hiệu nhất dể tối đa hoá lợi nhuận và lợi ích của cả người sản xuất và người tiêu dùng. Cạnh tranh là cơ chế hai đầu, một mặt nó đẩy các doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả tới chỗ phá sản, mặt khác tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả phát triển tốt hơn. Tuy nhiên cạnh tranh không phải là sự huỷ diệt mà là sự thay thế, thay thế giữa các doanh nghiệp sử dụng lãng phí nguồn lực, gây thất thoát cho Nhà nước bằng những doanh nghiệp sử dụng nguồn lực một cách một cách tối ưu, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
Có thể nói cạnh tranh là điều kiện quan trọng để phát triển lực lượng sản xuất áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, là động lực cho sự phát triển kinh tế. Tuy vậy cạnh tranh không chỉ toàn có ưu điểm mà nhược điểm của nó là khuyết tật cố hữu mang đặc trưng cuả cơ chế thị trường đó là khuyết tật của thị trường. Cơ chế thị trường buộc doanh