Đề tài Những tác động tiềm tàng của phát triển thượng lưu đến đồng bằng sông Mê Kông

Địa hình. Sông Mê Kông, một dòng sông nội, là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (cao nguyên cao nhất và lớn nhất trên trái đất, với độ cao trung bình khoảng 5.000 mét) chảy ra biển Đông. Con sông này chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vượt qua Myanmar, và chạy qua Lào, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam. Lưu vực sông Mêkông trên tổng thể trải dài qua các cao độ, khí hậu, vĩ độ và khu thực vật dọc theo 4.200 km (km) chiều dài của con sông. Phần trên ở Trung Quốc đã có một hành lang dài và tương đối hẹp và phù hợp cho phát triển thủy điện và Trung Quốc đang xây dựng một số trong số chúng. Trong tổng số lưu vực của sông Mê Kông (795,000 km ²) Hạ lưu sông Mekong (LMB) bao gồm 77 phần trăm của toàn bộ lưu vực và chiếm hơn bốn phần năm lượng nước chảy ra khỏi lưu vực mỗi năm. Nó bao gồm hơn 85 phần trăm lãnh thổ Lào và Campuchia, toàn bộ phần phía đông bắc của Thái Lan, và một phần phía nam của Việt Nam. LMB có một số tài nguyên quý giá tự nhiên của các giá trị có ý nghĩa kinh tế xã hội, môi trường và văn hóa, và một phần lớn dân số dựa vào các nguồn tài nguyên và dịch vụ mà con sông này cung cấp. Lưu vực bị hưởng mạnh bởi sự xói mòn và lắng đọng và các quá trình khí hậu và dòng sông khác.

doc16 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Những tác động tiềm tàng của phát triển thượng lưu đến đồng bằng sông Mê Kông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHỤ LỤC 4 : NHỮNG TÁC ĐỘNG TIỀM TÀNG CỦA PHÁT TRIỂN THƯỢNG LƯU ĐẾN ĐỒNG BẰNG SÔNG MÊ KÔNG MỤC LỤC: Giới thiệu I. Bối cảnh trên sông Mekong II. Sử dụng nước và tiềm năng phát triển III. Tác động của biến đổi khí hậu đến dòng chảy IV. Những thay đổi tiềm tàng do bởi phát triển thượng lưu đến đồng bằng sông Mê Kông V. Những tác động xã hội tiềm tàng do biến đổi khí hậu Giới thiệu  1. Phụ lục này cung cấp những thông tin cơ bản về sông Mêkông và các tác động tiềm tàng do phát triển thủy điện ở thượng nguồn trong đó đáng kể sẽ thay đổi mô hình dòng chảy trong sông Mekong bắt đầu từ năm 2015. Hầu hết các thông tin đến từ nghiên cứu MRC về giai đoạn hai của chương trình phát triển lưu vực và nghiên cứu của Ngân hàng thế giới gần đây về biến đổi khí hậu. Nó trình bày bối cảnh về sông Mê Kông (kiến thức cơ bản về vật lý và sinh thái, dân số, sắc tộc, và di sản văn hóa , sử dụng nước); các kế hoạch phát triển thuỷ điện và tác động tiềm tàng do thay đổi khí hậu. I. Bối cảnh trên sông Mekong (a) Cơ sở vật lý và sinh thái 2. Địa hình. Sông Mê Kông, một dòng sông nội, là một trong những con sông lớn nhất thế giới, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng (cao nguyên cao nhất và lớn nhất trên trái đất, với độ cao trung bình khoảng 5.000 mét) chảy ra biển Đông. Con sông này chảy qua tỉnh Vân Nam của Trung Quốc, vượt qua Myanmar, và chạy qua Lào, Thái Lan, Campuchia, và Việt Nam. Lưu vực sông Mêkông trên tổng thể trải dài qua các cao độ, khí hậu, vĩ độ và khu thực vật dọc theo 4.200 km (km) chiều dài của con sông. Phần trên ở Trung Quốc đã có một hành lang dài và tương đối hẹp và phù hợp cho phát triển thủy điện và Trung Quốc đang xây dựng một số trong số chúng. Trong tổng số lưu vực của sông Mê Kông (795,000 km ²) Hạ lưu sông Mekong (LMB) bao gồm 77 phần trăm của toàn bộ lưu vực và chiếm hơn bốn phần năm lượng nước chảy ra khỏi lưu vực mỗi năm. Nó bao gồm hơn 85 phần trăm lãnh thổ Lào và Campuchia, toàn bộ phần phía đông bắc của Thái Lan, và một phần phía nam của Việt Nam. LMB có một số tài nguyên quý giá tự nhiên của các giá trị có ý nghĩa kinh tế xã hội, môi trường và văn hóa, và một phần lớn dân số dựa vào các nguồn tài nguyên và dịch vụ mà con sông này cung cấp. Lưu vực bị hưởng mạnh bởi sự xói mòn và lắng đọng và các quá trình khí hậu và dòng sông khác. 3. Lượng mưa và chảy tràn. Khu vực hạ lưu sông Mê Kông có đặc điểm khí hậu nhiệt đới gió mùa với mưa mùa lớn. Gió mùa đông bắc mang mang đến nhiệt độ thấp, ít mưa đến không mưa, trong khi đó gió mùa tây nam giữa tháng 5 và tháng 10 mang đến nhiệt độ cao hơn và mưa nhiều. Tổng lượng mưa trung bình là khoảng 475 km3 và dòng chảy mặt hàng năm trung bình dao động từ thấp 0-250 mm đến cao 1.751- 2.400 mm. Trong suốt mùa khô, dòng chảy ở những sông nhánh lớn giảm tới một phần nhỏ của mùa mưa và nhiều dòng suối nhỏ hoàn toàn khô cạn.Ở thượng lưu, dòng chảy từ Trung Quốc và Myanmar chiếm 18% tổng dòng chảy sông Mê Kông, với tỷ lệ cao hơn trong mùa khô, trong đó tuyết tan cũng góp phần đáng kể. Khoảng 2/3 dòng chảy( 63%) thuộc lãnh thổ Cộng hòa dân chủ nhận dân Lào và Campuchia, hầu hết từ các phụ lưu khởi nguồn trong các vùng đất cao. Việc quản lý các phụ lưu và các lưu vực của nó đóng vai trò then chốt trong quản lý khu vực hạ lưu sông Mê Kông.Trong hầu hết các phần của lưu vực, dòng chảy trong 3 tháng khô nhất chỉ chiếm ít hơn 10% so với tổng dòng chảy năm, trong khi dòng chảy trong 3 tháng mưa nhất tạo nên hơn 50% tổng lượng dòng chảy năm.Điều này giải thíchtrong suốt mùa mưa, 1 đến 4 triệu ha đất canh tác bị ngập, bao gồm cả Biển Hồ ở Campuchia. Việc vận hành các đập tại thượng nguồn Trung Quốc cũng như những đập khác được xây dựng trên dòng chảy chính này sẽ làm thay đổi đáng kể mô hình dòng chảy trên sông Mekong. 4. Dòng chảy mùa mưa. Sông Mekong cũng như các phụ lưu của nó có đặc điểm là dạng lưu lượng chảy thay đổi theo mùa lớn với dòng chảy đáng kể trong suốt mùa mưa do tuyết tan ở dãy Himalaya và những trận mưa mùa ở hạ lưu sông Mê kong. Lượng mưa lớn nhất vào khoảng hơn 2500 mm/năm tập trung ở vùng núi phía Tây của Cộng hòa dân chủ Lào và thấp nhất là nhỏ hơn 1000 mm/năm ở vùng trung tâm của Thái Lan trong lưu vực sông Mun-chi. Dạng địa lý cho thấy rõ nhất, đóng góp lớn nhất cho dòng chảy chính trong mùa hè bắt nguồn từ các sống nhánh bờ trái lớn ở Lào. Điều này điển hình xảy ra ra trong tháng 7, 8 và có liên quan đến sự hình thành giảm của các hệ thống áp thấp nhiệt đới gió mùa. Đỉnh thứ hai trong tháng 9 và tháng 10 một phần liên quan đến tác động của cơn bão nhiệt đới và bão di chuyển qua LMB từ Vịnh Bắc Bộ và Biển Đông. Sự xuất hiện đỉnh của chúng xảy ra từ tháng 9 đến tháng 11, mặc dù đường di chuyển trung bình của bão có xu hướng di chuyển từ Bắc vào Nam khi mùa mữa diễn biến. 5. Dòng chảy mùa khô.Những dòng chảy trên các sông chính đều bị giảm chỉ bằng một phần nhỏ của dòng chảy mùa mưa và rất nhiều dòng suối nhỏ bị khô cạn. Dòng chảy mặt trung bình hàng năm khoảng 475 km3/năm, với tài nguyên nước sắn có tính theo đầu người là 8500 m3/người/năm, khá dồi dào so với các lưu vực sông khác trên thế giới. Ở thượng lưu của lưu vực, những dòng chảy từ Trung Quốc và Myama tạo thành khoảng 18% tổng dòng chảy của Mekong, với một tỷ lệ cao hơn trong suốt mùa khô, do tuyết tan góp phần đáng kể.Gần 2/3 dòng chảy( 63%) bắt nguồn từ Lào và Campuchia, hầu hết từ các nhánh bắt nguồn từ vùng đất cao. Việc quản lý các và lưu vực của chúng đóng vai trò then chốt trong quản lý khu vực hạ lưu sông Mê Kông.Trong hầu hết các phần của lưu vực, dòng chảy trong 3 tháng khô nhất chỉ chiếm ít hơn 10% so với tổng dòng chảy năm, trong khi dòng chảy trong 3 tháng mưa nhất tạo nên hơn 50% tổng lượng dòng chảy năm.Điều này giải thích trong suốt mùa mưa, 1 đến 4 triệu ha đồng bằng lũ bị ngập, bao gồm cả Biển Hồ ở Campuchia. Chế độ thuỷ văn không thay đổi lớn trong các giai đoạn luân phiên của dòng chảy cao và thấp đã tạo nên những mô hình sinh kế nông thôn cơ bản, đồng thời cũng tạo nên những vùng đất ướt và vùng cửa sông màu mỡ kết quả là một đa dạng sinh học có ý nghĩa và những nguồn thủy sản dồi dào hỗ trợ đời sống cộng đồng. 6. Có những khác biệt cơ bản trong cơ sở hạ tầng thủy lợi theo chiều dài của sông Mekong, và những phần rộng lớn của sông Mekong vẫn chưa được chỉnh trị.Trong khi các phụ lưu mà đổ vào Mekong từ đông bắc Thái Lan đã được phát triển hết tiềm năng và đồng bằng châu thổ sông Mekong ở Việt Nam đã có sự phát triển cơ sở hạ tầng ở quy mô lớn, thì Lào và Campuchia chỉ mới khai thác khoảng 1% tài nguyên nước hàng năm sông Mekong trong lãnh thổ. Ngoài ra, điều tiết mùa dòng chảy sông bằng trữ lại ở các đập nước từ lâu đã không đáng kể, chỉ chiếm 2 phần trăm của dòng chảy trung bình hàng năm. 7. Lũ lụt và hạn hán. Lũ lụt và hạn hán là vấn đề quan trong trong quản lý tài nguyên nước ở khu vực này. Lũ lụt là một phần của quy luật tự nhiên trên dòng Mekong. Ở phía Bắc và trong suốt mùa mưa, những dòng chảy lớn thường xuên gây ra những trân lũ quét trên các phụ lưu và dòng chảy chính. Ở hạ lưu, những dòng chảy lớn tạo nên dòng nước vật trong Biển Hồ của Campuchia và mở rộng diện tích của nó ra gấp bốn lần so với mùa khô. Ở phía xa hơn của hạ lưu, sông Mekong tràn lên các đồng bằng phẳng và làm ngập những khu vực lớn trong vài tháng. Lũ mang đến những nguồn lợi đáng kể cho cộng đồng, như hệ sinh thái phong phú của đông bằng lũ và đất ướt phụ thuộc vào quy luật hàng năm của lũ đến và lũ rút( xem bảng A1.1 cho nguyên nhân và các đặc điểm) Những thay đổi mực nước theo mùa trên các đồng bằng lũ trên sông Mekong đã thúc đẩy sự chỉ trú của các loài chim nước giữa các vùng đất ướtVào mùa khô, những vùng đầm ướt là thiết yếu duy trì nơi đẻ trứng cho cá ở trong đồng bằng ngập trong khi mùa mưa các đồng bằng này hoạt động như là nơi sinh đẻ nuôi dưỡng cho nhiều loài cá. Quan trọng là hệ sinh thái này cùng với những lợi ích mà nó mang lại đã mang lại thu nhập và sinh kế nông thôn MRC đã đánh giá thiệt hại hàng năm trung bình do lũ lụt ở hạ lưu sông Mekong là khoảng 60-70 triệu đô la Mỹ trong khi lợi ích hàng năm trung bình của nó là 8 – 10 tỷ USD. Việc cần thiết là thiết lập cách quản lý lũ để tận dụng các lợi ích của lũ, trong khi giảm thiểu các thiệt hại tài sản và chi phí liên quan. (b) Dân số,dân tộc và di sản văn hóa 8. Khoảng 60 triệu người sống ở hạ lưu sông Mekong, theo báo cáo dân số quốc gia của 4 nước thuộc hạ lưu sông Mekong.Số liệu cập nhật cho thấy tổng dân số đã tăng khoảng 12% so với số liệu báo cáo năm 2003(55 triệu người) dù vẫn có sự chênh lệch giữa các nước.Dân số tăng 25% ở Campuchia, 6% ở Lào, giữ nguyên tại Thái Lan và tăng 10% tại Việt Nam.Tỷ lệ dân số và lãnh thổ bên trong lưu vưc là thay đổi theo các nước .Campuchia và Lào chiếm một diện tích lớn trên lưu vực nhưng chỉ chiếm 30% dân số lưu vực.Khoảng 85% dân số của lưu vực sống ở các vùng nông thôn. Nhìn chung, mật độ dân số thấp khoảng 124 người/km2 mặc dù con số này là khác nhau giữa các nước.Hơn 70 dân tộc sống ở vùng Mekong, hầu hết họ canh tác trên các vùng đất cao. 9 Người Thái Lan và Việt Nam có khoảng 60.000.000 chiếm 70 phần trăm với mật độ dân số tương ứng là khoảng 125 người /km2 và 265 người /km2.. Lào có diện tich đất lưu vực lớn nhất vơi một dân số rất nhỏ (8 %)Tuy nhiên, khoảng 72 % tổng dân số ở hạ lưu sông Mekong sống ở vùng nông thôn và hầu hết là nông dân, cuộc sống của họ dựa vào dòng Mekong và các phụ lưu của nó, bao gồm trồng trọt, đánh bắt cá, khai thác lâm sản. Các dân tộc thiểu số ở lưu vực sông Mekong thuộc các nước ở hạ lưu sông Mekong. Dân số của những tỉnh tiêu biểu ở Lào và Campuchia thuộc các dân tộc không đồng nhất, với gần 40% tổng dân số từ các dân tộc thiểu số. Đáng kể dân số Lào Tum (trung Lào), chủ yếu là dân tộc Macon, tìm thấy trong các vùng lũ Xe Bang Fai, trong khi phần lớn dân số là người Lào ở các làng chài ở Champasuk. LMB cũng giàu giá trị lịch sử và giá trị văn hóa, những địa danh nổi tiếng nhất gồm Ankor Wat ở Campuchia và Luang Phrabang ở Lào. Bảng A1.3: hiển thị các chỉ số phát triển kinh tế xã hội và ở hạ lưu sông Mekong. II. Sử dụng nguồn nước và tiềm năng phát triển: 10. Nông nghiệp. Nông nghiệp là ngành sử dụng nước chủ yếu của hạ lưu sông Mekong, nhờ vào mùa mưa và lũ tự nhiên của các vùng đất canh tác thấp.Ở các khu vực miền núi, rừng và hệ thống nông nghiệp quảng canh là sử dụng đất chính, mặc dù đã có sự mở rộng diện tích cây công nghiệp. Những vùng đất thấp ẩm ướt chủ yếu trồng lúa, lúa gạo đất thấp mùa mưa chiếm 84% ở Campuchia và Đông Bắc Thái Lan, 67% ở Lào(nơi lúa nương chiếm ưu thế hơn ) và 40%ở Việt Nam(hệ thống trồng lúa tưới đóng vai trò quan trọng). Lúa gạo tưới trong mùa khô hạn chế về quy mô do các dạng dòng chảy theo mùa của các dòng sông, nhưng tiềm năng của nó có thể tăng và tích nước sông thuông ngồn tăng các dòng chảy mùa khô. 11. Thủy điện. Khu vực hạ lưu sông Mekong đang trải qua thời kỳ phát triển then chốt.Sự phát triển liên tục và mạnh của nền kinh tế trong khu vực( tăng trưởng trung bình 8% trong suốt 5 năm gần đây) đã đặt ra những mối quan tâm trong việc sử dụng nguồn nước hiệu quả. Trong phát triển thủy điện nói riêng, chủ yếu là do khu vực tư nhân, được thúc đẩy bởi những yêu cầu và giá năng lượng cũng như yêu cầu cho an ninh năng lượng quốc gia.Ở 4 nước thuộc LMB: Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam khoảng 10 công trình thủy điện lớn đang xây dựng (> 10 MW) và gần 150 dự án thuộc ở các giai đoạn khác nhau lập kế hoạch/đề xuất, trong đó 11 công trình trên dòng Mekong chính.Ở Lào, 7 công trình thủy điện đang được xây dựng. Thêm vào đó, việc phát triển hệ thống tưới quy mô lớn, đặc biệt ở đông bắc Thái Lan và Campuchia cũng được lên kế hoạch để thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thị trường và an ninh lương thực. Giao thông thủy trên sông chính Mekong cũng tăng, đặc biêt ở hạ lưu của Phnom Penh và giữa Thái Lan- Trung Quốc do hoạt động kinh tế tập trung trong khu vực này. 12. Ở thượng nguồn sông Mekong, Trung Quốc đang hoàn thành bậc thang t thủy điện ở thượng nguồn sông Mekong, dòng Lan Thương, bao gồm công trình thủy điện Tiểu Loan và các dự án thủy điện Nuozhadu ,trữ lượng nước 9900 và 12300 triệu m3 dung tích hoạt động. Hai công trình trên cùng với sự phát triển của các công trình và các dự án trên dòng chảy chính và các phụ lưu đã gây ra thay đổi đáng kể dòng chảy, phân phối lại dòng chảy theo mùa, mô hình dự đoán rằng dòng chảy mùa khô có thể sẽ tăng từ sự xả nước để phát điện , trong khi dòng chảy mùa mưa mà phần lớn nông nghiệp hiện đang phụ thuộc có thể bị giảm, đặc biệt là vào đầu mùa mưa khi những con đập được tái lấp đầy. Trung Quốc đang tăng cường đối thoại với 4 nước thuộc hạ lưu Mekong thông qua MRC và chia sẻ thông tin thủy văn thu được tại hai trạm thuỷ văn với MRC, trong khi cũng bày tỏ quan tâm trong hợp tác với MRC để phát triển các mô hình thủy văn xuyên biên giới. III Những tác động của Biến đổi khí hậu đến dòng chảy 13. Biến đổi khí hậu cũng đặt ra một thách thức mới cho các nước ở hạ lưu sông Mekong. Khi những mô hình dự báo nhiệt độ nói chung tăng và dự báo về mưa ít chắc chắn. Tuy nhiên những hiện tượng thời tiết cực đoan, cả lũ lụt và hạn hán cũng trở nên thường xuyên hơn và ít dự đoán được.Lũ lụt và hạn hán gây ra nguy cơ nghèo đói cho cộng đồng, ví dụ ở những vùng đồng bằng ven biển, tác động chính tập trung vào sản xuất nông nghiệp do mực nước biển dâng và hậu quả của xâm nhập mặn.Việc dự báo khí hậu dài hạn là việc thiết yếu trong việc ra quyết định liên quan đến phát triển cơ sở hạ tầng, bao gồm cả thủy điện. MRC đã bắt đầu một phân tích khu vực về tác động của BĐKH đến thuỷ văn sông Mê Kông sử dụng phương pháp mô hình. Tuy nhiên dữ liệu hiện có và các hệ thống thu thập thông tin vẫn không đủ để nắm bắt sự phức tạp của lưu vực. Đồng thời, các nước ở LMB đã nhận ra cần phải nâng cấp hệ thống khí tượng thuỷ văn của mình để giải quyết các rủi ro gây ra bởi những hiện tượng thời tiết hiện tại và tương lai, chia sẻ thông tin giữa các nước ven sông, phát triển khu vực và cải thiện hệ thống quốc gia dự báo,cảnh báo lũ và hạn. 14. Những tác động tiềm tàng của các hoạt động thủy điện ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Đặc biệt chú ý đến các tác động thuỷ văn tiềm tàng của của bậc thang các đập thủy điện đang được xây dựng trên dòng chính ở Trung Quốc, trong đó, khi phát triển đầy đủ vào năm 2020, tổng dung tích hoạt động của các đập là 23 km3, tương đương với 30% khối lượng dòng chảy hàng năm đi vào LMB từ Vân Nam. Điều này có nghĩa rằng mức độ điều tiết (tỷ lệ của dòng chảy trung bình mùa lũ chuyển sang dòng chảy mùa kiệt) có thể cao tới 20%. Các hậu quả hạ lưu cho các chế độ dòng chảy thấp kiệt bị khuếch đại, vì một khối lượng không cân xứng của khu vực dòng chảy mùa khô được tạo ra ở Vân Nam. Theo hạ lưu xuông tới Kratie nó tạo nên tới 40 % của dòng chảy trong tháng 4. Ngược lại, trong mùa mưa tỷ lệ giảm đến 15%. Các ý nghĩa rõ ràng là có quy mô lớn sông quy định tại Vân Nam sẽ có một tác động đáng kể về chế độ dòng chảy thấp trên toàn hệ thống thấp hơn. Xây dựng mô hình thủy văn của các tác động của đập thủy điện ở tỉnh Vân Nam (15.800 MW) đã xác nhận một gia tăng đáng kể lưu lượng trung bình trong mùa thấp dòng chảy, trong khoảng 40 % ở trên tầng cao và khoảng 20 phần trăm như xa hạ lưu như Kratie. Sự giảm dòng chảy mùa lũ là tương ứng nay nhỏ hơn (khoảng 15 phần trăm ở trên tầng cao và ít hơn năm phần trăm tại Kratie (MRC 2009a). Những thay đổi thủy văn thay đổi thời gian của các dòng chảy bốn mùa, bao gồm cả thời gian của các dòng chảy ngược để Tonle Sap Great Lake, và ảnh hưởng đến khu vực bị ngập lụt cũng như mùa khu vực khô, đó là thông số quan trọng cho năng suất Biển Hồ, bao gồm sản xuất thuỷ sản. IV. Những thay đổi tiềm tàng do phát triển thượng lưu lên đồng bằng châu thổ Mekong 15. Trong thời gian 2008-2010, MRCS tiến hành hai nghiên cứu (một là một phần của kế hoạch phát triển lưu vực (BDP) và một chương trình như một phần của chương trình phát triển thủy điện tập trung vào sự phát triển của các đập trên dòng chính) để đánh giá những tác động tiềm năng phát triển thủy điện trong Mekong lưu vực về thủy văn, thủy sản, và sinh thái của sông Mekong, bao gồm cả những người trong dòng chính tại Trung Quốc. Các nghiên cứu kết luận rằng những phát triển thủy điện mặc dù có thể mang lại lợi ích đáng kể cho các quốc gia như một toàn thể có thể tạo ra tác động đáng kể và không thể đảo ngược trên các hệ sinh thái sông Mekong và dân địa phương. Ngoài ra còn có một số nghiên cứu liên quan đến tác động của biến đổi khí hậu ở lưu vực sông Mekong trong đó sẽ tiếp tục thêm vào sự phức tạp của hệ thống. Nghiên cứu đánh giá tác động BDP tiềm năng dựa trên sự thay đổi trong thủy văn, chất lượng nước, và các khía cạnh quan trọng khác bằng cách sử dụng một số kịch bản và một phím được một thời gian ngắn có mặt tại mục 3.1 và tác động của biến đổi khí hậu cũng đã được hợp nhất. Do một số bất ổn và tác động bất lợi tiềm năng trong số 12 đập trên dòng chính đề xuất, Đánh giá môi trường chiến lược (SEA) nghiên cứu đề nghị cho sự chậm trễ trong việc đưa ra quyết định xây dựng các đập trên dòng chính trong 10 năm. Mặc dù tất cả những nỗ lực này, sự không chắc chắn về các mô hình dòng chảy trên sông Mekong sẽ rất cao. Dưới đây tóm tắt một số kết quả chính từ các nghiên cứu này chứng minh mức độ ảnh hưởng tiềm năng trên đồng bằng sông Cửu Long. The BDP/MRC study assessed the potential impacts of various scenarios and the most important one are summarized below (see description in table levow): Nghiên cứu của BDP,MRC đã đánh giá các tác động tiềm tàng của các kịch bản khác nhau và tác động quan trọng nhất được tóm tắt dưới đây ( xem mô tả trong bảng dưới đây): Baseline Scenario: Use 2009 data regarding the water uses (irrigation, hydropower, etc.). Kịch bản cơ bản : Sử dụng dữ liệu năm 2009liên quan đé sử dụng nước( thủy lợi, thủy điện…) Definite Scenario (2015 DFS): Represents the baseline plus all the hydropower projects that will be in operations starting year 2015 in the low Mekong basin (LMB). Kịch bản xác định( 2015 DFS): Thể hiện kịch bản cơ sở cộng với tất cả các dự án sẽ được vận hành năm bắt đầu 2015 ở hạ lưu sông Mê Kông(LMB) 20 Year Foreseeable Future Scenario (20Y FFS): Represent year 2030 scenario comprising the DFS plus additional development expected during the next 20 years. Kích bản tương lai nhìn thấy trước 20 năm (20 FFS): Thể hiện kịch bản năm 2030 bao gồm kich bạn DFS cộng với các phát triển thêm dự kiến trong 20 năm nữa 20 Year FFS and Mainstream dams (FFS+MSD): Represent the 20Y FFS plus 11mainstream dams (river-run-off) along the Mekong flowing through Lao PDR, Thailand, and Cambodia. 20 Năm FFS và các đập trên dòng chính (FFS + MSD): Thể hiện kích bản 20Y FFS cộng với 11 đập trên dòng chính (dòng chảy tràn sông) dọc theo sông Mê Kông qua Lào Thái Lan, và Campuchia Mekong delta flood management scenario: Represent a number of specific flood management schemes on either side of Cambodia-Vietnam border and does not involve irrigation, hydropower, and water supply demand upstream. Kịch bản quản lý lũ đồng bằng sông Mê Kông : Thể hiện một số lượng cụ thể các kế hoạch quản lý lũ cụ thể ở hai bên biên giới Việt Nam- Campuchia Kịch bản  Loại hình phát triển    Thủy lợi  Tưới  Nhu cầu nước   Kịch bản xác định(2015)  6 đập của Trung Quốc 40 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong  4 triệu ha  2,938 triệu m3   20Y FFS (2030)  6 đập của Trung Quốc 70 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong  6 triệu ha  4,581 triệu m3   20Y FFS với 11 đập trên dòng chính  6 đập của Trung Quốc 70 đập ở các nhánh thuộc hạ lưu sông Mekong 11 đập ở dòng chính của hạ lưu sông Mekong  6 triệu ha  4,581 triệu m3   Kịch bản quản lý lũ đồng bằng sông Cửu Long  * Campuchia: tập trung vào các vùng lũ trên phía Tây Basacc + đồng bằng lũ giữa Basacc và Cửu Long, và vùng lũ trên bờ trái của sông Cửu Long và phía nam của NR # 1. * Việt Nam: tập trung vào Tứ giác Long Xuyên (LXQ), giữa Bassac và phía bắc sông Mekong của Vàm Nao, và Đồng Tháp Mười, phía bắc của kênh Nguyễn Văn Tiếp.   17. Kết quả đánh giá chỉ