Trong năm 2006 vừa qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước chuyển mình ấn tượng, thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển thành công của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chào bán cổ phần ra công chúng là hình thức huy động vốn hiệu quả, là nguồn cung loại hàng hóa cơ bản nhất cho thị trường chứng khoán và là cầu nối giữa doanh nghiệp cổ phần và nhà đầu tư.
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo ra cơ chế điều chỉnh tương đối đồng bộ về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu cực của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng trong thời gian vừa qua cho thấy pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn nhiều bất cập.
Từ thực tiễn nói trên, khóa luận tiến hành nghiên cứu pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam hiện nay, phân tích và đánh giá thực trạng để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng.
Kết cấu của khoá luận bao gồm ba phần: Lời nói đầu, Kết luận và Phần nội dung gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Chương II: Thực trạng pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng.
58 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1500 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Những vấn đề về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Trong năm 2006 vừa qua, thị trường chứng khoán Việt Nam đã có những bước chuyển mình ấn tượng, thu hút sự quan tâm của mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước. Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển thành công của thị trường chứng khoán Việt Nam. Chào bán cổ phần ra công chúng là hình thức huy động vốn hiệu quả, là nguồn cung loại hàng hóa cơ bản nhất cho thị trường chứng khoán và là cầu nối giữa doanh nghiệp cổ phần và nhà đầu tư.
Luật chứng khoán 2006 ra đời đã tạo ra cơ chế điều chỉnh tương đối đồng bộ về hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, một số hiện tượng tiêu cực của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng trong thời gian vừa qua cho thấy pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng còn nhiều bất cập.
Từ thực tiễn nói trên, khóa luận tiến hành nghiên cứu pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam hiện nay, phân tích và đánh giá thực trạng để từ đó đưa ra một số kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng.
Kết cấu của khoá luận bao gồm ba phần: Lời nói đầu, Kết luận và Phần nội dung gồm ba chương:
Chương I: Những vấn đề chung về pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng
Chương II: Thực trạng pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng ở Việt Nam
Chương III: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật chào bán cổ phần ra công chúng.
Pháp luật về chào bán cổ phần ra công chúng - thực trạng và giải pháp hoàn thiện
CHƯƠNG I
NhỮng vẤn ĐỀ CHUNG VỀ PHÁP LUẬT CHÀO BÁN
CỔ PHẦN RA CÔNG CHÚNG
1. Khái niệm về cổ phần và chào bán cổ phần ra công chúng
1.1. Khái niệm và phân loại cổ phần
1.1.1. Khái niệm
So sánh với các loại hình doanh nghiệp đang tồn tại trong nền kinh tế thị trường, công ty cổ phần có nhiều ưu điểm nổi trội. Một trong những lợi thế đặc biệt của công ty cổ phần là khả năng chào bán cổ phần để thu hút vốn đầu tư.
Theo pháp luật hiện hành của Việt Nam, công ty cổ phần là doanh nghiệp có vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần (Điểm a Khoản 1 Điều 77 Luật doanh nghiệp 2005). Như vậy, mỗi cổ phần là một phần của vốn điều lệ công ty và người sở hữu cổ phần là người sở hữu một phần công ty, được gọi là cổ đông, nắm giữ cổ phiếu của công ty đó.
Luật doanh nghiệp 2005 định nghĩa “Cổ phiếu là chứng chỉ do công ty cổ phần phát hành hoặc bút toán ghi sổ xác nhận quyền sở hữu một hoặc một số cổ phần của công ty đó”(Khoản 1 Điều 85). Theo Luật chứng khoán 2006: “Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn của tổ chức phát hành” (Khoản 2 Điều 6 Luật chứng khoán 2006). Như vậy, cổ phiếu là chứng thư xác nhận sự góp vốn và và quyền lợi hợp pháp của một chủ thể đối với một công ty cổ phần đã phát hành ra cổ phiếu. Khi nói một người sở hữu cổ phiếu của một công ty tương đương với người đó sở hữu cổ phần của chính công ty đó.
Từ những khái niệm trên đây, có thể thấy, cổ phiếu có những đặc trưng cơ bản như sau:
Thứ nhất, cổ phiếu có tính thanh khoản cao, nghĩa là khả năng chuyển đổi thành tiền mặt dễ dàng. Nhà đầu tư bỏ tiền ra mua cổ phiếu của một công ty, sau đó dễ dàng bán đi để thu lại tiền đã đầu tư. Tuy nhiên tính thanh khoản của cổ phiếu phụ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, kết quả kinh doanh của công ty cổ phần đã phát hành cổ phiếu (còn gọi là tổ chức phát hành). Nếu tổ chức phát hành có kết quả kinh doanh tốt, thu được lợi nhuận cao, trả cổ tức cao sẽ thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà đầu tư, khiến cổ phiếu của công ty có thể dễ dàng được mua bán trao đổi. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến tình trạng thua lỗ, nợ nần thì các nhà đầu tư không dám mạo hiểm bỏ vốn mua cổ phần của công ty, dẫn đến cổ phiếu của công ty đó có tính thanh khoản thấp.
Hai là, quan hệ cung cầu trên thị trường cổ phiếu và thị trường chứng khoán.Thị trường cổ phiếu cũng như các thị trường mua bán các loại hàng hóa khác đều chịu sự điều chỉnh của các quy luật thị trường đặc biệt là quy luật cung cầu. Giá của cổ phiếu trên thị trường không chỉ phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của bản thân tổ chức phát hành mà còn phụ thuộc vào nhu cầu của nhà đầu tư. Điều này đặc biệt dễ nhận thấy khi thị trường chứng khoán gặp biến động mạnh, các nhà đầu tư theo tâm lý chung sợ mất tiền nên ồ ạt bán ra cổ phiếu. Cổ phiếu tràn ngập thị trường tạo nên nguồn cung quá lớn trong khi số lượng nhà đầu tư muốn mua vào quá ít, tính thanh khoản của cổ phiếu lúc này hạ xuống còn rất thấp. Ngược lại khi thị trường cổ phiếu khan hiếm hàng hóa, nhu cầu của các nhà đầu tư rất lớn thì ngay cả những cổ phiếu có chất lượng thấp cũng dễ dàng bán được với giá cao.
Thứ hai, Cổ phiếu có tính lưu thông. Tính lưu thông là khả năng chuyển giao quyền sở hữu cổ phiếu cho người khác như một tài sản thực sự. Nếu như tính thanh khoản giúp chủ sở hữu cổ phiếu chuyển đổi cổ phiếu thành tiền mặt thì tính lưu thông đem lại cho người sở hữu nhiều khả năng sử dụng hơn như cho, tặng, để thừa kế hay cầm cố tại ngân hàng để bảo đảm thực hiên nghĩa vụ tài sản khác.
Thứ ba, Cổ phiếu có tính tư bản giả, có nghĩa là cổ phiếu là một loại giấy tờ có giá trị như tiền. Tuy nhiên, bản thân cổ phiếu không có giá trị nếu nó không được đảm bảo bằng tiền. Mệnh giá của cổ phiếu cũng không phản ánh đúng giá trị thực của cổ phiếu và người ta định giá cổ phiếu dựa trên nhiều phương pháp khác nhau.
Thứ tư, Cổ phiếu có tính rủi ro: Là những đe dọa về an toàn vốn và thu nhập đối với nhà đầu tư. Thể hiện rõ nét của đặc điểm này là cổ phiếu có thể xuống giá bất thường và đột ngột do những biến cố của thị trường, đem lại sự thua lỗ nhanh chóng cho các nhà đầu tư. Nguyên nhân: Giá trị của cổ phiếu không nằm trong ý định chủ quan của tổ chức phát hành hay nhà đầu tư, cổ phiếu có giá trị phụ thuộc vào các yếu tố khách quan như tình hình tài chính của tổ chức phát hành, tình hình kinh tế xã hội nói chung và những yếu tố chính trị nhạy cảm. Vì vậy, một biến động chính trị lớn có thể làm chao đảo thị trường chứng khoán, cũng như sự sụp đổ của thị trường chứng khoán của một quốc gia có thể kéo theo sự khủng hoảng của thị trường chứng khoán nhiều nước khác, kéo theo giá của tất cả cả các cổ phiếu sụt giảm bất thường. Hơn nữa, hoạt động mua bán cổ phiếu phụ thuộc rất nhiều vào thông tin trên thị trường, chỉ một thông tin bất lợi cho tổ chức phát hành dù chưa được kiểm chứng cũng dễ dàng gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới khả năng thanh khoản, lưu thông của cổ phiếu.
1.1.2. Phân loại cổ phần
Cổ phần được chia thành hai nhóm là cổ phần ưu đãi và cổ phần phổ thông. Mỗi loại cổ phần khác nhau mang lại cho người sở hữu những quyền và lợi ích nhất định. Khả năng tự do chuyển chuyển nhượng cổ phần cũng tùy thuộc từng loại cổ phần.
Cổ phần phổ thông
Cổ phần phổ thông là loại cổ phần phổ biến nhất và bắt buộc phải có đối với công ty cổ phần. Tỷ lệ của giá trị vốn cổ phần phổ thông trên tổng giá trị vốn cổ phần của công ty do điều lệ công ty quyết định. Người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán của công ty trong tối thiểu ba năm kể từ ngày công ty được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của cổ đông phổ thông gồm: Tham gia Đại hội đồng cổ đông và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng. Cổ đông được chia cổ tức khi công ty làm ăn có lãi. Khi công ty giả thể phá sản, cổ đông chịu trách nhiệm trong phạm vi vốn cổ phần đã góp vào công ty.
Cổ phần phổ thông được quy định tại Khoản 1 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005: Công ty cổ phần phải có cổ phần phổ thông, người sở hữu cổ phần phổ thông là cổ đông phổ thông. Chi tiết quyền và nghĩa vụ của cổ đông phổ thông được Luật doanh nghiệp 2005 qui định tại Điều 79 và Điều 80. Luật doanh nghiệp 2005 cũng qui định quyền tự do chuyển nhượng của cổ phần phổ thông trừ trường hợp cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập ( Khoản 5 Điều 84 ).
Cổ phần ưu đãi
Cổ phần ưu đãi là loại cổ phần mang lại cho người sở hữu một số quyền ưu tiên so với cổ phiếu thường. Cổ phần ưu đãi được quy định tại Khoản 2 Điều 78 Luật doanh nghiệp 2005: “Công ty cổ phần có thể có cổ phần ưu đãi. Người sở hữu cổ phần ưu đãi gọi là cổ đông ưu đãi”.
Không phải mọi nhà đầu tư đều có quyền nắm giữ cổ phần ưu đãi. Tùy từng loại cổ phần ưu đãi mà luật và điều lệ công ty cổ phần có quy định khác nhau về điều kiện nắm giữ và chuyển nhượng cổ phần ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau đây:
Cổ phần ưu đãi biểu quyết: Cổ phần ưu đãi biểu quyết là cổ phần có số phiếu biếu quyết cao hơn số phiếu biểu quyết của cổ phần phổ thông. Số phiếu biểu quyết của cổ phần ưu đãi biểu quyết do điều lệ của công ty cổ phần quy định. Chỉ có cổ đông sáng lập và tổ chức do Chính phủ ủy quyền (đối với công ty nhà nước cổ phần hóa) mới được quyền nắm giữ cổ phiếu biếu quyết. Cổ phần ưu đãi biểu quyết của cổ đông sáng lập cũng chỉ có hiệu lực trong ba năm kể từ ngày cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, sau đó cổ phần biểu quyết của cổ đông sáng lập sẽ chuyển thành cổ phần phổ thông. Luật doanh nghiệp 2005 không có quy định về thời hạn hiệu lực của cổ phần ưu đãi biểu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ, vì vậy có thể coi cổ phần ưu đãi biếu quyết do tổ chức được Chính phủ ủy quyền nắm giữ có hiệu lực vô thời hạn. Mục đích của cổ phần ưu đãi biểu quyết là để bảo vệ quyền lợi cho cổ đông sáng lập trong thời gian hợp lý vừa đủ để duy trì sự ổn định của công ty mà không hạn chế quyền của các cổ đông khác; và duy trì quyền kiểm soát của Nhà nước đối với những công ty cổ phần hoạt động trong lĩnh vực ngành nghề quan trọng cần sự định hướng của Nhà nước.
Cổ phần ưu đãi cổ tức: Cổ phần ưu đãi cổ tức là cổ phần được trả cổ tức cao hơn mức trả cổ tức của cổ phần phổ thông hoặc mức ổn định hàng năm. Cổ tức được chia hàng năm gồm cổ tức cố định và cổ tức thưởng. Cổ tức cố định không phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của công ty và phương thức xác định cổ tức thưởng được ghi trên cổ phiếu của cổ phần ưu đãi cổ tức. Mục đích của cổ phần ưu đãi cổ tức là thu hút vốn điều lệ bằng tỷ lệ lợi nhuận cao trên mỗi cổ phần, tuy nhiên cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức không có quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, để cử người vào Ban kiểm soát. Điều kiện này để dung hòa quyền và nghĩa vụ của cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức bằng cách không cho họ tham gia vào hoạt động quản trị công ty.
Cổ phần ưu đãi hoàn lại: Là cổ phần được công ty hoàn lại vốn góp bất cứ khi nào theo yêu cầu của chủ sở hữu cổ phần hoặc theo các điều kiện ghi tại cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi hoàn lại có lợi thế về bảo toàn vốn nhưng cũng như cổ đông nắm giữ cổ phần ưu đãi cổ tức họ không có quyền can thiệp vào các quyết định của công ty.
Cổ phần ưu đãi khác do công ty quy định: Ngoài các loại cổ phần ưu đãi nói trên, công ty cổ phần có thể tự mình đưa ra thêm những loại cổ phần ưu đãi khác để thu hút nhà đầu tư. Một số loại cổ phiếu ưu đãi trên thế giới mà các công ty có thể đưa ra để thu hút nhà đầu tư là cổ phiếu lũy tiến và cổ phiếu có thể thu hồi, theo đó cổ đông của cổ phiếu lũy tiến có quyền yêu cầu tích lũy cổ tức sang những năm tiếp theo, đối với cổ phiếu có thể thu hồi, tổ chức phát hành đưa vào giá phát hành thêm số tiền bồi thường để có thể thu hồi lại cổ phiếu được khi công ty này muốn thay thế cổ phiếu ưu tiên đã phát hành bằng cổ phiếu có lợi tức thấp hơn.
1.2. Chào bán cổ phần ra công chúng
1.2.1. Định nghĩa chào bán cổ phần ra công chúng
Trước đây, Nghị định 144/2003/NĐ-CP định nghĩa phát hành chứng khoán ra công chúng là việc chào bán một lượng chứng khoán có thể chuyển nhượng được thông qua tổ chức trung gian cho ít nhất 50 nhà đầu tư ngoài tổ chức phát hành (Khoản 7 Điều 3 Nghị định 144/2003/NĐ-CP)
Hiện nay, Luật chứng khoán 2006 đã có sự thay đổi về định nghĩa của chào bán chứng khoán ra công chúng: Chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:
+ Thông qua phương tiện thông tin đại chúng kể cả internet;
+ Chào bán chứng khoán cho từ một trăm nhà đầu tư trở lên không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp;
+ Chào bán cho số lượng nhà đầu tư không xác định.
Như vậy, có thể hiểu một cách khái quát, chào bán cổ phần ra công chúng là hình thức huy động vốn bằng cách bán cổ phần rộng rãi cho công chúng đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư cá nhân. Một công ty đại chúng (công ty có cổ phần được chào bán ra công chúng) chỉ thực sự là đại chúng khi tỷ lệ cổ phần do nhà đầu tư cá nhân chiếm số lượng đáng kể trong tổng số cổ phần được chào bán của công ty.
1.2.2. Đặc điểm của hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng
Hoạt động chào bán cổ phần ra công chúng chỉ diễn ra trên thị trường sơ cấp.
Hoạt động chào bán cổ phần là hoạt động duy nhất có thể thiết lập được mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư, giúp nhà đầu tư có cơ hội góp vốn vào công ty cổ phần: Các loại hình công ty khác ngoài công ty cổ phần như công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh, nhà đầu tư muốn trở thành chủ sở hữu công ty bắt buộc phải tham gia vào hoạt động thành lập công ty đó. Hình thức công ty cổ phần có nhiều ưu điểm do nhà đầu tư chỉ cần có một lượng vốn nhất định là có thể tham gia sở hữu cổ phiếu của công ty, qua đó sở hữu một phần công ty. Công ty cổ phần muốn tăng vốn điều lệ bằng cách bán cổ phần của mình cho các nhà đầu tư bắt buộc phải thông qua hoạt động chào bán cổ phiếu. Trong tất cả các hoạt động của thị trường cổ phiếu chỉ có hoạt động chào bán cổ phiếu là thiết lập mối quan hệ giữa tổ chức phát hành và nhà đầu tư. Khi chào bán cổ phiếu của mình tổ chức phát hành công bố những thông tin về tình hình tài chính, lĩnh vực hoạt động sản xuất kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh, bộ máy quản trị công ty. Nhà đầu tư phân tích những thông tin do tổ chức phát hành cung cấp và quyết định đầu tư vào cổ phiếu và trở thành cổ đông của công ty.
Trong quá trình chào bán cổ phần ra công chúng, tổ chức phát hành và nhà đầu tư không trực tiếp liên hệ với nhau mà bắt buộc phải qua trung gian là công ty chứng khoán thực hiện tổ chức đấu giá cổ phần hoặc công ty chứng khoán thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành cho doanh nghiệp. Tổ chức phát hành không được phép tự mình bán cổ phiếu cho nhà đầu tư mà buộc phải tuân theo một quy trình nghiêm ngặt để đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư.
1.2.3. Hình thức chào bán cổ phần ra công chúng
Theo quy định tại điều 11 Luật chứng khoán 2006, hình thức chào bán cổ phần ra công chúng gồm chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng và chào bán thêm cổ phần ra công chúng.
+ Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng:
Chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng gồm chào bán cổ phiếu để huy động vốn điều lệ, thành lập mới công ty cổ phần và chào bán để chuyển đổi cơ cấu sở hữu thành công ty đại chúng mà không làm thay đổi vốn điều lệ của công ty.
Công ty cổ phần mới thành lập có thể thực hiện ngay từ đầu hình thức chào bán cổ phần ra công chúng để thu hút vốn điều lệ và trở thành công ty đại chúng nhưng cũng có thể thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ hoặc chỉ dừng lại ở phạm vi vốn trong cổ đông sáng lập.
+ Chào bán thêm cổ phần ra công chúng:
Công ty đại chúng có kết quả hoạt động kinh doanh tốt muốn tăng vốn điều lệ, mở rộng qui mô có thể chào bán thêm cổ phần ra công chúng. Trình tự chào bán cổ phần thêm ra công chúng cũng giống như chào bán cổ phần lần đầu. Tổ chức phát hành phải chứng minh được năng lực tài chính và năng lực quản trị của mình trong hồ sơ chào bán cổ phiếu gửi lên Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, sau đó tiến hành hoạt động chào bán như chào bán cổ phần lần đầu. Đặc điểm khác biệt của chào bán thêm cổ phần ra công chúng là tổ chức phát hành phải dành quyền ưu tiên cho cổ đông của công ty để đảm bảo quyền lợi của họ không thay đổi khi công ty thay đổi quy mô vốn điều lệ. Quyền ưu tiên được thể hiện bằng quyền mua cổ phần do tổ chức phát hành cung cấp cho các cổ đông, theo đó cổ đông được mua thêm một số lượng cổ phiếu mới theo giá nhất định trong một thời hạn nhất định để đảm bảo tỷ lệ sở hữu đối với phần vốn điều lệ của công ty. Cổ đông có thể sử dụng quyền ưu tiên của mình hoặc chuyển nhượng cho người khác. Giá đăng ký mua cổ phiếu và thời hạn đăng ký mua cổ phiếu trong quyền mua cổ phần do tổ chức phát hành quy định. Giá đăng ký mua cổ phiếu luôn thấp hơn giá thị trường của cổ phiếu và thời hạn đăng ký ngắn chỉ từ một đến sáu tuần.
Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi cũng có quyền ưu tiên mua như cổ đông phổ thông. Tổ chức phát hành có thể phát hành cho cổ đông ưu đãi chứng quyền hoặc bảo chứng phiếu. Bảo chứng phiếu cũng quy định số lượng cổ phiếu phổ thông được quyền mua nhưng có thời hạn dài hơn chứng quyền, hoặc thời hạn vĩnh viễn.
Công ty đại chúng chào bán thêm cổ phần ra công chúng để thay đổi cơ cấu sở hữu mà không làm tăng thêm vốn điều lệ: Đây là trường hợp công ty đại chúng đã thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng nhưng chưa bán hết số lượng cổ phiếu được phép phát hành. Tổ chức phát hành thực hiện đợt chào bán thêm cổ phiếu chưa phát hành ra công chúng. Do công ty cổ phần chưa phát hành hết cổ phần của mình ra công chúng nên khi thực hiện chào bán thêm cổ phiếu công ty không phát hành kèm theo chứng quyền cho cổ đông của công ty.
1.2.4. Ý nghĩa của chào bán cổ phần ra công chúng
Cũng như hoạt động chào bán cổ phần nói chung, chào bán cổ phần ra công chúng là hoạt động thu hút đầu tư, tạo lập vốn điều lệ ban đầu hoặc tăng qui mô vốn điều lệ để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. So với các phương pháp huy động vốn đầu tư khác như vay vốn từ tổ chức tín dụng hoặc phát hành trái phiếu công ty, huy động vốn bằng chào bán cổ phần ra công chúng có nhiều ưu điểm:
Thứ nhất, khoản thu được từ chào bán cổ phiếu không cấu thành một khoản nợ mà công ty có trách nhiệm hoàn trả, làm giảm áp lực về khả năng cân đối thanh khoản của công ty.
Thứ hai, khả năng thu được lượng vốn lớn từ xã hội do không hạn chế số lượng nhà đầu tư, đặc biệt là nhà đầu tư cá nhân. Công ty cổ phần thực hiện chào bán cổ phần riêng lẻ bị hạn chế số lượng cổ đông và thông thường chỉ bán cổ phần cho những nhà đầu tư có mối quan hệ mật thiết với tổ chức phát hành. Nếu thực hiện chào bán cổ phần ra công chúng tổ chức phát hành chỉ cần cung cấp thông tin về tình hình hoạt động của doanh nghiệp, khả năng tài chính và năng lực bộ máy quản trị theo quy định của pháp luật, những nhà đầu tư có nhu cầu sẽ tìm hiểu và quyết định mua cổ phiếu. Thông tin về tổ chức phát hành được công bố rộng rãi là cơ hội để mọi nhà đầu tư, đặc biệt là những nhà đầu tư cá nhân có cơ hội góp vốn vào công ty. Số lượng nhà đầu tư không bị hạn chế tạo cho tổ chức phát hành cơ hội huy động được nguồn vốn dư thừa dồi dào trong công chúng. Đây là ưu điểm nổi bật của hình thức chào bán ra công chúng.
Thứ ba, các loại cổ phiếu đuợc chào bán rộng rãi ra công chúng mới thực sự là cổ phiếu có tính thanh khoản cao. Nhà đầu tư sở hữu cổ phiếu được chào bán ra công chúng có toàn quyền tự do chuyển nhượng cổ phiếu của mình (trừ trường hợp cổ phiếu ưu đãi biểu quyết hoặc cổ phiếu phổ thông của của cổ đông sáng lập khi chuyển nhượng phải tuân theo một số yêu cầu của pháp luật). Công ty cổ phần chào bán riêng lẻ luôn bị giới hạn số lượng cổ đông duới một trăm nhà đầu tư trừ nhà đầu tư chuyên nghiệp. Chính vì vậy, khi một cổ đông muốn chuyển nhượng một phần cổ phần của mình họ không thể tự do chuyển nhượng cho bất kỳ ai, mà phải đảm bảo sau khi chuyển nhượng công ty cổ phần vẫn giữ đuợc số lượng cổ đông duới một trăm (trừ cổ đông là nhà đầu tư chuyên nghiệp). Ngoài ra, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp cho cổ phiếu được niêm yết và giao dịch trên thị trường tập trung khiến cho hoạt động mua bán cổ phiếu dễ dàng và thuận tiện.
Thứ tư, chào bán cổ phiếu ra công chúng giúp tổ chức phát hành quảng bá được tên tuổi, thương hiệu của mình. Để được cấp giấy chứng nhận chào bán cổ phần ra công chúng, công ty cổ phần phải thỏa mãn đuợc những điều kiện khắt khe về công bố thông tin, chế độ kiểm toán của các cơ quan quản lý nhà nước về chứng k