Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội. Tên gọi kinh tế chính trị xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hy Lạp với nghĩa là "Thiết chế xã hội". Danh từ khoa học "kinh tế chính trị" được đưa ra vào năm 1615. Từ khi ra đời đến nay môn khoa học kinh tế chính trị đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Qua từng giai đoạn các nhà kinh tế học nổi tiếng trên khắp thế giới đã đề cập đến rất nhiều vấn đề thuộc phạm trù kinh tế. Đi sâu tìm hiểu, phân tích, giải thích để nhằm tìm ra được lời giải thích đúng đắn nhất về các vấn đề thuộc phạm trù kinh tế. Trong quá trình phát triển đã có những nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu chủ nghĩa trọng thương cho rằng, đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại thương. Chủ nghĩa trọng riêng thì cho rằng đối tượng là lĩnh vực sản xuất nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp. Còn chủ nghĩa Mác thì quan niệm: kinh tế chính trị thực chất là môn khoa học có tính lịch sử. Nó nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay đổi, nó nghiên cứu những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản xuất và trao đổi. C. Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất từ bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi. V.I.Lênin cũng xác định: kinh tế chính trị tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự sản xuất " mà nghiên cứu như quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất. Trong tất cả các vấn đề thuộc phạm trù kinh tế chính trị đã được các nhà kinh tế học đưa ra có một vấn đề rất quan trọng mà các nhà kinh tế học đưa ra là vấn đề hàng hoá, giá trị của hàng hoá, năng suất lao động cường độ lao động. Vậy, mối quan hệ giữa lượng giá trị của hàng hoá với năng suất lao động và cường độ lao động như thế nào? Ý nghĩa của mối quan hệ này ra sao? Việc nghiên cứu này đã vận dụng vào thực tiễn đến đâu và như thế nào? Vậy, chúng ta sẽ cùng xem xét, tìm hiểu để trả lời cho những câu hỏi trên một cách đúng đắn nhất theo quan điểm của các nhà kinh tế học đã đưa ra.
10 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1114 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phạm trù hàng hoá, mối quan hệ giữa lượng giá trị của hàng hoá ,năng suất lao động và cường độ lao động, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu
Kinh tế chính trị là một môn khoa học xã hội. Tên gọi kinh tế chính trị xuất hiện do kết hợp các từ có nguồn gốc Hy Lạp với nghĩa là "Thiết chế xã hội". Danh từ khoa học "kinh tế chính trị" được đưa ra vào năm 1615. Từ khi ra đời đến nay môn khoa học kinh tế chính trị đã trải qua nhiều giai đoạn phát triển. Qua từng giai đoạn các nhà kinh tế học nổi tiếng trên khắp thế giới đã đề cập đến rất nhiều vấn đề thuộc phạm trù kinh tế. Đi sâu tìm hiểu, phân tích, giải thích để nhằm tìm ra được lời giải thích đúng đắn nhất về các vấn đề thuộc phạm trù kinh tế. Trong quá trình phát triển đã có những nhận thức khác nhau về đối tượng nghiên cứu chủ nghĩa trọng thương cho rằng, đối tượng nghiên cứu là lĩnh vực lưu thông mà chủ yếu là ngoại thương. Chủ nghĩa trọng riêng thì cho rằng đối tượng là lĩnh vực sản xuất nhưng lại chỉ giới hạn ở sản xuất nông nghiệp. Còn chủ nghĩa Mác thì quan niệm: kinh tế chính trị thực chất là môn khoa học có tính lịch sử. Nó nghiên cứu tư liệu có tính chất lịch sử, nghĩa là một tư liệu luôn luôn thay đổi, nó nghiên cứu những quy luật đặc thù của từng giai đoạn phát triển của sản xuất và trao đổi. C. Mác đã xác định đối tượng nghiên cứu là phương thức sản xuất từ bản chủ nghĩa và những quan hệ sản xuất và trao đổi. V.I.Lênin cũng xác định: kinh tế chính trị tuyệt nhiên không nghiên cứu "sự sản xuất " mà nghiên cứu như quan hệ xã hội giữa người với người trong sản xuất, nghiên cứu chế độ xã hội của sản xuất. Trong tất cả các vấn đề thuộc phạm trù kinh tế chính trị đã được các nhà kinh tế học đưa ra có một vấn đề rất quan trọng mà các nhà kinh tế học đưa ra là vấn đề hàng hoá, giá trị của hàng hoá, năng suất lao động cường độ lao động. Vậy, mối quan hệ giữa lượng giá trị của hàng hoá với năng suất lao động và cường độ lao động như thế nào? ý nghĩa của mối quan hệ này ra sao? Việc nghiên cứu này đã vận dụng vào thực tiễn đến đâu và như thế nào? Vậy, chúng ta sẽ cùng xem xét, tìm hiểu để trả lời cho những câu hỏi trên một cách đúng đắn nhất theo quan điểm của các nhà kinh tế học đã đưa ra.
Nội dung
Đầu tiên sẽ đề cập đến vấn đề hàng hoá. Vậy, hàng hoá là gì? Hàng hoá là sản phẩm của lao động có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người và dùng để trao đổi với nhau. Sản xuất hàng hoá ra đời là bước ngoặt căn bản trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, đưa loài người thoát khỏi tình trạng "mông muội" xoá bỏ nền kinh tế tự nhiên, phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội. Sản xuất hàng hoá chỉ ra đời khi có đủ 2 điều kiện: Phân công lao động xã hội và sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất. Hàng hoá đều có hai thuộc tính, đó là: giá trị sử dụng và giá trị hàng hoá. Giá trị sử dụng là công dụng của sản phẩm có thể thoả mãn nhu cầu nào đó của con người. Ví dụ: nước để sinh hoạt, cơm để ăn, xe để đi, máy móc, nguyên vật liệu để sản xuất... Vật phẩm nào cũng có một số công dụng nhất định. Khoa học kỹ thuật càng phát triển người ta càng phát hiện thêm những công dụng có giá trị sử dụng của sản phẩm. Giá trị sản xuất là phạm trù vĩnh viễn. Giá trị sử dụng với tư cách là thuộc tính của hàng hoá, nó không phải giá trị sử dụng cho bản thân người sản xuất hàng hoá, mà là giá trị sử dụng cho người khác, cho xã hội thông qua trao đổi - mua bán. Giá trị sử dụng là vật mang giá trị trao đổi. Còn giá trị hàng hoá, muốn hiểu được giá trị hàng hoá phải đi từ giá trị sử dụng này trao đổi với giá trị sử dụng khác. Khi hai sản phẩm khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có một cơ sở chung nào đó. Đó là chúng đều là sản phẩm của lao động. Để sản xuất ra hàng hoá thì người sản xuất phải hao phí sức lao động. Vậy giá trị là lao động xã hội của người sản xuất hàng hoá kết tinh trong hàng hoá. Vậy thì lao động hàng hoá là gì? lao động hàng hoá có tính hai mặt, chính C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính hai mặt này đó là: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Lao động cụ thể là lao động có ích dưới một hình thức cụ thể có những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích riêng, đối tượng riêng, phương pháp riêng, phương tiện và kết quả riêng. Mỗi loại lao động cụ thể tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định lao động cụ thể càng nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau. Các lao động cụ thể hợp thành hệ thống phân công lao động xã hội. Còn lao động trừu tượng là lao động có người sản xuất hàng hoá, nếu coi là sự hao phí sức lực nói chung của con người, không kể đến hình thức cụ thể của nó như thế nào, thì gọi là lao động trừu tượng. Lao động trừu tượng chính là lao động hao phí đồng chất của con người.
Giữa lượng giá trị của hàng hoá và năng suất lao động, cường độ lao động có một mối quan hệ mật thiết ràng buộc lẫn nhau. Lượng giá trị là do lượng lao động hao phí để sản xuất ra hàng hoá đó quyết định. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động, một tháng lao động .... Do đó lượng giá trị của hàng hoá cũng do thời gian quyết định. Trong thực tế, một loại hàng hoá đưa ra thị trường là do rất nhiều người sản xuất ra, nhưng mỗi người sản xuất do điều kiện sản xuất, trình độ tay nghề là không giống nhau, nên thời gian lao động cá biệt để sản xuất ra hàng hoá khác nhau. Thời gian lao động cá biệt quyết định lượng giá trị cá biệt hàng hoá của từng người sản xuất. Nhưng lương giá trị xã hội của hàng hoá không phải được tính bằng lượng thời gian lao động cá biệt mà bằng thời gian lao động xã hội cần thiết. Thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong điều kiện bình thường của xã hội, tức là với trình độ kỹ thuật trung bình và cường độ lao động trung bình so với hoàn cảnh xã hội nhất định. Thông thường thời gian lao động xã hội cần thiết trùng hợp với thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận loại hàng hoá nào đó trên thị trường.
Thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra từng loại hàng hoá khác nhau là khác nhau. Ví dụ: Thời gian lao động xã hội cần thiết sản xuất một cái thước kẻ ít hơn thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra một cái áo... Do thời gian lao động xã hội cần thiết luôn thay đổi, nên lượng giá trị của hàng hoá cũng là một đại lượng luôn thay đổi, không cố định. Sự thay đổi phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nhưng trong đó hai yếu tố năng suất lao động và mức độ phức tạp hay giản đơn của lao động là hai nhân tố ảnh hưởng quyết định nhất đến sự thay đổi của lượng giá trị hàng hoá.
Năng suất lao động là năng lực sản xuất của người lao động nó được tính bằng số lượng sản phẩm sản xuất ra trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Đo lượng lao động bằng thước đo thời gian như: một giờ lao động, một ngày lao động, một tuần lao động, một tháng lao động .... Thời gian cần thiết để sản xuất ra một loại sản phẩm phụ thuộc rất nhiều vào sản phẩm đó. Thông thường loại hàng hoá càng có nhiều giá trị sử dụng càng cần nhiều lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra đó. Năng suất lao động xã hội càng tăng, thời gian sản xuất ra hàng hoá đó cần thiết càng giảm, lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng ít và ngược lại, năng suất lao động xã hội càng giảm, thì thời gian cần thiết để sản xuất ra hàng hoá đó càng tăng và lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm càng nhiều. Bởi vì ta đã biết, chất của giá trị là lao động. Sản phẩm nào không có lao động của người sản xuất chứa đựng trong đó thì nó không có giá trị sản phẩm nào lao động hao phí để sản xuất ra chúng càng nhiều thì giá trị càng cao. Khi con người trao đổi hàng hoá cho nhau những người sản xuất ngầm so sánh lao động ẩn giấu trong hàng hoá với nhau. Thực chất của việc trao đổi là người ta trao đổi lượng lao động hao phí của mình chứa đựng trong các hàng hoá. Vì vậy, giá trị là biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá. Giá trị là một thuộc tính xã hội của hàng hoá.
Lượng giá trị của một đơn vị hàng hoá tỷ lệ thuận với số lượng lao động kết tinh và tỷ lệ nghịch với năng suất lao động. Trong thực tế, đối với người sản xuất hàng hoá họ tạo ra giá trị sử dụng, nhưng mục đích của họ không phải là giá trị sử dụng mà là giá trị, họ quan tâm đến giá trị sử dụng là để đạt được mục đích giá trị mà thôi. Ngược lại, đối với người mua, cái mà họ quan tâm là giá trị sử dụng để thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của mình. Nhưng, muốn có giá trị sử dụng thì phải trả giá trị cho người sản xuất ra nó. Lượng giá trị hàng hoá luôn luôn tỷ lệ nghịch với năng xuất lao động. Như vậy, muốn giảm giá trị của mỗi đơn vị hàng hoá xuống, thì phải tăng năng xuất lao động. Nhưng, năng xuất lao động lại phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố: Trình độ khéo léo của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của sản xuất, hiệu quả cuả tư liệu sản xuất, các điều kiện tự nhiên. Mỗi lao động cụ thể là tạo ra một loại giá trị sử dụng nhất định. Mỗi người lao động lại có năng xuất khác nhau. Có thể có lao động với năng xuất lao động rất cao, xong cũng có những lao động với năng xuất lao động rất thấp. Vì vậy, lao động cụ thể càng nhiều thì càng tạo ra nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau và năng xuất lao động cũng khác nhau. Trong nền kinh tế hàng hoá, sản xuất cái gì và sản xuất như thế nào là việc riêng của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập,lao động của họ vì vậy có tính chất tư nhân. Điều này cũng là một nhân tố tác động đến năng xuất của mỗi người trong hoạt động sản xuất. Mỗi người sinh ra là một hình dáng, tính cách.... và sự sáng tạo của bộ óc rất khác nhau. Có người từ khi mới sinh ra đã có bản chất của một bộ óc thông minh, nhưng cũng có người lại rất kém thông minh. Với sự sẵn có đó của mỗi người cộng với sự ham học hỏi tiếp thu các tiến bộ khoa học, trình độ ứng dụng tiến bộ kỹ thuật... cũng tạo ra được những năng suất lao động khác nhau trong xã hội.
Năng suất lao động và cường độ lao động tác động khác nhau đối với lượng giá trị hàng hoá. Cường độ lao động là mức độ khẩn trương căng thẳng của lao động. Khi cường độ lao động tăng thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian tăng và lượng sản phẩm được tạo ra tăng tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm không đổi. Tăng cường độ lao động cũng giống như tăng thời gian lao động. Ngươc lại, khi cường độ lao động giảm thì lượng lao động hao phí trong cùng một đơn vị thời gian giảm và lượng sản phẩm được tao ra giảm tương ứng còn lượng giá trị của một đơn vị sản phẩm cũng không đổi. Giảm thời gian lao động cũng giống giảm cường độ lao động. Trong xã hội nào cũng vậy, cũng có những người lao động với cường độ lao động rất nhanh và cũng có những người lao động lao động với cường độ lao động rất chậm. Xong cũng có những hàng hoá cần phải lao động với cường độ khá chậm và tỉ mỉ thì mới đảm bảo được lượng giá trị của hàng hoá đó. Ví dụ như: cường độ sản xuất của những máy móc hiện đại, máy bay, các thiết bị điện tử. Cũng có những hàng hoá mà với cường độ lao động rất nhanh nhưng vẫn bảo đảm được lượng giá trị cần thiết của hàng hoá. Như vậy, với mỗi loại hàng hoá khác nhau thì cái cường độ lao động để cho ra đời sản phẩm đó cũng khác nhau. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng tới cường độ lao động của mỗi lao động: trình độ khéo bó của người lao động, sự phát triển của khoa học kỹ thuật và trình độ ứng dụng khoa học kỹ thuật, sự kết hợp xã hội của người sản xuất, hiệu quả của tư liệu sản xuất, cái điều kiện tự nhiên. Ví dụ như cường độ lao động để xây dựng một ngôi nhà vào những ngày không mưa rõ ràng sẽ nhanh hơn cường độ xây dựng ngôi nhà vào những ngày mưa gió. Tuỳ thuộc những lao động khác nhau mà cường độ lao động sẽ khác nhau.
Lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng lượng thời gian lao động xã hội cần thiết, lao động giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà sự hao phí lao động một cách đơn giản mà bất kỳ một người bình thường nào có khả năng lao động cũng có thể thực hiện được, như: lao động để sản xuất ra sản phẩm là đũa. Còn lao động phức tạo là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện, chẳng hạn, các kỹ sư xây dựng, công nhân kỹ thuật... Trong cùng một đơn vị thời gian lao động như nhau, lao động phức tạp tạo ra được nhiều giá trị hơn sơ với lao động giản đơn. Bởi vì, lao động phức tạp phải qua thời gian đào tạo, huấn luyện. Thời gian đào tạo, huấn luyện càng dài thì trình độ lao động càng được nâng cao và ngược lại. Bởi vậy, rõ ràng để xã hội ngày càng phát triển thì càng cần nhiều hơn số lượng lao động phức tạp. Xã hội ngày hiện đại thì các trường, trung tâm đào tạo, huấn luyện lao động phức tạp cần phải càng tốt hơn để đào tạo ra những lao động phức tạp có tay nghề và trình độ cao hơn. Lao động phức tạp là lao động giản đơn được nhân gấp bội lên. Để cho hàng hoá do lao động giản đơn tạo ra có thể quan hệ bình đẳng với các hàng hoá do lao động phức tạp tạo ra, trong quá trình trao đổi người ta quy mọi lao động phức tạp thành lao động giản đơn trung bình. Như vậy, lượng giá trị của hàng hoá được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản đơn trung bình.
Để sản xuất ra hàng hoá cần phải chi phí lao động bao gồm lao động quá khứ tồn tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất như máy móc, công cụ, nguyên vật liệu và lao động sống. Vì vậy, lượng giá trị của hàng hoá được cấu thành bởi cả giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hoá, tức là giá trị của (ký hiệu là c ) và hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá, tức là giá trị mới (ký hiệu là v + m). Như vậy, giá trị hàng hoá = giá trị cũ hiện tại + giá trị mới. Ký hiệu là W. Theo các ký hiệu trên, ta có: W = c + v + m.ư
Như vậy, để tìm hiểu được đầy đủ lượng giá trị của hàng hoá thì phải bao gồm cả giá trị của tư liệu sản xuất ra hàng hoá đó và lao động sống để sử dụng tư liệu sản xuất ra hàng hoá đó. Giá trị lượng hàng hoá càng cao nếu cái lượng giá trị của tư liệu sản xuất ra hàng hoá đó càng cao và cộng với trình độ kỹ thuật được đào tạo, huấn luyện cửa lao động càng cao và hiện đại.
Bao giờ cũng vậy, khi nghiên cứu tìm hiểu một phạm trù vật chất nào đó, các quy luật dù là các quy luật tự nhiên hay quy luật xã hội. Khi tìm hiểu được một cách đúng đắn về các quy luật đó thì mỗi sự tìm hiểu đó đều mang lại một ý nghĩa thực tiễn nhất định. Với trong phạm trù hàng hoá này cũng vậy. Với việc tìm hiểu, nghiên cứu được một cách đúng đắn về mối quan hệ giữa lượng giá trị của hàng hoá và năng suất lao động và cường độ lao động đã có một ý nghĩa quan trọng không chỉ với mỗi người lao động mà cả với mọi nền sản xuất của mọi thời đại. Việc nghiên cứu này giúp cho lao động có thể thấy được rằng việc quyết định đến lượng giá trị hàng hoá là do tác động của năng suất lao động rất nhiều. Mà năng suất lao động thì lại phục thuộc vào rất nhiều các nhân tố, trong đó các nhân tố khoa học kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ kỹ thuật là rất quan trọng. Qua đây, người lao động thấy được rằng xã hội ngày càng phát triển thì mình cần phải học hỏi để nâng cao trình độ của mình. Muốn theo kịp thời đại thì việc học tập các trình độ khoa học tiên tiến là hết sức quan trọng. Do vậy, năng suất lao động sẽ ngày càng tăng và điều đó cũng là một động lực để thúc đẩy xã hội phát triển. Vấn đề nghiên cứu này không chỉ chho người lao động nhận thức được rằng cuộc sống muốn ngày càng tốt hơn thì phải luôn học hỏi nâng cao trình độ. Mà qua đây, các nhà quản lý, các nhà doanh nghiệp còn thấy được rằng mình muốn quản lý tốt, muốn đầu tư phát triển một cách có hiệu quả thì việc thu hút các nhân tài, những người có trình độ tay nghề cao là không thể thiếu. Họ luôn là người năng động trong vấn đề này, họ có thể dùng mọi cách tốt nhất để lôi kéo, để có được những người có trình độ khoa học kỹ thuật và tay nghề cao. Điều đó sẽ ảnh hưởng rất lớn đến sản phẩm, giá trị của những hàng hoá mà họ sản xuất ra. Chất lượng, giá trị sản phẩm là một điều kiện quan trọng để sản phẩm của các nhà sản xuất cạnh tranh trên thị trường. Điều này cũng là một yếu tố tác động đến kết quả đầu tư của các nhà đầu tư. Mỗi quốc gia mỗi dân tộc khi hiểu được đúng đắn về các mối quan hệ này là rất quan trọng. Chính phủ của mỗi nước luôn muốn cho đất nước mình ngày càng phát triển. Vì vậy, chính phủ đã có chiến lược phát triển, bồi dưỡng và nâng cao trình độ khoa học kỹ thuật cho các nhân lực trong nước. Không những chỉ khuyến khích để thu hút các nhân tài trong nước phục vụ cho đất nước mà còn thu hút các nhân tài, nhà đầu tư nước ngoài. Hạn chế tối đa việc chảy máu chất xám. Từ khi đổi mới chính phủ Việt Nam đã thu được những kết quả đáng kể trong các lĩnh vực giáo dục, kinh tế .... Nước ta là một quốc gia còn nghèo, kém phát triển, xong do sự nhìn nhận đúng đắn nên nền giáo dục và các lao động có trình độ khoa học kỹ thuật càng không thua kém gì lắm đối với nhiều nước phát triển. Để cho trình độ hiểu biết của mọi người dân đều tiến bộ, Đảng đã có rất nhiều chính sách đầu tư cho giáo dục, chi ngân sách đầu tư rất lớn về giáo dục cho những vùng khó khăn, vùng sâu, vùng xa, vùng hải đảo, các vùng dân tộc ít người mà sự tiếp thu trình độ khoa học hiện đại còn kém. Điều đó đã giúp cho trình độ của người dân ngày càng tăng điều đó sẽ dễ dàng hơn cho những người lao động khi tiếp thu trình độ khoa học sau này. Trong nền kinh tế mở cửa nước ta hiện nay, mọi người được tự do kinh doanh, tự do sản xuất vì vậy, đã tạo ra được rất nhiều giá trị hàng hoá khác nhau giúp cho người lao động có thể tự thấy được việc nâng cao tay nghề trình độ khoa học kỹ thuật của mình là quan tọng và người lao động có thể tự học tập nâng cao sự hiểu biết của mình về lĩnh vực sản xuất sản phẩm nào mà mình đã lựa chọn. Các nhà kinh tế học trước và sau này là C. Mác, Ăngghen, V.I. Lênin đã để lại cho nhân loại những lý thuyết học, những công trình nghiên cứu vĩ đại, giúp cho nhân loại từ đó mà thấy được và có sự nhìn nhận đúng đắn về tự nhiên và xã hội. Để xã hội ngày càng tiến bộ hơn về mọi lĩnh vực thì việc áp dụng vào thực tiễn những công trình nghiên cứu đúng đắn đã có là không thể thiếu được.
Lời kết
Qua việc nghiên cứu “Phạm trù hàng hoá, mối quan hệ giữa lượng giá trị của hàng hoá ,năng suất lao động và cường độ lao động” nó đã mang lại cho mỗi người, cho xã hội, cho chính phủ, cho thế giới những ý nghĩa quan trọng. Để xã hội ngày càng phát triển thì việc phát triển kinh tế là một nhân tố quan trọng. Mà muốn kinh tế phát triển thì hiểu được đúng đắn các quy luật kinh tế trong tự nhiên, trong xã hội là không thể thiếu được. Với sự áp dụng khá đúng đắn các nghiên cứu vào thực tiễn Đảng và Nhà nước ta đã đưa nền kinh tế nước nhà ngày càng vươn cao và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Khi nghiên cứu phạm trù này, chúng ta đang là những người sinh viên thế hệ trẻ của đất nước có sức khoẻ có kiến thức, chúng ta phải làm gì để nước nhà càng phát triển ? Đó là một câu hỏi lớn, nhưng câu trả lời lại nằm trong mỗi tiềm thức của thế hệ trẻ chúng ta. Có một danh nhân nào đó đã từng có lơòi khuyên " trẻ không học thì già phải hối hận", đó là một sự đúc kết rất đúng đắn qua kinh nghiệm sống. Vâng, thế hệ trẻ của chúng ta ngay bây giờ hãy có gắng thật nhiều, đang ngồi trên ghề nhà trường điều quan trọng lúc này là học tập và học tập. Luôn tìm hiểu khám phá không chỉ những kiến thức trong nhà trường mà những kinh nghiệm va chạm cuộc sống xã hội cũng rất quan trọng. Đặc biệt chúng em là những sinh viên của khoa Quản trị kinh doanh học bộ môn kinh tế chính trị, hiểu được các quy luật kinh tế là một điều quan trọng cho công việc sau này. Tất cả chúng ta, ai cũng muốn sống trong một xã hội tiến bộ. Vậy chúng ta hãy cố gắng thật nhiều để vì một xã hội Việt Nam ngày càng phát triển hơn, văn minh hơn, tươi đẹp hơn. Việt Nam rồi sẽ trở thành con rồng Châu á, trở thành cường quốc kinh tế lớn trên thế giới. Chúng ta hãy tin rằng điều đó sẽ trở thành sự thật trong một tương lai gần. Điều đó sẽ xảy ra nhanh hay chậm thì phụ thuộc rất nhiều vào thế hệ trẻ chúng ta hãy tin vào chính bản thân chúng ta để vì một xã hội Việt Nam tiến bộ.