Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt, trong đó quan trọng là củng cố và hoàn thiện hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra những tiền đề cũng như đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới QLNN, đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền làm chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng như chính quyền địa phương. Tăng cường phân cấp quản lý giữa Trung ương và các Bộ, ngành, các địa phương là một nội dung quan trọng của chương trình cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước ở nước ta.
Việc phân cấp QLNN giữa Trung ương và các Bộ, ngành, địa phương tuy đã được tiến hành đồng bộ trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30 tháng 06 năm 2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp QLNN giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cần "tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên các lĩnh vực chủ yếu nhất là: Quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức".
Ngành Giao thông vận tải nói chung và lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tại văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và IX đã xác định rõ ưu tiên đầu tư phát triển ngành Giao thông vận tải đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, trong đó giao thông đường bộ là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Trước năm 1990, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nguồn vốn đầu tư XDCB lĩnh vực giao thông đường bộ duy nhất chỉ có nguồn vốn từ NSNN, mọi quyết định cách thức huy động vốn để chi trả cho đầu tư XDCB đều tập trung thống nhất vào Trung ương. Sau năm 1990, cơ chế quản lý kinh tế của đất nước đã có sự thay đổi căn bản so với trước đó, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy, các nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế đã được khai thông đáng kể. Nguồn vốn được huy động cho đầu tư XDCB lĩnh vực giao thông đường bộ đã phong phú hơn, nếu trong giai đoạn 1986-1990 chỉ có nguônv vốn duy nhất NSNN cung cấp cho đường bộ thì đến nay đã có thêm nguồn vốn ODA, nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước, nguồn vốn huy động thông qua hình thức đầu tư BOT, BT. Điều này cũng tạo ra những áp lực, thách thức ngày càng lớn đối với cơ quan Trung ương về việc làm sao để quản lý một cách hiệu quả các nguồn vốn này.
Muốn vậy, trước mắt cần phải hoàn thiện các thể chế chính sách một cách phù hợp, trong đó việc phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư là một đòi hỏi, thách thức lớn đối với ngành giao thông vận tải, nhất là trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Với lý do trên, đề tài "Phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ: Thực trạng và giải pháp" được chọn để nghiên cứu.
89 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1419 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
Sau 20 năm đổi mới, nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể về mọi mặt, trong đó quan trọng là củng cố và hoàn thiện hoạt động của bộ máy nhà nước, đảm bảo quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật.
Xu thế mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ đã tạo ra những tiền đề cũng như đặt ra những yêu cầu, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới QLNN, đẩy mạnh phân cấp quản lý giữa Trung ương và địa phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, quyền làm chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn đồng thời nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN của Chính phủ, các Bộ, ngành cũng như chính quyền địa phương. Tăng cường phân cấp quản lý giữa Trung ương và các Bộ, ngành, các địa phương là một nội dung quan trọng của chương trình cải cách tổ chức và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước ở nước ta.
Việc phân cấp QLNN giữa Trung ương và các Bộ, ngành, địa phương tuy đã được tiến hành đồng bộ trên mọi lĩnh vực. Tuy nhiên, theo Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30 tháng 06 năm 2004 của Chính phủ về tiếp tục đẩy mạnh phân cấp QLNN giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, cần "tập trung vào phân cấp nhiệm vụ, thẩm quyền, trách nhiệm giữa Chính phủ và chính quyền tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trên các lĩnh vực chủ yếu nhất là: Quản lý quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển; ngân sách nhà nước; đất đai, tài nguyên; doanh nghiệp nhà nước; hoạt động sự nghiệp, dịch vụ công; tổ chức bộ máy, cán bộ, công chức".
Ngành Giao thông vận tải nói chung và lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng là một bộ phận quan trọng trong kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tại văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX, Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII và IX đã xác định rõ ưu tiên đầu tư phát triển ngành Giao thông vận tải đi trước một bước với tốc độ nhanh, bền vững tạo tiền đề cho phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước, trong đó giao thông đường bộ là lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Trước năm 1990, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, nguồn vốn đầu tư XDCB lĩnh vực giao thông đường bộ duy nhất chỉ có nguồn vốn từ NSNN, mọi quyết định cách thức huy động vốn để chi trả cho đầu tư XDCB đều tập trung thống nhất vào Trung ương. Sau năm 1990, cơ chế quản lý kinh tế của đất nước đã có sự thay đổi căn bản so với trước đó, chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Chính vì vậy, các nguồn vốn đầu tư trong nền kinh tế đã được khai thông đáng kể. Nguồn vốn được huy động cho đầu tư XDCB lĩnh vực giao thông đường bộ đã phong phú hơn, nếu trong giai đoạn 1986-1990 chỉ có nguônv vốn duy nhất NSNN cung cấp cho đường bộ thì đến nay đã có thêm nguồn vốn ODA, nguồn vốn tín dụng trong và ngoài nước, nguồn vốn huy động thông qua hình thức đầu tư BOT, BT. Điều này cũng tạo ra những áp lực, thách thức ngày càng lớn đối với cơ quan Trung ương về việc làm sao để quản lý một cách hiệu quả các nguồn vốn này.
Muốn vậy, trước mắt cần phải hoàn thiện các thể chế chính sách một cách phù hợp, trong đó việc phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư là một đòi hỏi, thách thức lớn đối với ngành giao thông vận tải, nhất là trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Với lý do trên, đề tài "Phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ: Thực trạng và giải pháp" được chọn để nghiên cứu.
Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận về phân cấp quản lý trong đầu tư nói chung và trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng.
- Tổng kết, đánh giá về thực trạng phân cấp quản lý đầu tư trong lĩnh vực giao thông đường bộ trong thời gian qua, phân tích trên cơ sở khoa học và thực tiễn để nghiên cứu một cách hệ thống những vấn đề còn tồn tại, những mặt đạt được trong việc phân cấp quản lý đầu tư lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất các giải pháp về thể chế, chính sách, cơ chế quản lý, thủ tục hành chính trong phân cấp quản lý đầu tư lĩnh vực giao thông đường bộ, đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu, nhiệm vụ cụ thể phát triển ngành giao thông đường bộ cũng như phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam.
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn tốt nghiệp nghiên cứu những vấn đề về lý luận và thực tiễn về phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ.
- Phạm vi nghiên cứu:
Phân cấp quản lý kinh tế nói chung và phân cấp quản lý đầu tư trong lĩnh vực giao thông đường bộ nói riêng là những nội dung quan trọng cấu thành chức năng quản lý Nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân. Vấn đề này luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặt ra trong suốt quá trình phát triển nền kinh tế của đất nước. Và đây là một vấn đề phức tạp có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều quy định và phải xử lý đa dạng các mối quan hệ kinh tế và quan hệ hành chính cần được điều chỉnh một cách thống nhất. Ngay cả phân cấp trong đầu tư lĩnh vực giao thông đường bộ cũng là một vấn đề lớn cần đầu tư nghiên cứu liên tục trong một thời gian dài. Vì vậy trong phạm vi một luận văn tốt nghiệp, việc nghiên cứu không thể dàn trải đi sâu vào mọi khía cạnh và đối với mọi cấp mà chỉ tập trung vào những vấn đề chung về phân cấp trong đầu tư lĩnh vực giao thông đường bộ giữa chính quyền Trung ương với chính quyền cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và đi sâu nghiên cứu, phân tích phân cấp quản lý đầu tư theo từng nguồn vốn và theo quy trình đầu tư.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư.
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm tăng cường phân cấp quản lý nhà nước trong đầu tư xây dựng cơ bản lĩnh vực giao thông đường bộ.
Để hoàn thành được đề tài này, em đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các thầy cô trong khoa Kế hoạch và phát triển cũng như các cô chú ở Vụ Kết cấu hạ tầng và Đô thị - Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn T.S. Nguyễn Ngọc Sơn và cán bộ hướng dẫn Nguyễn Việt Hồng - chuyên viên Vụ Kết cấu Hạ tầng và đô thị - Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ KINH TẾ
1. Khái niệm quản lý nhà nước về kinh tế
Quản lý nhà nước đối với nền kinh tế quốc dân (QLNN về kinh tế) là sự tác động có tổ chức và bằng pháp quyền của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, các cơ hội có thể có, để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế đất nước đặt ra, trong điều kiện hội nhập và mở rộng giao lưu quốc tế. Quản lý kinh tế là nội dung cốt lõi của quản lý xã hội nói chung và nó phải gắn chặt với các hoạt động quản lý khác của xã hội. QLNN về kinh tế được thể hiện thông qua các chức năng kinh tế và quản lý kinh tế của Nhà nước.
Từ định nghĩa nêu trên có thể rút ra được thực chất của QLNN về kinh tế là việc tổ chức và sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực trong nước và ngoài nước mà Nhà nước có thể tác động vì mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước.
2. Một số khái niệm về phân cấp trong quản lý kinh tế
Phân cấp QLNN, theo nghĩa rộng nhất là hình thức chuyển giao quyền hạn và trách nhiệm trong việc thực thi nhiệm vụ công từ cấp Trung ương xuống các cơ quan địa phương hoặc giao các nhiệm vụ này cho khu vực tư nhân thực hiện nhằm đạt mục tiêu chung một cách hiệu quả nhất. Ngày nay khái niệm phân cấp được sử dụng cho nhiều hoàn cảnh nhiều hiện tượng khác nhau trong xã hội bao gồm các hình thức phân cấp sau:
Sơ đồ 1: Các hình thức phân cấp
Phân cấp
Phân cấp kinh tế (phân cấp thị trường)
Phân cấp tài khoá
Phân cấp hành chính
Phân quyền
Tản quyền
Uỷ quyền
Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư
▪ Phân cấp hành chính
Phân cấp hành chính là việc phân chia quyền hạn để thực hiện các nhiệm vụ công tới các cơ quan nhà nước ở các cấp. Như vậy, thông qua quá trình phân cấp hành chính, công tác kế hoạch, quy hoạch, quản lý điều hành và một phần tài trợ cho cơ sở hạ tầng và cung cấp các dịch vụ công sẽ được chuyển giao từ cấp Trung ương xuống các cơ quan hành chính địa phương. Phân cấp hành chính được chia thành 3 nhóm:
- Tản quyền: là hình thức phân chia quyền quyết định và trách nhiệm cho các đơn vị đại diện chính quyền Trung ương ở các vùng. Hình thức này là hình thức thấp nhất trong các hình thức phân cấp hành chính bởi việc chuyển giao này chỉ diễn ra trong nội bộ cấp Trung ương.
- Ủy quyền: là hình thức phân cấp hành chính và chính quyền Trung ương chuyển giao quyền quyết định và trách nhiệm điều hành cho cơ quan địa phương song chính quyền Trung ương vẫn chịu trách nhiệm về các quyết định này.
- Phân quyền: là hình thức cao nhất trong phân cấp hành chính. Với hình thức này, toàn bộ quyền hàn trong việc ra quyết định, tài trợ và quản lý được quyền Trung ương giao cho các cơ quan độc lập của chính quyền địa phương.
Tản quyền, uỷ quyền và phân quyền là ba dạng của phân cấp , trong đó tản quyền là hình thức thấp nhất trong các hình thức phân cấp bởi việc phân chia quyền quyết định và trách nhiệm chỉ diễn ra trong nội bộ cấp Trung ương. Tản quyền là có sự hiện diện của Trung ương tại địa phương thông qua các chi nhánh của các văn phòng Trung ương đặt tại địa phương. Các cơ quan đóng tại địa phương vẫn nằm trong phạm vi quản lý của bộ máy Trung ương, đại diện Trưng ương tại địa phương thay mặt cơ quan Trung ương ra quyết định quản lý tại địa phương. Vì vậy, việc chuyển giao quyền của Trung ương xuống cấp dưới chỉ có thể được giao cho người đại diện của cơ quan Trung ương tại địa phương.
Còn uỷ quyền là hình thức phân cấp trong đó chính quyền Trung ương chuyển giao quyền quyết định và trách nhiệm điều hành cho cơ quan địa phương. Những công việc nào mà cấp dưới có thể làm được thì cấp trên sẽ uỷ quyền xuống cho chính quyền địa phương thông qua các quy định rõ ràng, cụ thể trong các văn bản pháp quy, song cấp trên vẫn chịu trách nhiệm về các quyết định này. Đối với hình thức uỷ quyền thì chính quyền địa phương với vai trò đại diện chứ không phải là chi nhánh của chính quyền Trung ương, vai trò đại diện sẽ hiệu quả hơn bởi chính quyền địa phương có thể phản ánh tốt hơn hoàn cảnh thực tế của địa phương mình.
Phân cấp là dạng hoàn thiện nhất của việc chuyển giao quyền lực. Mục đích của hoạt động này là nhằm phát huy tính năng động sáng tạo, quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cấp chính quyền trên cơ sở phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của từng cấp, bảo đảm sự quản lý tập trung, thống nhất thông suốt của Chính phủ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương hành chính để nâng cao hiệu lực, hiệu quả QLNN, phục vụ tốt hơn nhu cầu và lợi ích của nhân dân, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước.
Giữa tản quyền, uỷ quyền và phân quyền tuy có sự khác biệt nhưng chúng cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xét về thực chất tản quyền là phương pháp quản lý của cơ quan Trung ương áp xuống địa phương hay cũng có cách hiểu cho rằng đó là sự phân quyền quan liêu trong bộ máy hành chính nhà nước. Đại diện của cơ quan Trung ương tại địa phương luôn phải tuân thủ các chỉ thị, mệnh lệnh của Chính phủ và các Bộ trưởng, vì vậy hoạt động của họ ít sáng tạo. Uỷ quyền là phương pháp quản lý trong đó chính quyền Trung ương nắm giữ mọi quyền hành và quyết định mọi công việc, tất cả các cấp đều lệ thuộc vào Trung ương và do Trung ương quyết định. Trong phân quyền về nguyên tắc có thể làm tăng tính hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước cả cơ quan Trung ương và cơ quan địa phương, nhờ tạo cho người dân có khả năng tiếp cận với những người lãnh đạo của họ. Chính quyền địa phương không cần nghe bất cứ mệnh lệnh của ai ngoài dân cư sống trên địa bàn lãnh thổ đối với những vấn đề được phân quyền theo quy định pháp luật. Tuy có những điểm khác biệt cơ bản giữa ba hình thức của phân cấp nhưng chúng cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Xu hướng chung hiện nay ở các nước là kết hợp giữa ba hình thức này tức là càng phân quyền cho địa phương càng phải tản quyền mạnh nghĩa là giao thêm quyền hạn nhiệm vụ cho đại diện của Trung ương tại địa phương để có thể kiểm tra, giám sát có hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương.
▪ Phân cấp tài khoá
Phân cấp tài khoá là cấu phần trọng tâm của mọi biện pháp phân cấp. Mỗi đơn vị phân cấp chỉ có thể độc lập thực hiện các nhiệm vụ được phân cấp khi họ có được các nguồn tài chính cần thiết và khi họ có quyền đưa ra các quyết định chi tiêu cho việc thực hiện các nhiệm vụ được giao.
▪ Phân cấp kinh tế
Phân cấp quản lý luôn được hiểu là phân cấp quản lý nhà nước cho các cấp chính quyền. Chính vì vậy, tiền đề cho việc phân cấp là phải xác định một cách hợp lí nhiệm vụ của Nhà nước trong quản lý và điều hành nền kinh tế. Vấn đề này liên hệ gắn bó với khái niệm phân cấp kinh tế.
Khái niệm này được sử dụng khi nhà nước chuyển giao một số chức năng từ khu vực công sang khu vực tư nhân, như vậy một số nhiệm vụ sẽ không được các cơ quan nhà nước thực hiện mà sẽ chuyển giao cho khu vực kinh tế tư nhân, hợp tác xã, các hiệp hội, và các tổ chức phi chính phủ thực hiện. Hình thức này được phân thành 2 nhóm, trong đó : (1) ''tư nhân hoá'': chuyển giao việc cung ưng một số sản phẩm và dịch vụ từ nhà nước sang chủ thể tư nhân và (2) '' giải quy chế" : giảm các rào cản hành chính, tạo điều kiện cho các chủ thể tư nhân tham gia vào thị trường.
Trong thực tiễn, 3 hình thức phân cấp trên thường có phần giao thoa với nhau, bổ sung cho nhau và do vậy thường xuyên xuất hiện hình thức phân cấp hỗn hợp giữa các hình thức này.
Phân cấp không có nghĩa là chính quyền Trung ương từ bỏ nhiệm vụ ở một lĩnh vực nào đó. Phân cấp là một biện pháp để tổng thể bộ máy nhà nước có điều kiện hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của mình. Phân cấp không làm vai trò của các cơ quan Trung ương giảm đi. Phân cấp giải phóng trách nhiệm thực hiện một số nhiệm vụ nào đó, vì thế họ có thể tập trung thêm nguồn lực vào việc xây dựng các điều kiện khung khổ và giám sát các hoạt động của các cơ quan địa phương.
II. TỔNG QUAN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC TRONG ĐẦU TƯ XÂY DỰNG CƠ BẢN
1. Sơ lược về cấu trúc bộ máy Nhà nước
Trên thế giới, thường có hai mô hình tổ chức nhà nước là: nhà nước liên bang và nhà nước thống nhất (còn gọi là nhà nước phi liên bang). Ở nhà nước liên bang, chính quyền được tổ chức thành 3 cấp: Trung ương (liên bang), bang và địa phương, địa phương phải chịu sự giám sát của 2 cấp: cấp liên bang và cấp bang. Trong khi đó, ở các nhà nước thống nhất, chính quyền chỉ được tổ chức 2 cấp: cấp Trung ương và cấp địa phương. Cấp địa phương bao gồm cả thành thị lẫn nông thôn, thực hiện các chức năng hành chính được phân cấp. Thông thường ở các nước có cấu trúc Nhà nước liên bang quyền lực nhà nước được phân chia triệt để, chế độ tự quản địa phương thường được phát huy một cách đầy đủ và mạnh mẽ.
Đối với Việt Nam, là một quốc gia thống nhất, dựa trên nguyên tắc phân chia hành chính lãnh thổ theo các cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc Trung ương), huyện (và tương đương), xã ( và tương đương). Các đơn vị hành chính lãnh thổ từ tỉnh xuống xã là những cấu trúc lệ thuộc theo nguyên tắc cấp dưới phục tùng cấp trên, địa phương phục tùng Trung ương. Chủ quyền quốc gia là duy nhất mà đại diện là các thiết chế quyền lực ở cấp Trung ương, còn các cấu trúc lãnh thổ ở địa phương không bao hàm ý nghĩa có tính chủ quyền, không có khái niệm Nhà nước địa phương. Do vậy hệ thống hành chính 4 cấp được cơ cấu như sau:
Sơ đồ 2: Cơ cấu tổ chức nhà nước
Chính phủ
Bộ và cơ quan Chính phủ
UBND Tỉnh
Các Sở chuyên môn
UBND Quận
Các phòng ban chuyên môn
UBND Phường
Các cơ quan chuyên môn
: Lãnh đạo trực tuyến
: Chỉ đạo chuyên môn
Nguồn: Tạp chí quản lý nhà nước
Bộ máy hành chính nhà nước đứng đầu là Chính phủ, các bộ, cơ quan ngang bộ và cơ quan thuộc Chính phủ đến các cơ quan chính quyền các cấp ở địa phương được thiết chế thành một hệ thống mang tính thứ bậc chặt chẽ, nhằm thống nhất quản lý việc thực hiện những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội…trên phạm vi cả nước. Tuy nhiên, mỗi cấp, mỗi cơ quan trong hệ thống đó có những nhiệm vụ cụ thể khác nhau, xuất phát từ vị trí, tính chất, phạm vi hoạt động, và những đặc điểm riêng của các đối tượng quản lý. Trong bộ máy hành chính nhà nước, Chính phủ có chức năng thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và chính sách đối ngoại của Nhà nước.
Bộ, cơ quan ngang bộ là cơ cấu tổ chức của Chính phủ thực hiện chức năng QLNN đối với ngành, lĩnh vực trong phạm vi cả nước; quản lý các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực; thực hiện đại diện chủ sở hữu phần vốn của Nhà nước tại các doanh nghiệp có vốn của Nhà nước.
Cơ quan chính quyền địa phương gồm HĐND và UBND với các cơ quan chuyên môn là các cơ quan nhà nước ở địa phương. Trong đó, HĐND là cơ quan quyết định, còn UBND là cơ quan QLNN đối với các vấn đề kinh tế, xã hội ở địa phương, đồng thời đảm bảo việc thực hiện thống nhất trên địa bàn lãnh thổ Hiến pháp, luật, các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên.
Chính sự khác nhau trên đây đòi hỏi việc phân cấp QLNN, một mặt đảm bảo sự tập trung, thống nhất vào trung ương, mặt khác đảm bảo phát huy tính tích cực, chủ động của các ngành, các cấp thuộc cơ quan địa phương trong việc thực hiện nhiệm vụ QLNN đối với các hoạt động kinh tế, xã hội. Điều này phù hợp với nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
2. Các cơ chế, mô hình phân cấp quản lý nhà nước về đầu tư
Dù là nhà nước liên bang hay phi liên bang thì việc quản lý của chính quyền địa phương, Nhà nước nào cũng phải tiến hành, không có bất cứ Chính phủ nào chỉ thực hiện quyền lực Nhà nước của mình ở một chỗ, nơi đóng trụ sở của các cơ quan Trung ương. Việc quản lý của chính quyền địa phương là tất yếu khách quan. Sự quản lý này được thi hành bằng các tổ chức khác nhau. Sự phức tạp và đa dạng trong quản lý chính quyền địa phương được tạo nên từ các đặc điểm về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, phong tục tập quán, tôn giáo, dân tộc, lợi thế so sánh, sự đa dạng và phức tạp trong quản lý giữa đô thị và nông thôn. Xu hướng của các nước phi tập trung hoá theo hướng phân chia rõ các chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn quản lý kinh tế xã hội cho chính quyền địa phương. Nhưng nhìn tổng thể thì vẫn tồn tại 2 cơ chế: tập quyền và phân quyền như sau:
Tập quyền có nghĩa là nền hành chính tập trung cao, không phân cấp, hoặc phân cấp rất ít, trong đó chính quyền Trung ương nắm giữ mọi quyền hành và quyết định mọi công việc, tất cả các chính quyền hành chính và nhân viên hành chính các cấp đều lệ thuộc vào Trung ương và do Trung ương quyết định. Cơ chế này có khả năng tập trung cao độ mọi phương tiện để thực hiện các chương trình bảo vệ đất nước trong thời kì chiến tranh bảo đảm sự thống nhất tuyệt đối quốc gia. Nhưng với xu hướng dân chủ hoá xã hội, cơ chế này làm chậm trễ việc giải quyết các vấn đề của địa phương, ít chú ý đến nhu cầu đặc điểm của các địa phương và hạn chế quyền tham gia của nhân dân địa phương vào các công việc tự quản và hành chính địa phương.
Phân quyền là một nền hành chính phi tập trung, có tính tự quản nhiều hơn. Theo mô hình này, quyền lực Nhà nước được phân cấp rõ ràng và trong phạm vi được phân cấp, các cấp chính quyền địa phương chủ động giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội của địa phương theo quy định của pháp luật. Địa phương có ngân sách và tài chính riêng. Những người sống định cư trong lãnh thổ địa phương trực tiếp bầu ra những cơ quan hoặc những n