Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia đều có vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và các tổ chức nhà nước. Nhưng nhìn chung họ đều đóng vai trò là biểu tượng cho dân tộc. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992 riêng Hiến pháp 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức Hội đồng Nhà nước – là chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất của các thiết chế này là khác nhau theo từng giai đoạn phát triển và cách thức tổ chức Nhà nước. Đã có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc tổ chức Nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em xin giải quyết đề tài “Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành”.
10 trang |
Chia sẻ: lamvu291 | Lượt xem: 1538 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU
Chế định nguyên thủ quốc gia là một chế định quan trọng trong thể chế chính trị. Ở mỗi nước nguyên thủ quốc gia đều có vị trí, chức năng khác nhau tùy thuộc vào thể chế chính trị và các tổ chức nhà nước. Nhưng nhìn chung họ đều đóng vai trò là biểu tượng cho dân tộc. Ở nước ta, nguyên thủ quốc gia tồn tại dưới hình thức Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946, 1959, 1992 riêng Hiến pháp 1980 Chủ tịch nước tồn tại dưới hình thức Hội đồng Nhà nước – là chế định nguyên thủ quốc gia tập thể. Vị trí, tính chất của các thiết chế này là khác nhau theo từng giai đoạn phát triển và cách thức tổ chức Nhà nước. Đã có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc tổ chức Nhà nước nói chung và chế định nguyên thủ quốc gia nói riêng. Và để hiểu rõ hơn về vấn đề này, nhóm em xin giải quyết đề tài “Phân tích chế định Chủ tịch nước theo pháp luật hiện hành”.
NỘI DUNG
I. Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1992 và Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung theo Nghị quyết số 51/2001/QH10.
Trong cơ chế Nhà nước ta, thiết chế nguyên thủ quốc gia được tổ chức khác nhau điều này được thể hiện rõ qua các bản Hiến pháp. Ở Hiến pháp 1946 và 1959, là thiết chế Chủ tịch nước. Đến Hiến pháp 1980 là thiết chế Hội đồng Nhà nước, do thiết chế Hội đồng Nhà nước ngày càng bộc lộ rõ những hạn chế của mình trong quá trình hoạt động nên đến kì họp thứ 11 của Quốc hội khóa VIII đã thông qua Hiến pháp 1992 thay thế cho Hiến pháp 1980. Và ở Hiến pháp 1992 lại quay về với thiết chế Chủ tịch nước. Mô hình này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước của Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, vừa giữ được sự gắn bó giữa Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia trong thiết chế Hội đồng Nhà nước. Đồng thời cũng có thêm những điểm mới.
1. Vị trí, tính chất và trật tự hình thành.
Về vị trí, tính chất, “Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại” (Điều 101 Hiến pháp 1992). Như vậy, cũng như trong Hiến pháp 1959 và 1980, Chủ tịch nước chỉ đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia – người đứng đầu Nhà nước, thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại, nhưng không đứng đầu Chính phủ như chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1946. Về trật tự hình thành, “Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số đại biểu Quốc hội. Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cao công tác trước Quốc hội. Nhiệm kì của Chủ tịch nước theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Khi Quốc hội hết nhiệm kỳ, Chủ tịch nước tiếp tục làm nhiệm vụ cho đến khi Quốc hội khóa mới bầu Chủ tịch nước mới” (Điều 102 Hiến pháp 1992).
2. Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước được Hiến pháp quy định ở Điều 103 (có 12 vấn đề) và ở một số điều khoản khác có liên quan (như Điều 135, Điều 139). Có thể chia nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước thành 2 nhóm:
* Nhóm các nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến chức năng đại diện, thay mặt nước về đối nội và đối ngoại.
Đây là quyền hạn của hầu hết các nguyên thủ quốc gia ở nước ta. Cụ thể gồm:
+ Chủ tịch nước “Cử, triệu hồi đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam; tiếp nhận đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài; tiến hành đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đứng đầu Nhà nước khác; quyết định phê chuẩn hoặc tham gia điều ước Quốc tế, trừ trường hợp cần trình Quốc hội quyết định” (Điểm 10 Điều 103 Hiến pháp 1992). Chủ tịch nước trực tiếp đàm phán, ký kết hoặc ủy quyền cho trưởng đoàn đàm phán ký kết. Chủ tịch nước phê chuẩn các điều ước thuộc quyền quyết định của mình về điều ước Quốc tế có điều khoản quy định việc phê chuẩn. Việc xin phê chuẩn điều ước Quốc tế do cơ quan đề xuất việc ký kết phối hợp với Bộ Ngoại giao đề nghị Chính phủ trình Chủ tịch nước, Chủ tịch nước xét và tiến hành phê chuẩn hoặc trình Quốc hội phê chuẩn. Và ở Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, quy định này được bổ sung thêm là: Chủ tịch nước trình Quốc hội phê chuẩn các điều ước Quốc tế đã trực tiếp ký.
+ Chủ tịch nước “Quyết định cho nhập quốc tịch Việt Nam cho thôi quốc tịch Việt Nam hoặc tước quốc tịch Việt Nam” (Điểm 11 Điều 103 Hiến pháp 1992).
+ Chủ tịch nước “Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch Hội đồng Quốc phòng và an ninh” (Điểm 2 Điều 103 Hiến pháp 1992). Ở đây có điểm khác với Hiến pháp 1946, Điều 49 Hiến pháp 1946 quy định Chủ tịch nước “giữ quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc…”; từ “thống lĩnh” đã được dùng từ các Hiến pháp 1959 và 1980; “thống lĩnh” khác với “tổng chi huy” ở chỗ “thống lĩnh” không phải trực tiếp chỉ huy mà chỉ là phụ trách chung. Hội đồng Quốc phòng giúp Chủ tịch nước trong việc thống lĩnh. Chủ tịch nước thành lập Hội đồng Quốc phòng và trình Quốc hội phê chuẩn.
+ Chủ tịch nước “Căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ; ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương” (Điểm 6 Điều 103 Hiến pháp 1992). Trong Điều 91 Điềm 10 của Hiến pháp 1992 có quy định: Ủy ban thường vụ Quốc hội “Quyết định tổng động viên hoặc động viên cục bộ, ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”. Vậy 2 điểm này cần được hiểu như sau: Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định tổng động viên… quyết định ban bố tình trạng khẩn cấp. Trong Hiến pháp 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001, điểm này được bổ sung thêm: Trong trường hợp Ủy ban thường vụ Quốc hội không thể họp được, Chủ tịch nước ban bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương.
+ Chủ tịch nước “Quyết định phong hàm, cấp sĩ quan cấp cao trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại giao và những hàm cấp Nhà nước khác; quyết định tặng thưởng huân chương, huy chương và danh hiệu vinh dự Nhà nước” (Điểm 9 Điều 103 Hiến pháp 1992).
+ Chủ tịch nước “Quyết định đặc xá” (Điểm 12 Điều 103 Hiến pháp 1992)
+ Chủ tịch nước “Căn cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Ủy ban thường vụ Quốc hội, công bố quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, công bố quyết định đại xá” (Điểm 5 Điều 103 Hiến pháp 1992). Vậy “đặc xá” và “đại xá” là gì? Đại xá là việc tha miễn truy tố đối với một số loại tội nhân một dịp long trọng. Đại xá do Quốc hội quyết định, Chủ tịch nước công bố. Đặc xá là việc Chủ tịch nước tha tù hoặc miễn hình phạt còn lại đối với những phạm nhân có hoàn cảnh đặc biệt: già cả, có công lao, ốm đau nặng…. Việc đặc xá này thường được thực hiện nhân dịp lễ Tết hay kết hợp với việc tha tù trước thời hạn và giảm án.
* Nhóm nhiệm vụ, quyền hạn liên quan đến việc phối hợp các thiết chế quyền lực Nhà nước trong các lĩnh vực lập pháp – hành pháp và tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp, Chủ tịch nước có quyền:
+ Trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành (Điều 62 Luật Tổ chức Quốc hội).
+ “Công bố Hiến pháp, luật và pháp lệnh” (Điểm 1 Điều 103 Hiến pháp 1992). Việc công bố các văn bản này là một phần của quá trình lập pháp. Đối với Hiến pháp, luật do Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố để thực hiện. Thời hạn công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày thông qua (Điều 50 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Điều 91 Luật Tổ chức Quốc hội sửa đổi năm 2001). Đối với pháp lệnh do Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua thì Chủ tịch nước công bố trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày được thông qua. “Chủ tịch nước có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại pháp lệnh trong thời gian 10 ngày. Nếu pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội biểu quyết tán thành mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước phải trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất” (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992 đã sửa đổi, bổ sung năm 2001). Trong trường hợp này thời hạn công bố chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày được Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại thông qua hoặc từ khi Quốc hội quyết định (Điều 49 và Điều 52 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật). Đây được coi như quyền phủ quyết của Chủ tịch nước. Nhưng không hẳn như vậy. Quyền phủ quyết thường nảy sinh trong cơ chế Nhà nước phân quyền đối trọng quyền lực, còn ở nước ta thì không có sự đối trọng quyền lực này. Mà nguyên nhân ở chỗ, Ủy ban thường vụ Quốc hội được ban hành pháp lệnh – một văn bản có tính chất luật – lẽ ra phải do Quốc hội ban hành. Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật thì Chủ tịch nước còn công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Quốc hội tương tự đối với Luật, công bố hoặc đề nghị xem xét lại Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội tương tự như đối với Pháp lệnh.
Trong lĩnh vực hành pháp, Chủ tịch nước tham gia thành lập Chính phủ, giám sát hoạt động của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Căn cứ Nghị quyết của Quốc hội, Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp 1992); trong thời gian Quốc hội không họp, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng (Điều 20 Luật Tổ chức Chính phủ năm 2001). Theo Nghị quyết sửa đổi bổ sung một số điều của Hiến pháp 1992 (Quốc hội thông qua tháng 12/2001) đã bỏ quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội về phê chuẩn đề nghị của Thủ tướng Chính phủ về bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng và các thành viên khác của Chính phủ cũng như đã bỏ quyền quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh khi nước nhà bị xâm lược (Ủy ban thường vụ Quốc hội chỉ thực hiện quyền này khi Quốc hội không thể họp và sau đó phải đưa ra Quốc hội xem xét, quyết định tại kì họp gần nhất), do đó Chủ tịch nước cũng không còn thực hiện các quyền này nữa.
Trong lĩnh vực tư pháp và giám sát, Chủ tịch nước giới thiệu để Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điểm 3 Điều 103 Hiến pháp 1992); bổ nhiệm Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung ương, Phó Viện trưởng và kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trước đây theo Luật tổ chức Tóa án nhân dân cũ, Chủ tịch nước còn có quyền bổ nhiệm Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án các cấp. Nhưng theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2002 đã bãi bỏ điểm này, và giao về cho Chánh án Tòa án nhân dân tối cao thực hiện. Chủ tịch nước xem xét quyết định việc ân xá, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo trước Quốc hội; trong thời gian Quốc hội không họp thì phải báo cáo trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Ngoài ra, Chủ tịch nước có quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ (Điểu 105 Hiến pháp 1992). Điều 106 Hiến pháp 1992 quy định Chủ tịch nước còn được ban hành lệnh, quyết định để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
3. Quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước.
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Mối quan hệ với Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung và Luật tổ chức Quốc hội hiện hành quy định như sau:
- Chủ tịch nước do Quốc hội bầu ra trong số các đại biểu Quốc hội, miễn nhiệm và bãi nhiệm theo nhiệm kì của Quốc hội.
- Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của Chủ tịch nước.
- Chủ tịch nước chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Quốc hội.
- Chủ tịch nước trình dự án luật ra trước Quốc hội, kiến nghị về luật thông qua việc kiến nghị ban hành luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung luật hiện hành.
- Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái với Hiến pháp, luật, Nghị quyết của Quốc hội.
- Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời trước Quốc hội tại kì họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định trả lời trước Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc tại kì họp sau của Quốc hội hoặc có thể trả lời bằng văn bản.
Mối quan hệ với Ủy ban thường vụ Quốc hội, được quy định:
- Chủ tịch nước có quyền tham dự phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Nhằm mục đích tạo điều kiện để Chủ tịch nước theo được sát ý kiến của tập thể Ủy ban thường vụ Quốc hội khi thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, đông thời cũng để Chủ tịch nước có thể đóng góp ý kiến của mình.
- Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất 15 ngày kể từ ngày thông qua. Tuy nhiên, Chủ tịch nước có quyền “Đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của mình về các vấn đề quy định tại Điểm 8 và 9 Điều 91 trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày Pháp lệnh hoặc Nghị quyết được thông qua. Nếu Pháp lệnh đó vẫn được Ủy ban thường vụ Quốc hội thông qua mà Chủ tịch nước vẫn không nhất trí thì Chủ tịch nước phải trình Quốc hội quyết định tại kỳ họp gần nhất” (Điểm 7 Điều 103 Hiến pháp 1992). Sau khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001, thì Chủ tịch nước chỉ có quyền đề nghị Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét lại Pháp lệnh vì thẩm quyền của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại Điểm 8 và 9 Điều 91 đã bị hủy bỏ. Mặc dù Hiến pháp 1992 đã tách Chủ tịch nước thành thiết chế riêng song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội chứ không gắn với Chính phủ như Hiến pháp 1946 và 1959 hoặc thuộc về hành pháp như nguyên thủ quốc gia các nước tư bản.
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ.
Mối liên hệ này được Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 và Luật tổ chức Chính phủ hiện hành quy định:
- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ.
- Chủ tịch nước căn cứ Nghị quyết của Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng, Bộ trưởng và các thành viên khác của Chính phủ (Điểm 4 Điều 103 Hiến pháp 1992), và sau khi Hiến pháp 1992 được sửa đổi, bổ sung năm 2001 thì Chủ tịch nước chỉ phải căn cứ vào Nghị quyết của Quốc hội để thực hiện những vấn đề này.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Chủ tịch nước quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ theo đề nghị của Thủ tướng.
- Chính phủ mời Chủ tịch nước tham dự phiên họp của Chính phủ, trình Chủ tịch nước quyết định những vấn đề thuộc thẩm quyền Chủ tịch nước.
- Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện những quyết định của Chủ tịch nước. Các báo cáo công tác của Chính phủ trước Chủ tịch nước phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết theo đa số.
* Mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao.
Hiến pháp 1992 đã thay thế chế độ bẩu cử Thẩm phán bằng chế độ bổ nhiệm Thẩm phán, trừ đối với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước và Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm. Chủ tịch nước được bổ nhiệm: Phó Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đến Thẩm phán Tòa án nhân dân huyện, Chánh án Tòa án quân sự Trung ương đến Thẩm phán Tòa án quân sự khu vực. Nhưng theo Luật tổ chức Tòa án nhân dân năm 2002, thì Chánh án, Phó Chánh án và Thẩm phán Tòa án các cấp đều do Chánh án Tòa án nhân dân tối cao bổ nhiệm. Các chức vụ còn lại do Chủ tịch nước bổ nhiệm.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình xin ân giảm.
* Mối liên hệ giữa Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Mối quan hệ này được quy định trong Hiến pháp 1992 và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân hiện hành. Cụ thể là:
- Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Chủ tịch nước bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Viện trưởng, kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
- Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước.
- Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định theo đa số. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì phải thực hiện theo quy định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hoặc Chủ tịch nước.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình xin Chủ tịch nước ý kiến của mình về những trường hợp người bị kết án tử hình ân giảm.
II. Đánh giá.
Hiến pháp 1992 là sự kế thừa những ưu điểm, mặt tích cực của Hiến pháp 1946,1959 và 1980; đó là sự gắn bó giữa Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội với Chủ tịch nước trong thực hiện chức năng nguyên thủ Quốc gia. Và Hiến pháp 1992 cũng đã có những điểm mới như: việc tách Chủ tịch nước thành 1 chế định riêng không nằm trong cơ cấu của Quốc hội như Hiến pháp 1980. Ngoài ra Chủ tịch nước cũng đã có thêm những quyền hạn mới như: quyền đề nghị xem xét lại Pháp lệnh, Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội về các vấn đề quy định tại Điểm 8 và 9 Điều 91 Hiến pháp 1992…. Qua đây ta thấy được quyền lực Nhà nước là thống nhất có sự phân công phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp – hành pháp và tư pháp.
III. Một số kiến nghị đối với chế định Chủ tịch nước trong giai đoạn hiện nay.
Qua các bản Hiến pháp, chế định Chủ tịch nước ngày càng hoàn thiện về vị trí, vai trò và chức năng. Tính đến hiện tại thì chế định Chủ tịch nước của nước ta là cơ bản phù hợp. Và để hoàn thiện hơn nữa chế định này, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu và làm rõ hơn một số điểm sau:
+ Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước, về chức năng quyền hạn không hoàn toàn giống với nguyên thủ quốc gia. Vì thế cần phải tăng cường vị trí của Chủ tịch nước như: trao quyền đề nghị Quốc hội xem xét lại luật cho Chủ tịch nước; quyền quyết định tổng động viên….
+ Điều 105 Hiến pháp quy định cho Chủ tịch nước quyền tham dự các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội và khi thấy cần thiết thì có quyền tham dự các phiên họp của Chính phủ. Đối với các phiên họp của Ủy ban thường vụ Quốc hội thì Chủ tịch nước tham dự để nắm bắt và có ý kiến về các vấn đề liên quan, thể hiện sự gắn bó giữa Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Còn đối với Chính phủ mà Chủ tịch nước “thấy cần thiết thì tham dự” thì chưa hợp lý nắm. Điều này cần được chấn chỉnh lại.
KẾT LUẬN
Trong Hiến pháp 1992 nói riêng và pháp luật hiện hành nói chung, chúng ta đã thiết lập được thiết chế Chủ tịch nước phù hợp với bối cảnh đất nước hiện tại. Chúng ta mới chỉ quy định khái quát nhiệm vụ, quyền hạn của Chủ tịch nước và mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác. Chúng ta cần phải đi sâu nghiên cứu hơn nữa, vừa làm vừa rút kinh nghiệm để cụ thể hóa dần dần các quy định trong Hiến pháp và pháp luật, để ngày càng làm rõ được vai trò, vị trí, chức năng quan trọng của Chủ tịch nước trong bộ máy Nhà nước và trong đời sống xã hội.