Những năm qua, hoà cùng công cuộc đổi mới và phát triển chung của đất nước, các doanh nghiệp đã không ngừng cải thiện và hoàn chỉnh mình. Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh tế đều là một tế bào góp phần đưa đất nước đi lên, là nơi trực tiếp sản xuất và cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội.
72 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1810 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp hạ giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt may Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lời mở đầu
Những năm qua, hoà cùng công cuộc đổi mới và phát triển chung của đất nước, các doanh nghiệp đã không ngừng cải thiện và hoàn chỉnh mình. Mỗi doanh nghiệp hoạt động kinh tế đều là một tế bào góp phần đưa đất nước đi lên, là nơi trực tiếp sản xuất và cung cấp sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ để đáp ứng nhu cầu cho sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội.
Hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay cùng với sự phát triển ngày càng đi lên của xã hội, đòi hỏi các doanh nghiệp phải chú ý đến vấn đề chi phí và giá thành sản phẩm, nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận. Muốn đạt được các mục tiêu hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định. Vì vậy chi phí và giá thành sản phẩm là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp quan trọng, nó phản ánh mọi mặt sản xuất kinh doanh và quản lý tài chính của doanh nghiệp.
Thời kỳ trước đây, cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chỉ tiêu đánh giá sản phẩm được coi là một chỉ tiêu có tính pháp lệnh của nhà nước. Từ khi chuyển nền kinh tế nước ta sang cơ chế thị trường nhiều thành phần cạnh tranh, các doanh nghiệp chuyển sang hoạt động sản xuất kinh doanh theo nguyên tắc tự chủ, việc tiết kiệm chi phí sản xuất để hạ giá thành sản phẩm là một mục tiêu có ý nghĩa hết sức quan trọng. Mức độ hạ giá thành phản ánh trình độ sử dụng phù hợp, tiết kiệm nguyên vật liệu, khả năng vận dụng máy móc thiết bị, trình độ áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, khả năng quản lý kinh tế tài chính và chiến lược gía cả của doanh nghiệp. Do đó, việc phấn đấu hạ giá thành sản phẩm sẽ quyết định sự tồn tại của doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp phải làm thế nào để chi phí tối thiểu nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm, đó là một vấn đề đòi hỏi tất cả các doanh nghiệp phải quan tâm.
Là một doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may Việt Nam, trong những năm qua công ty Dệt may Hà Nội (HANOSIMEX) đã có nhiều đóng góp vào sự phát triển của ngành. Quá trình hình thành, phát triển và những thành quả của Công ty không tách rời sự quản lý của Tổng Công ty Dệt may Việt Nam, đồng thời đó cũng là thành quả từ quá trình lao động hết mình của đội ngũ cán bộ công nhân viên trong toàn công ty.
Sau thời gian thực tập tại Công ty và đi sâu tìm hiểu, em đã được tiếp cận với vấn đề để nâng cao hiệu quả kinh doanh của Công ty. Em xin lựa chọn đề tài: “Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp hạ giá thành sản phẩm tại Công ty Dệt may Hà Nội”. Bằng các kiến thức đã học và việc đi thực tế ở Công ty em xin trình bày đồ án gồm các phần sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về chi phí và giá thành sản phẩm.
Chương II: Giới thiệu khái quát chung về Công ty Dệt may Hà Nội.
Chương III: Phân tích chi phí sản xuất kinh doanh và biện pháp hạ giá thành sản phẩm sợi tại Công ty Dệt may Hà Nội.
chương i: Cơ sở lý luận về chi phí và giá thành
1.1.Các khái niệm cơ bản về chi phí và giá thành
1.1.1.Khái niệm về chi phí sản xuất kinh doanh
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực mà doanh nghiệp đã huy động vào sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định.
Để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh của mình thì doanh nghiệp cần phải bỏ ra những khoản chi phí nhất định để có các yếu tố đầu vào. Doanh nghiệp cần ba yếu tố cơ bản nhất là:
Tư liệu lao động: Nhà xưởng, máy móc, thiết bị và những TSCĐ khác,...
Đối tượng lao động: Như nguyên vật liệu, nhiên liệu,...
Nhân công lao động đó là con người tự bỏ sức lực và trí tuệ.
Quá trình sử dụng các yếu tố cơ bản trong sản xuất cũng đồng thời là quá trình doanh nghiệp phải chỉ ra những chi phí sản xuất tương ứng. Tương ứng với việc sử dụng TSCĐ là chi phí về khấu hao TSCĐ, tương ứng với việc sử dụng nguyên vật liệu, nhiên liệu là những chi phí về nguyên nhiên vật liệu. Tương ứng với việc sử dụng lao động là chi phí về tiền công, tiền trích BHXH, BHYT, KPCĐ...
Trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá và cơ chế hạch toán kinh doanh, mọi chi phí trên đều được biểu hiện bằng tiền.
Sự tham gia của các yếu tố sản xuất vào quá trình sản xuất của doanh nghiệp có sự khác nhau và nó đã hình thành nên các khoản chi phí tương ứng.
Những chi phí doanh nghiệp phải bỏ ra để cấu thành nên giá trị của sản phẩm dịch vụ bao gồm 3 bộ phận:
C+V+M
Trong đó:
C: Toàn bộ tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trinh sản xuất.
V: Là chi phí về hao phí lao động sống, là khoản chi để trả lương và các khoản khác kèm theo cho người lao động.
M: Là giá trị mới tăng thêm trong quá trình hoạt động.
Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong quá trình tồn tại và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng để phục vụ cho quản lý và hạch toán kinh doanh, chi phí sản xuất kinh doanh phải được tính toán tập hợp theo từng thời kỳ: hàng tháng, hàng quý, hàng năm phù hợp với kỳ báo cáo. Chỉ những chi phí sản xuất mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kỳ mới được tính vào chi phí sản xuất trong kỳ.
1.1.2.Khái niệm về giá thành
Giá thành sản phẩm, dịch vụ là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp bao gồm những chi phí sản xuất có liên quan đến việc chế tạo và hoàn thành một loại, một lượng sản phẩm, dịch vụ nhất định.
Có thể nói chỉ tiêu này là một tấm gương phản ánh toàn diện chất lượng công tác của doanh nghiệp bao gồm các mặt: trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý...
Từ những yếu tố đầu vào có được nhờ các khoản chi phí bỏ ra, doanh nghiệp tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh và kết quả đầu ra là các sản phẩm hoặc dịch vụ. Theo yêu cầu phục vụ cho các mục đích kinh tế khác nhau, người ta cần phải tính được chi phí bỏ vào để sản xuất ra các sản phẩm hoặc dịch vụ cụ thể đó. Nói cách khác cần phải tiến hành phân bổ tổng chi phí (trả cho các yếu tố đầu vào) cho từng đơn vị sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp đã sản xuất và tiêu thụ được.
Tính giá thành có một ý nghĩa rất lớn đối với mọi doanh nghiệp, chỉ khi tính đựoc giá thành sản phẩm doanh nghiệp mới có thể tính đựoc hiệu quả sản xuất kinh doanh của mình từ đó có được những quyết định đúng đắn cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong giai đoạn tiếp theo. Việc tính giá thành giữ vai trò quan trọng trong công tác quản lý sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vì vậy chúng ta đề cập đến các chức năng và ý nghĩa của giá thành trong những phần tiếp theo.
1.1.3. Mối quan hệ giữa giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất
Bản chất của chi phí sản xuất và giá thành sảnnphẩm đều có điểm giống nhau đó là đều là các lao động sống, lao động vật hoá và các chi tiêu khác của doanh nghiệp song giữa chúng lại có điểm khác nhau.
Thực chất, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm là hai mặt khác nhau của một quá trình sản xuất. Chi phí sản xuất phản ánh mặt hao phí các nguồn lực huy động vào sản xuất còn giá thành sản phẩm lại phản ánh mặt kết quả sản xuất. Chi phí sản xuất đề cập đến các hao phí trong một kỳ nhất định còn giá thành sản phẩm nói đến mối quan hệ của chi phí với quy trình công nghệ, chế tạo sản phẩm đã hoàn thành trong một kỳ.
Sơ đồ mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm:
CPSX dở dang đầu kỳ
CPSX phát sinh trong kỳ
Tổng giá thành sản phẩm
CPSX dở dang cuối kỳ
1.2.Cách phân loại chi phí và giá thành
1.2.1.Phân loại chi phí
Để phục vụ cho các yêu cầu quản lý khác nhau người ta tiến hành phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau. Trên góc độ quản lý tài chính, người ta quan tâm đến nhu cầu vốn và hiệu quả sử dụng vốn, do đó trong một kỳ kế toán doanh nghiệp phải hệ thống được số liệu về chi phí theo 2 cách phân loại sau:
a. Phân loại chi phí theo nội dung kinh tế ban đầu (hình thái ban đầu của chi phí)
Theo cách này những chi phí có cùng nội dung kinh tế ban đầu (xuất phát từ một nguồn lực) được xếp chung vào một loại gọi là yếu tố chi phí không kể nguồn lực đó được dùng cụ thể vào việc gì của hoạt động sản xuất kinh doanh.
1.Yếu tố chi phí nguyên vật liệu: Yếu tố này bao gồm giá thực tế của nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu, dụng cụ, phụ tùng, bán thành phẩm (tất cả đều là mua ngoài) đã được đưa vào sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
2.Yếu tố chi phí nhân công: Thể hiện số tiền doanh nghiệp phải bỏ ra cho việc sử dụng nhân công vào hoạt động sản xuất kinh doanh bao gồm toàn bộ tiền lương và các khoản phụ cấp, các khoản thưởng có tính chất lương, các khoản trích theo lương theo chế độ quy định như: BHXH, BHYT, KPCĐ của những cán bộ công nhân viên tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
3.Yếu tố chi phí khấu hao: Bao gồm tổng số khấu hao của toàn bộ TSCĐ sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
4.Yếu tố chi phí dịch vụ mua ngoài: Bao gồm số tiền phải trả cho việc sử dụng các dịch vụ mua ngoài vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ.
5.Yếu tố chi phí bằng tiền: Gồm các khoản tiền doanh nghiệp đã trả hoặc sẽ phải trả trực tiếp dưới hình thái gía trị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ (VD: trả lãi vay, thuế phải nộp, công tác phí, chi phí tiếp khách, hội họp...).
Việc hệ thống chi phí theo yếu tố có tác dụng chi biết để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh với quy mô như kỳ báo cáo, doanh nghiệp cần huy động đưa vào sử dụng những nguồn lực nào? mỗi nguồn lực là bao nhiêu? trên cơ sở đó lập kế hoạch cung ứng vật tư, lập dự toán chi phí, lập kế hoạch quỹ lương, tính toán nhu cầu vốn lưu động cho kỳ tiếp theo.
b. Phân loại chi phí theo công dụng kinh tế (theo địa điểm phát sinh):
Theo cách này những nguồn lực được sử dụng vào cùng một mục đích (cùng một việc) thì được xếp chung vào một loại gọi là khoản mục chi phí, không kể hình thái ban đầu của nguồn lực là gì. Theo quy định, có 5 khoản mục sau:
1.Khoản mục chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Gồm giá thực tế của nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu (có thể mua ngoài hay tự chế), bán thành phẩm mua ngoài tham gia trực tiếp vào công nghệ chế biến sản phẩm (sau khi đã trừ giá trị phế liệu thu hồi).
2.Khoản mục chi phí nhân công trực tiếp: Gồm tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất lương, tiền thưởng thường xuyên, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo quy định, lương phép trích trước (nếu có) của công nhân trực tiếp sản xuất.
3.Khoản mục chi phí sản xuất chung: Chi phí sản xuất chung là những chi phí về tổ chức và quản lý những chi phí chung khác phát sinh ở bộ phận sản xuất (phân xưởng, công trường, đội sản xuất...). Nói cách khác đó là những chi phí còn lại phát sinh ở bộ phận sản xuất ngoài chi phí nguyên vật liệu trực tiếp và chi phí nhân công trực tiếp.
Về nội dung thì khoản mục này bao gồm các điều khoản sau:
Chi phí nhân viên phân xưởng: Bao gồm tiền lương, cáckhoản phụ cấp có tính chất lương, các khoản tiền thưởng trong lương , các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo lương của những cán bộ công nhân viên gián tiếp ở bộ phận sản xuất.
Chi phí vật liệu: Gồm giá thực tế của vật liệu sử dụng ở bộ phận sản xuất nhưng không tham gia trực tiếp vào công nghệ chế biến sản phẩm. VD như chi phí công cụ cho sửa chữa thanh lý TSCĐ...
Chi phí dụng cụ sản xuất: Gồm giá trị (hoặc một phần giá trị) dụng cụ đồ dùng sử dụng cho sản xuất và quản lý bộ phận sản xuất trong kỳ.
Chi phí khấu hao TSCĐ: Gồm tổng số khấu hao của toàn bộ tài sản cố định dùng sản xuất trong kỳ.
Chi phí dịch vụ mua vào: Số tiền phải trả cho dịch vụ mua ngoài đã sử dụng vào sản xuất trong kỳ.
Chi phí bằng tiền: Gồm các khoản chi phí cho hoạt động sản xuất trực tiếp dưới hình thái giá trị như tiếp khách, hội họp, chè nước, văn phòng phẩm....
4.Khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp: là những chi phí về tổ chức và quản lý hành chính, quản lý kinh tế và những chi phí chung khác trong phạm vi toàn doanh nghiệp.
Về nội dung, chi phí quản lý doanh nghiệp cũng bao gồm những điều khoản sau:
Chi phí nhân viên quản lý: phản ánh các chi phí về tiền lương, các khoản phụ cấp và các khoản trích theo lương (trích BHXH, BHYT, KPCĐ) của công nhân viên thuộc bộ máy quản lý doanh nghiệp.
Chi phí vật liệu quản lý: gồm giá thực tế của vật liệu sử dụng cho công việc quản lý doanh nghiệp như sửa chữa TSCĐ, dụng cụ công cụ, văn phòng phẩm....
Chi phí đồ dùng văn phòng: phản ánh phần giá trị dụng cụ đồ dùng văn phòng dùng cho công tác quản lý trong kỳ như bàn ghế, tủ hồ sơ, máy điều hoà, máy tính....
Chi phí khấu hao TSCĐ: gồm số khấu hao TSCĐ dùng chung toàn doanh nghiệp như nhà văn phòng, kho tàng, đường sá cầu cống, thiết bị quản lý...
Thuế, phí và lệ phí: theo quy định doanh nghiệp được tính vào khoản mục này như thuế môn bài, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế GTGT đối với doanh nghiệp áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp và các lệ phí toà án, lệ phí trước, phí cầu phà, quản lý phí phải nộp cấp trên...
Dự phòng phải thu khó đòi và dự phòng giảm giá hàng tồn kho: dự phòng là tính trước các khoản rủi ro có khả năng xảy ra vào chi phí trong kỳ để tạo nguồn bù đắp khi rủi ro xảy ra. Hiện nay theo quy định doanh nghiêpj được tính vào chi phí quản lý doanh nghiệp hai khoản dự phòng trên.
Chi phí dịch vụ mua ngoài: gồm số tiền phải trả cho các dịch vụ mua ngoài sử dụng cho khối văn phòng doanh nghiệp trong kỳ như tiền điện nước, điện thoại, điện báo, thuê ngoài sửa chữa TSCĐ, thuê nhà...
Chi phí bằng tiền: gồm các khoản chi phí trực tiếp bằng tiền cho công tác quản lý chung của doanh nghiệp như chi phí hội nghị tiếp khách, công tác phí, lãi vay phải trả...
5.Khoản mục chi phí bán hàng: Là những chi phí liên quan đến quá trình bán hàng. Về nội dung, chi phí bán hàng cũng gồm có các điều khoản như chi phí sản xuất chung (chi phí nhân viên, chi phí vật liệu, chi phí dụng cụ đồ dùng, chi phí khấu hao, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí bằng tiền) nhưng không dùng cho sản xuất mà dùng vào khâu bán hàng. Ngoài ra còn bao gồm điều khoản chi phí bảo hành sản phẩm (gồm những chi phí sản xuất doanh nghiệp đã bỏ ra để bảo hành hoặc số tiền doanh nghiệp phải bỏ ra để thuê bảo hành sản phẩm cho khách hàng).
Trong năm khoản mục trên thì 3 khoản mục đầu là chi phí sản xuất, là cơ sở hình thành nên giá thành sản xuất của sản phẩm và sẽ được bù đắp khi mà những sản phẩm do chúng tạo ra bán được. Cũng cần lưu ý là chỉ doanh nghiệp sản xuất mới có các khoản mục chi phí này. Hai khoản mục sau là chi phí ngoài sản xuất tuy không tạo ra sản phẩm nhưng lại là cần thiết cho hoạt động của bất kỳ doanh nghiệp nào. Hiện nay, theo quy định doanh nghiệp không cần phải phân bổ 2 khoản mục này cho sản xuất sản phẩm (tức không phải đưa các chi phí này vào giá thành sản phẩm) và như vậy các khoản mục chi phí này trong kỳ phát sinh bao nhiêu sẽ được bù đắp hết bấy nhiêu bằng lãi gộp trong kỳ. Tuy nhiên, trường hợp doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất dài, sản xuất theo thời vụ hoặc có doanh thu không đều đặn thì chế độ kế toán vẫn cho phép phân bổ chi phí quản lý doanh nghiệp và chi phí bán hàng vào giá thành sản phẩm hoặc “gác lại” phân bổ dần vào chi phí của nhiều kỳ.
Cách phân loại thứ 2 chp phép kiểm tra, phân tích đánh giá được tình hình sử dụng các nguồn lực ở các khâu khác nhau của quá trình sản xuất kinh doanh, tính được giá thành sản phẩm, dịch vụ theo khoản mục, phân tích được cơ cấu chi phí, cơ cấu giá thành và trên cơ sở đó đề ra được các biện pháp thiết thực phấn đấu tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm.
Quá trình hạch toán chi phí sản xuất kinh doanh chính là quá trình hệ thống chi phí lúc đầu theo yếu tố (theo nguồn lực) rồi tuỳ theo yếu tố chi phí được dùng vào đâu, vào khâu nào của quá trình sản xuất kinh doanh mà hệ thống chi phí theo khoản mục.
1.2.2. Các loại giá thành
Chỉ tiêu giá thành cũng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác nhau tuỳ theo yêu cầu công việc.
a. Giá thành kế hoạch, giá thành định mức, giá thành thực tế
Theo cách phân loại này giá thành sản phẩm chia làm 3 loại như sau:
Giá thành kế hoạch: Được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch.
Giá thành định mức: Khác với giá thành kế hoạch được xây dựng dựa trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong cả kỳ kế hoạc, giá thành sản xuất định mức lại được xây dựng trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành sản xuất định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Giá thành thực tế: Giá thành sản xuất thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở các chi phí phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
b. Giá thành đơn vị và tổng giá thành
Cách phân loại này chia chi phí thành 3 loại:
Giá thành đơn vị: Là giá thành tính cho một loại sản phẩm nhất định. Giá thành đơn vị sản phẩm dùng để so sánh đối chiếu giá thành của doanh nghiệp này với các doanh nghiệp khác khi sản xuất cùng loại sản phẩm hoặc đối chiếu giữa kỳ kế hoạch với kỳ báo cáo. Trên cơ sở đó tiến hành phân tích tìm ra những nhân tố ảnh hưởng đến xác định điểm hạ giá thành sản phẩm.
Tổng giá thành:
c. Giá thành sản xuất và gía thành toàn bộ
Giá thành sản xuất: là giá thành được tính toán trên cơ sở chi phí đã phát sinh ở bộ phận sản xuất. Giá thành sản xuất bao gồm các chi phí sản xuất như: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp, chi phí sản xuất chung, tính cho những sản phẩm, công việc đã hoàn thành. Giá thánh sản xuát của sản phẩm cũng là căn cứ để tính toán giá vốn và lãi gộp ở các doanh nghiệp sản xuất.
Giá thành toàn bộ: là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các chi phí phát sinh, liên quan đến việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp. Giá thành toàn bộ sản phẩm bao gồm: giá thành sản xuất của sản phẩm cộng thêm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Do vậy, giá thành toàn bộ của sản phẩm được xác định sau khi sản phẩm được tiêu thụ.
1.3. Các phương pháp tính giá thành sản phẩm
Giá thành sản phẩm là một tấm gương phản ánh toàn diện chất lượng công tác của doanh nghiệp bao gồm các mặt: trình độ công nghệ, trình độ tổ chức sản xuất, trình độ quản lý...
Tính giá thành là tính toán, xác định những chi phí sản xuất có liên quan đến việc chế biến và hoàn thành một loại sản phẩm, dịch vụ nhất định theo khoản mục.
Khi tính tiến hành tính giá thành, kế toán doanh nghiệp cần xác định rõ đối tượng tính giá thành, đơn vị tính giá thành, kỳ tính giá thành và phương pháp tính giá thành áp dụng cho doanh nghiệp mình.
Đối tượng tính giá thành có thể là sản phẩm, dịch vụ hoàn thành cũng có thể là bán thành phẩm, là chi tiết, cụm chi tiết sản phẩm, nhóm sản phẩm, đơn đặt hàng...
Đơn vị tính giá thành là đơn vị đo lường về mặt hiện vật đối tượng tính giá thành. Đơn vị đó phải thống nhất với đơn vị trong kế hoạch giá thành và phải là đơn vị được thừa nhận chung trong nền kinh tế.
Kỳ tính giá thành là khoảng thời gian kế toán hệ thống số liệu về chi phí sản xuất và khối lượng sản phẩm dịch vụ hoàn thành và tiến hành tính toán giá thành cho khối lượng sản phẩm, dịch vụ đó. Kỳ tính giá thành có thể định kỳ: hàng tháng, hàng quý, nửa năm hoặc một năm. Phương pháp tính giá thành được hiểu theo nghĩa rộng là trình tự tập hợp chi phí sản xuất theo các đối tượng tính giá thành, trên cơ sở đó xác định chi phí sản xuất có liên quan đến đối tượng tính giá thành.
Việc tính giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ được thực hiện dựa trên phương trình sản xuất sau:
Đầu vào của sản xuất = Đầu ra của sản xuất
Trong đó, đầu vào gồm có giá trị sản phẩm dở dang còn lại cuối kỳ trước khi chuyển sang kỳ này chế biến tiếp và chi phí sản xuất kỳ này bỏ thêm ra. Các số liệu của đầu vào có thể xác định được thông qua số liệu của sổ sách kỳ trước chuyển sang và số liệu hệ thống được trong sổ sách kỳ này. Đầu ra gồm giá thành sản phẩm, dịch vụ hoàn thành trong kỳ và giá trị sản phẩm dở dang chưa chế biến xong trong kỳ này còn lại cuối kỳ. Như vậy, để biết được từng đầu ra, kế toán phải phân bổ chi phí đầu vào cho 2 đầu ra. Quy trình tính toán của kế toán là xác định giá trị của sản phẩm dở dang trước (như đã trình bày ở mục trên), phần chi phí đầu vào còn lại sẽ là giá thành của sản phẩm dịch vụ hoàn thành