Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng rất nhạy cảm đối với xã hội, là đầu mối của nhiều mối quan hệ liên quan đến kinh tế vĩ mô và vi mô. Do vậy để đánh giá đầy đủ và chính xác hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại là rất phức tạp và khó khăn. Thực tế kinh nghiệm trên thế giới cho thấy điều đó. Một ngân hàng cho dù có rất lớn, rất”vững chắc”, nhưng bất kỳ một chấn động kinh tế chính trị xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động của nó và đòi hỏi phải có những điều chỉnh về cơ cấu cho phù hợp hơn.
58 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2744 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương 1
TỔNG QUAN
Cơ sở hình thành
Nhận định về hoạt động của ngân hàng thương mại trong quá khứ và hiện tại là thực sự cần thiết trong cơ chế thị trường bởi vì bất kỳ một quyết định nào về kinh tế vĩ mô hay vi mô đều xuất phát từ thực tế lịch sử và yêu cầu của tương lai.
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng rất nhạy cảm đối với xã hội, là đầu mối của nhiều mối quan hệ liên quan đến kinh tế vĩ mô và vi mô. Do vậy để đánh giá đầy đủ và chính xác hiệu quả hoạt động của ngân hàng thương mại là rất phức tạp và khó khăn. Thực tế kinh nghiệm trên thế giới cho thấy điều đó. Một ngân hàng cho dù có rất lớn, rất”vững chắc”, nhưng bất kỳ một chấn động kinh tế chính trị xã hội nào cũng ngay lập tức gây ảnh hưởng đến hoạt động của nó và đòi hỏi phải có những điều chỉnh về cơ cấu cho phù hợp hơn.
Những năm gần đây hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần phát triển ngày càng hoàn thiện và đa dạng hơn. Trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay thì sự phát triển đó của hệ thống ngân hàng đã có tác động lớn, thúc đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, góp phần không nhỏ vào quá trình hôị nhập và phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, việc gỡ bỏ hàng rào bảo hộ đối với ngành tài chính trong quá trình hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và trên thế giới đã đem đến những thách thức rất lớn cho hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần ở nước ta, thậm chí sẽ có không ít ngân hàng thương mại phải chấp nhận bị thâu tóm, sáp nhập, hoặc rút lui khỏi thị trường nếu không đủ sức cạnh tranh với hệ thống ngân hàng nước ngoài.
Vì vậy, trong quá trình hoạt động các ngân hàng phải tự đưa ra những chiến lược kinh doanh cho từng giai đoạn để không bị đẩy lùi lại phía sau trong quá trình phát triển ấy. Với định hướng và phấn đấu là “Ngân hàng bán lẻ - đa năng - hiện đại”, “một tập đoàn tài chính”. Trong những năm qua, ngân hàng Thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) đã không ngừng phát triển, tăng vốn điều lệ để tăng nguồn vốn kinh doanh, mở rộng thị phần hoạt động khi là ngân hàng đầu tiên của Việt Nam mở văn phòng đại diện tại Trung Quốc. Tại An Giang, tuy thời gian đi vào hoạt động của Sacombank mới từ ngày 03/08/2005 trên cơ sở chuyển thể và nâng cấp từ văn phòng đại diện An Giang, nhưng Sacombank An Giang đã phát triển và gặt hái được những thành tựu đáng kể và đang tiếp tục mở rộng thị phần hoạt động khi mới khai trương thêm phòng giao dịch Chợ Mới vào ngày 12/02/2008, tiếp theo sẽ là chi nhánh Châu Đốc (dự kiến vào tháng 9/2008). Với mục tiêu kinh doanh là đảm bảo nhịp độ phát triển nhanh và bền vững đem về lợi nhuận cao và an toàn, vừa phù hợp với mục tiêu kinh doanh của Hội đồng quản trị đặt ra, vừa phù hợp với phương hướng phát triển kinh tế trong đặc điểm của tỉnh nhằm duy trì sự ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Vậy trong 3 năm qua hiệu quả hoạt động của ngân hàng như thế nào? Các sản phẩm, dịch vụ của ngân hàng đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng? Những mặt thuận lợi cũng như những khó khăn thử thách trong kinh doanh của ngân hàng là gì? Với những lý do trên, đề tài tập trung vào: “Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh An Giang giai đoạn 2005 – 2007”.
Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích về cơ cấu vốn của ngân hàng, từ đó xác định được cấu tạo của nguốn vốn cũng như nội lực và ngoại lực tác động đến hoạt động của ngân hàng.
Phân tích tình hình sử dụng vốn của ngân hàng thông qua doanh số cho vay, tình hình thu nợ, dư nợ và nợ quá hạn.
Phân tích kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng giai đoạn 2005 – 2007, sử dụng các tỷ số tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động chung của ngân hàng.
Phân tích những thế mạnh và điểm yếu của ngân hàng.
Đề ra những biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của đề tài:
Đề tài được nghiên cứu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín chi nhánh An Giang trong 3 năm 2005, 2006, 2007.
Phương pháp nghiên cứu:
Để phân tích và đánh giá hoạt động kinh doanh của Sacombank, đề tài sử dụng phương pháp:
− Thu thập số liệu sơ cấp: Số liệu thống kê – kế toán như báo cáo tài chính của ngân hàng theo thời gian, các biểu mẫu báo cáo tín dụng, kế hoạch phát triển của ngân hàng trong thời gian tới…
− Thu thập thông tin từ nội bộ ngân hàng: từ lãnh đạo, các bộ phận, nhân viên của ngân hàng...
− Thu thập thông tin từ bên ngoài ngân hàng: như báo đài, truyền hình, tạp chí, tư liệu của các chuyên gia, nhà kinh tế…
Sau khi tổng hợp các số liệu đã thu thập được thì sử dụng phương pháp so sánh để phân tích, đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thông qua các chỉ số tài chính của ngân hàng: so sánh số liệu tương đối và tuyệt đối của kỳ này so với kỳ trước, so sánh với các ngân hàng thương mại khác, dùng các chỉ tiêu về tài chính như: chỉ tiêu về cơ cấu vốn, chỉ tiêu về hoạt động sử dụng vốn, chỉ tiêu về hiệu quả tín dụng và các chỉ tiêu về hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Ý nghĩa
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại cổ phần Sài gòn Thương Tín giúp ngân hàng thấy được điểm mạnh để phát huy và khắc phục những điểm yếu trong quá trình hoạt động. Từ đó ngân hàng sẽ có những điều chỉnh kịp thời nhằm nâng cao tính thích nghi và khẳng định sự nhạy cảm đối với thị trường cũng như hoạch định được phương hướng hoạt động phù hợp hơn.
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh cũng giúp cho ngân hàng đánh giá được trình độ chung về hoạt động và vị trí của Sacomank so với hệ thống ngân hàng nói chung.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT
Khái niệm, chức năng và vai trò của ngân hàng thương mại
Khái niệm ngân hàng thương mại (NHTM)
“Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ, mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán”.(PGS.TS Nguyễn Thị Mùi, 2005)
Ta có thể tóm tắt định nghĩa trên bằng sơ đồ sau:
Cá nhân công ty, XN, tổ chức
Ngân hàng thương mại
Cty, XN
Hộ gia đình cá nhân
Các tổ chức
Nhận tiền
gửi
tiết kiệm
Cho vay, cung
cấp
dịch vụ NH
Chức năng của ngân hàng thương mại
▪ Chức năng trung gian tín dụng: Hoạt động chính của ngân hàng thương mại là đi vay để cho vay, điều này thể hiện rõ ngân hàng thương mại thực hiện chức năng trung gian tín dụng (giữa những chủ thể dư thừa về vốn và những chủ thể có nhu cầu sử dụng vốn). Với chức năng này NHTM đã hổ trợ, khắc phục những hạn chế của cơ chế phân phối vốn trực tiếp, tạo ra kênh điều chuyển vốn quan trọng.
▪ Chức năng trung gian thanh toán: Bên cạnh hoạt động cho vay, NHTM còn cung cấp dịch vụ thanh toán cho khách hàng. Thay vì thanh toán trực tiếp, các doanh nghiệp, cá nhân… có thể nhờ NHTM thực hiện công việc này dựa trên những khoản tiền họ đã gửi ở ngân hàng. Khi thực hiện chức năng này, NHTM đã tạo điều kiện để mở rộng quan hệ khách hàng, hổ trợ cho sự phát triển của hoạt động huy động tiền gửi và hoạt động cho vay.
▪ Chức năng tạo tiền: Bắt đầu, với những khoản tiền dự trữ nhận được từ ngân hàng trung ương, NHTM sử dụng để cho vay, sau đó những khoản tiền này sẽ được quay lại NHTM một phần khi những người sử dụng tiền gửi vào, và NHTM lại sử dụng khoản tiển gửi này để cho vay lại.
Vai trò của ngân hàng thương mại
▪ NHTM giúp các doanh nghiệp có vốn đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả kinh doanh.
▪ NHTM góp phần phân bố hợp lý các nguồn lực giữa các vùng trong quốc gia, tạo điều kiện phát triển cân đối nền kinh tế.
▪ NHTM tạo ra môi trường cho việc thực hiện chính sách tiền tệ của ngân hàng trung ương.
▪ NHTM là cầu nối cho việc phát triển kinh tế đối ngoại giữa các quốc gia.
Khái niệm về phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh NHTM
Khái niệm
Hiệu quả theo ý nghĩa chung nhất được hiểu là các lợi ích kinh tế, xã hội đạt được từ quá trình hoạt động kinh doanh mang lại. Hiệu quả kinh doanh bao gồm hai mặt là hiệu quả kinh tế (phản ánh trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp hoặc của xã hội để đạt kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất) và hiệu quả xã hội (phản ánh những lợi ích về mặt xã hội đạt được từ quá trình hoạt động kinh doanh), trong đó hiệu quả kinh tế có ý nghĩa quyết định.(GS.TS Lê Văn Tư, 2005)
Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh là xem xét, đo lường quá trình thực hiện chiến lược kinh doanh. Khi một chiến lược mới được đưa vào thực hiện, nhà quản trị cần phải kiểm tra, phân tích để phát hiện những sai lệch so với kế hoạch, xác định nguyên nhân và đề ra biện pháp xử lý kịp thời, đúng lúc, có hiệu quả. Phân tích chính xác, khoa học là cơ sở để xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp với từng giai đoạn phát triển của ngân hàng, giúp ngân hàng củng cố chỗ đứng của mình trên thị trường.
Phân tích hiệu quả kinh doanh có mối quan hệ hữu cơ với công tác kế toán,kiểm toán, hoạch định phương hướng của hoạt động ngân hàng. Mối quan hệ giữa các yếu tố trên được biểu diễn qua sơ đồ sau:
Kế toán
Kiểm toán
Phân tích
Hoạch định
(3) (4) (5) (1)
(2) Quá trình tổ chức, thực hiện
Mục tiêu của phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh
Phân tích hoạt động kinh doanh có hai mục tiêu cơ bản là:
§ Phát hiện các lĩnh vực kinh doanh có khả năng mang lại lợi nhuận cao
§ Hạn chế tối thiểu các rủi ro phát sinh trong quá trình kinh doanh tiền tệ.
Đối tượng của phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh
Đối tượng của phân tích hoạt động kinh doanh của một ngân hàng là kết quả kinh doanh của đơn vị đó được biểu hiện bằng các chỉ tiêu kinh tế. Đối tượng phân tích có thể là kết quả kinh doanh của từng lĩnh vực hoạt động như: tình hình dự trữ, doanh số cho vay, số tiền huy động được, v.v ..., hoặc là kết quả tổng hợp của quá trình kinh doanh như lợi nhuận. Phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, phụ thuộc vào sự tinh vi, kiến thức, kinh nghiệm của người phân tích và mức độ phát triển của hệ thống ngân hàng.
Sơ đồ tổng quát về nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của NHTM trong nền kinh tế thị trường
NHÀ NƯỚC NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Các DN hoạt động KD trong lĩnh vực SX, lưu thông, DV
Các NHTM KD trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng
Các cơ quan định chế tài chính khác
CÁC NGHIỆP VỤ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH
Nghiệp vụ nợ(huy động vốn)
Nghiệp vụ trung gian(DV ngân hàng)
Nghiệp vụ có(sử dụng vốn)
- Dịch vụ trung gian
- Dịch vụ KD vàng bạc, ngoại tệ
- DV nhận uỷ thác
- Cho vay
- Chiết khấu
- Đầu tư, liên doanh
- Nguồn vốn phát sinh
- Nguồn vốn quản lý và huy động
- Nguồn vốn đi vay
Thu hoa hồng từ các DV trung gian
Thu lãi tiền vay, tiền đầu tư, liên doanh
Trả tiền gửi, tiền vay, chi phí hoạt động KD
(+)
TỔNG THU
TỔNG CHI PHÍ
(-)
Lợi nhuận gộp của NHTM
THUẾ, LỢI TỨC
(-)
LỢI NHUẬN RÒNG
CÁC QUỸ NH
Phương pháp và các chỉ tiêu phân tích hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM
Theo cộng đồng ngân hàng thế giới, để duy trì được tính lành mạnh và ổn định của ngân hàng cần phải có 5 yếu tố, các yếu tố này được tiêu thức hoá thành phương pháp phân tích CAMEL (GS.TS. Lê Văn Tư, 2005). Đây là phương pháp phân tích được hầu hết các nước trên thê giới áp dụng.
CAMEL là chữ viết tắt của tiếng Anh sau:
C ( Capital): Vốn của bản thân ngân hàng
A (Asset quality): Chất lượng tài sản có
M ( Management ability): Năng lực quản lý
E (Earning): Khả năng sinh lời
L (Liquidity): Khả năng thanh khoản tiền
Vốn tự có của ngân hàng thương mại – Capital (C)
Trong hoạt động kinh doanh tiền tệ, vốn tự có (VTC) của một ngân hàng mặc dù chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng (khoảng < 10%) nhưng nó giữ vị trí rất quan trọng, quyết định quy mô và phạm vi kinh doanh. Nó là cơ sở quyết định huy động bao nhiêu vốn trên thị trường và được sử dụng vào mục đích gì. Mặt khác, vốn của ngân hàng là cái đệm chống đỡ sự giảm sút của tài sản Có của ngân hàng. Đối với kinh doanh tiền tệ, ngân hàng có đủ vốn tự có, có vốn tự có lớn và duy trì được vốn tự có là biểu hiên của một ngân hàng bền vững.
VTC là căn cứ để xác định khả năng thanh toán cuối cùng (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu) là khả năng đáp ứng toàn bộ các cam kết của một ngân hàng. Khả năng thanh toán có tính chất cơ cấu và lâu dài hơn khả năng sẵn sàng chi trả. Một ngân hàng có thể thiếu tạm thời khả năng chi trả, nhưng về cơ bản lại có khả năng thanh toán và ngược lại.
Phân tích VTC của ngân hàng bao gồm 2 phần chủ yếu:
¡ Phân tích khả năng an toàn của VTC.
¡ Phân tích tình hình trích lập các quỹ của ngân hàng.
Ngân hàng nhà nước thường sử dụng 2 chỉ số sau để tiến hành đánh giá VTC của ngân hàng:
H1
=
Vốn tự có
Số tiền huy động
Chỉ số 1:
H2
=
Vốn tự có
Tổng giá trị tài sản Có
Chỉ số 2:
VTC là căn cứ để xác định giới hạn cho vay đối với một khách hàng. Ở Việt Nam, VTC là căn cứ để xác định các giới hạn sau:
− Đầu tư cổ phần hoặc liên doanh không quá 50% VTC.
− Cho vay các đối tượng ưu đãi không quá 5% VTC.
− Cho vay tối đa một khách hàng không quá 15% VTC.
− Tổng số tiền bảo lãnh cho một khách hàng củ một tổ chức tín dụng không được vượt quá tỷ lệ 15% so với VTC của tổ chức tín dụng đó.
Chất lượng tài sản Có – Asset quaylity (A)
Tài sản Có là phần sử dụng nguồn vốn đưa vào kinh doanh và duy trì khả năng thanh toán của một ngân hàng. Tài sản Có của ngân hàng bao gồm tất cả các khoản mục bên phải của bảng Cân đối tài sản, đó là: Tài sản ngân quỹ, tài sản cho vay, tài sản đầu tư và tài sản cố định.
Chất lương tài sản Có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên khả năng bền vững về mặt tài chính, khả năng sinh lời, năng lực quản lý và phần lớn rủi ro trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Hầu hết rủi ro kinh doanh tiền tệ đều tập trung ở tài sản Có. Chất lượng tài sản Có là yếu tố quyết định hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong đó chất lượng của các khoản cho vay và đầu tư là yếu tố quyết định đến chất lượng tài sản Có của một ngân hàng. Nếu tổn thất trong cho vay lớn sẽ dẫn đến lỗ, làm giảm vốn tự có, ảnh hưởng đến khă năng chi trả và biểu hiện quản lý của ngân hàng yếu kém.
Trong tài sản Có có thể chia thành 2 nhóm: Nhóm tài sản không sinh lời, nhóm tài sản có khả năng sinh lời. Trong đó, tài sản có sinh lời có vai trò quyết định hiệu quả kinh doanh của một ngân hàng.
Để đánh giá tính hợp lý trong cơ cấu tài sản Có của một NHTM thường sử dụng 2 hệ số cơ cấu sau:
¡ Hệ số cơ cấu tỷ lệ của 4 nhóm tài sản Có: Ngân quỹ, cho vay, đầu tư và tài sản cố định. Ngân hàng nào có tài sản cho vay và tài sản đầu tư càng lớn với điều kiện đảm bảo những tỷ lệ thích đáng cho tài sản ngân quỹ và tài sản cố định thì cơ cấu tài sản Có của ngân hàng đó càng hợp lý.
¡ Hệ số cơ cấu tỷ lệ của 2 nhóm tài sản Có sinh lời và tài sản Có không sinh lời: Hệ số này cho phép nhận định mức độ tận dụng các nguồn vốn của ngân hàng để tối đa hóa lợi nhuận.
Để đánh giá chất lượng tài sản, thường sử dụng chỉ tiêu sau:
¡ Hệ số nợ quá hạn trên 90 ngày dư nợ bình quân
¡ Hệ số nợ không có khă năng thu hồi = dư nợ không có khả năng thu hồi/ dư nợ bình quân.
¡ Hệ số bù đắp nợ không có khă năng thu hồi = Quỹ dự phòng rủi ro/ nợ không có khả năng thu hồi.
Phân tích chất lượng tài sản Có tại ngân hàng thì bao gồm 2 phần:
¡ Phân tích tình hình dự trữ tại ngân hàng:
Tổng số tiền dự trữ bắt buộc(DTBB)
=
(Số dư bình quân TGKKH&TGCKH< 12 tháng
x11%)
+
(Số dư bình quân TGCKH >= 12 tháng
x5%)
¡ Phân tích qui mô, chất lượng nghiệp vụ tín dụng tại ngân hàng dựa trên các chỉ số:
Chỉ số 1: Tổng dư nợ /nguồn vốn huy động
Chỉ số này giúp so sánh khả năng cho ay của ngân hàng với khả năng huy động vốn, đồng thời xác định hiệu quả của một đồng vốn huy động.
Chỉ số 2: Tổng dư nợ / tổng tài sản Có
Chỉ số này tính toán hiệu quả tín dụng của một đồng tài sản Có và qui mô hoạt động kinh doanh tại ngân hàng.
Chỉ số 3: Nợ quá hạn / Tổng dư nợ
Chỉ số này đánh giá chất lượng công tác tín dụng tại ngân hàng.
Năng lực quản lý – Management ability (M)
Lý thuyết CAMEL cho rằng khả năng quản lý của một ngân hàng là yếu tố năng động nhất. Nếu khả năng quản lý tốt có thể biến một ngân hàng yếu kém thành một ngân hàng hoạt động tốt hơn và ngược lại.
Nói đến khả năng quản lý là nói đến yếu tố con người, tổ chức và chính sách. Tất cả quy tụ lại ở năng lực quản lý của ban giám đốc điều hành và biểu hiện chất lượng quản lý bằng hiệu quả trong kinh doanh. Việc đánh giá vấn đề này được thực hiện theo những nội dung:
− Năng lực đề ra sách lược trong kinh doanh, có sức cạnh tranh và đứng vững trong thị trường.
− Đưa ra kế hoạch triển khai các công việc hợp lý, rõ ràng và có hiệu quả.
− Vạch ra được các thủ tục quản lý nghiệp vụ, quy trình thực hiện nghiệp vụ và bảo đảm sự tuân thủ các thủ tục và quy trình này trong giao dịch kinh doanh.
− Tạo nên một cơ cấu tổ chức hợp lý, có hiệu quả, có sự phân định rõ ràng trách nhiệm và quyền hạn giữa các nhân viên và chuyên gia, cũng như giữa các khâu, giữa các bộ phận của guồng máy.
− Có chính sách nhân sự hợp lý, khuyến khích tính tích cực của mọi thành viên trong công việc, duy trì được kỷ luật trong nội bộ, tạo không khí cởi mở, tinh thần và thái độ hợp tác trong công việc.
Khả năng sinh lời – Earning (E)
Lý thuyết CAMEL cho rằng kinh doanh có lãi mới tạo được sinh lực cho ngân hàng tồn tại và phát triển. khả năng sinh lời là kết quả cụ thể nhất trong kinh doanh. Mọi doanh nghiệp trong cơ chế thị trường chỉ có thể tồn tại và phát triển bằng kinh doanh có lãi.
Để đánh giá chung khả năng sinh lời của ngân hàng, thì phải tập hợp đúng các khoản thu nhập và chi phí trong kỳ, loại bỏ các khoản thu nhập không đúng chế độ và các khoản thu bất hợp lý ra khỏi công thức xác định lợi nhuận.
Các chỉ số dùng để phân tích khả năng sinh lời của NHTM:
¡ Tỷ số Lợi nhuận ròng trên tổng tài sản: ROA (Return On Assets)
ROA
=
Lợi nhuận ròng
X 100%
Tổng tài sản
Lợi nhuận
=
Tổng thu nhập
-
Tổng chi phí
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng tài sản sẽ đem lại bao nhiêu đồng lợi nhuận.
ROA càng lớn chứng tỏ hiệu quả kinh doanh của ngân hàng tốt
¡ Tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu: ROE (Return On Equity)
ROE
=
Lợi nhuận ròng
X 100%
Vốn tự có
Tỷ số này phản ánh khả năng sinh lợi của vốn tự có, đo lường tỷ suất lợi nhuận ròng trên vốn tự có của ngân hàng
¡ Mức lãi biên tế:
Mức lãi biên tế
=
Thu lãi - Chi lãi
x 100%
Tài sản sinh lời
Trong đó: Tài sản sinh lợi = Tài sản có - tiền mặt – tài sản cố định
Mức lãi biên tế đánh giá khả năng sinh lợi của tài sản, một đồng tài sản sinh lợi đầu tư sẽ tạo ra bao nhiêu phần trăm thu nhập thuần.
¡ Tổng thu nhập trên tổng tài sản:
Chỉ tiêu đo lường hiệu quả sử dụng tài sản của ngân hàng. Chỉ số cao chứng tỏ ngân hàng đã phân bố tài sản đầu tư một cách hợp lý và hiệu quả.
Khả năng thanh toán – Liquidity (L)
Khả năng thanh toán là môt chuẩn mực họat động quan trọng của một ngân hàng. Đây là một yếu tố hết sức nhạy cảm đối với hoạt động ngân hàng.
Khả năng thanh toán của một ngân hàng có thể xem xét theo nhiều góc độ khác nhau. Theo nghĩa hẹp, khả năng thanh toán bao gồm khoản dự trữ tiền mặt để sẵn sàng đáp ứng cho những nhu cầu rút tiền bất ngờ của nhân dân. Do đó việc để lại những lượng tiền mặt tối thiểu để phòng nhưng biến cố như vậy là điều phải làm tại các ngân hàng.
Ngoài ra khả năng thanh toán còn chỉ ra những khái niệm rộng hơn. Vào một lúc nào đó, giả sử ngân hàng có một khách hàng tốt và an toàn đến xin vay. Nếu ngân hàng không thể cho vay được vì dự trữ còn quá ít, người ta gọi đây là tình trạng “kẹt thanh khoản”. Ngược lại, trường hợp ngân hàng đủ điều kiện để đáp ứng ngay yêu cầu xin vay này, thuật ngữ chuyên môn gọi đó là “đủ thanh khoản”. Từ những thí dụ trên, có thể khái quát rằng, đứng về phía ngân hàng, thanh khoản là “tình trạng tiền mặt sẵn sàng để chi trả hay gia tăng tài sản có”. Để đánh giá tình hình thanh toán và khả năng thanh khoản của ngân hàng có thể xem xét một số chỉ tiêu sau:
¡ Hệ số thanh toán tức thời:
Hệ số thanh toán tức thời
=
Tài sản Có động
Tài sản Nợ dễ biến động
Tài sản có động là tài sản có dễ chuyển đổi thành tiền. Theo quy định của ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam tài sản có