Đề tài Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng năm 2002

Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những chủ thể có tiền nhưng chưa đem sử dụng và những chủ thể có nhu cầu tiền tệ thông qua việc đứng ra tập trung những tiền tệ chưa sử dụng của các chủ thể trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cung cấp vốn cho những chủ thể có nhu cầu cần bổ sung tạm thời. Nói một cách khái quát hơn, ngân hàng vừa là người đi vay và cũng đồng thời là người cho vay, có nghĩa là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là đi vay để cho vay. Quá trình thực hiện chức năng định chế tài chính trung gian của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ cũng như sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng.

doc41 trang | Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1310 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng năm 2002, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN I: NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VỚI HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG. I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI. 1. Khái niệm Ngân hàng Thương mại. Theo luật các tổ chức tín dụng (có hiệu lực thi hành từ 01/10/1998) thì ngân hàng thương mại được hiểu như sau: Ngân hàng Thương mại là một tổ chức tín dụng được phép thực hiện toàn bộ hoạt động của ngân hàng. Hoạt động ngân hàng là hoạt động với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng tiền này để cấp tín dụng, và cung ứng các dịch vụ thanh toán. 2. Chức năng của Ngân hàng Thương mại. a. Ngân hàng Thương mại là định chế tài chính trung gian: Ngân hàng là chiếc cầu nối giữa những chủ thể có tiền nhưng chưa đem sử dụng và những chủ thể có nhu cầu tiền tệ thông qua việc đứng ra tập trung những tiền tệ chưa sử dụng của các chủ thể trong nền kinh tế, trên cơ sở đó cung cấp vốn cho những chủ thể có nhu cầu cần bổ sung tạm thời. Nói một cách khái quát hơn, ngân hàng vừa là người đi vay và cũng đồng thời là người cho vay, có nghĩa là nghiệp vụ kinh doanh chủ yếu của ngân hàng là đi vay để cho vay. Quá trình thực hiện chức năng định chế tài chính trung gian của ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, điều hoà lưu thông tiền tệ cũng như sự phát triển của toàn bộ hệ thống ngân hàng. b. Ngân hàng Thương mại có chức năng tạo tiền: Lượng tiền mà Ngân hàng Thương mại tạo ra chính là đồng tiền bút tệ, thông qua hoạt động tín dụng và thanh toán trong mối liên hệ giữa các Ngân hàng Thương mại với nhau. Khả năng tạo tiền phụ thuộc vào chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương, trong đó “tỷ lệ dự trữ bắt buộc” là một công cụ quan trọng. Lượng tiền cung được tăng lên hay giảm xuống phù hợp với mục tiêu của nền kinh tế: tăng trưởng kinh tế, hạn chế lạm phát. c. Ngân hàng Thương mại là thủ quỹ của khách hàng. Sự phát triển về cung ứng hàng hoá dịch vụ phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh giữa các tổ chức kinh tế và cá nhân. Việc thanh toán trực tiếp lẫn nhau gặp nhiều khó khăn cho cả hai bên, nhất là khi đối tượng thanh toán lớn, địa điểm hai bên cách xa nhau, dẫn đến chi phí cho chi trả cao, thời gian dài. Ngân hàng đứng ra làm trung gian thanh toán cho các tổ chức kinh tế, cá nhân về tiền hàng, dịch vụ phát sinh trong quan hệ giao dịch mua bán hàng hoá, giúp việc luân chuyển vốn cho các doanh nghiệp được nhịp nhàng, nhanh chóng thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hoá, vòng vốn quay nhanh, tạo điều kiện thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Ngoài ra ngân hàng còn giúp doanh nghiệp sinh lời từ khoản tiền gởi tại ngân hàng, hoặc bảo quản tài sản phi tiền tệ cho các cá nhân, tổ chức. 3. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại. a. Nghiệp vụ huy động nguồn vốn. Nghiệp vụ huy động nguồn vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa đối với bản thân ngân hàng cũng như đối với xã hội. Trong nghiệp vụ này, Ngân hàng Thương mại được sử dụng những biện pháp và công cụ cần thiết mà luật pháp cho phép để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội, làm nguồn vốn tín dụng để cho vay đối với nền kinh tế. Kết quả của nghiệp vụ nguồn vốn là tạo ra nguồn “tài nguyên” để đáp ứng các nhu cầu của nền kinh tế. Trong đó, vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu, nguồn tài nguyên to lớn nhất của Ngân hàng Thương mại. b. Nghiệp vụ cho vay. Nghiệp vụ cho vay là hoạt động chính yếu và quan trọng nhất của bất kỳ một Ngân hàng Thương mại nào. Nó quyết định đến khả năng tồn tại và hoạt động của Ngân hàng Thương mại. Ngân hàng chuyển hoá từ vốn tiền gửi thành vốn tín dụng để cho vay đối với các khách hàng của mình, nhằm bổ sung cho các nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế. Nhờ cho vay mà ngân hàng tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho mình, để từ đó mà bồi hoàn lại tiền gửi cho khách hàng, bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng. c.Các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Những dịch vụ ngân hàng ngày càng phát triển vừa cho phép hỗ trợ đáng kể cho nghiệp vụ khai thác nguồn vốn, mở rộng các nghiệp vụ đầu tư, vừa tạo ra thu nhập cho ngân hàng bằng các khoản tiền hoa hồng, lệ phí... có vị trí xứng đáng trong vai trò phát triển hiện nay của Ngân hàng Thương mại. Các hoạt động này gồm: - Các dịch vụ thanh toán thu, chi hộ cho khách hàng (chuyển tiền, thu hộ séc, dịch vụ cung cấp thẻ tín dụng, thẻ thanh toán... ). - Bảo quản các tài sản quí giá, giấy tờ, chứng thư quan trọng của công chúng. - Bảo quản, mua bán hộ chứng khoán theo uỷ nhiệm của khách hàng. - Kinh doanh mua bán ngoại tệ, vàng, bạc đá quí. - Cố vấn tài chính, giúp đỡ các công ty phát hành cổ phiếu, trái phiếu... II. TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. 1. Khái niệm Tín dụng Ngân hàng. Theo Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng số 1627/2001/QĐ - NHNN ngày 31/12/2001 thì “Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi”. Nói cách khác, tín dụng là sự chuyển nhượng quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định dưới hình thức hiện vật hay tiền tệ trong một thời hạn nhất định từ người sở hữu sang người sử dụng và khi đến hạn người sử dụng phải hoàn trả lại cho người sở hữu với một lượng giá trị lớn hơn. Tín dụng Ngân hàng là quan hệ Tín dụng giữa một bên là ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với một bên là các tổ chức tín dụng, cá nhân trong nền kinh tế Quốc dân. 2. Bản chất của Tín dụng Ngân hàng. Bản chất của tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả và có các đặc trưng sau: . Tài sản giao dịch trong quan hệ tín dụng ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng của ngân hàng chỉ có vay bằng tiền. Xuất phát từ tính đặc thù đó mà nhiều lúc tín dụng và cho vay được coi là đồng nghĩa với nhau. Từ những năm 1970 trở lại đây, dịch vụ cho thuê vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng hoặc các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực (nhà ở, văn phòng làm việc, máy móc thiết bị). . Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Đây là yếu tố hết sức cơ bản trong quản trị tín dụng. Trong thực tế một số nhân viên tín dụng khi xét duyệt cho vay không dựa trên cơ sở đánh giá mức độ tín nhiệm về khách hàng mà lại chú trọng đến các bảo đảm, chính quan điểm này đã làm ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng. . Giá trị hoàn trả thông thường phải lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác là người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này phải xác định lãi suất danh nghĩa lớn hơn tỷ lệ lạm phát, hay nói cách khác phải xác định lãi suất thực dương (Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát). Tuy nhiên, vì lãi suất chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, nên trong một số trường hợp cụ thể lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ này chỉ tồn tại trong một giai đoạn ngắn. . Trong quan hệ tín dụng ngân hàng tiền vay được cấp trên cơ sở cam kết hoàn trả vô điều kiện. Về khía cạnh pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước... thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. 3. Phân loại Tín dụng Ngân hàng. a. Căn cứ vào thời hạn vay: + Cho vay ngắn hạn: thời hạn vay đến 12 tháng, vốn vay dùng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và nhu cầu chi tiêu trong ngắn hạn của các cá nhân và các tổ chức. + Cho vay trung hạn: thời hạn vay từ 1 đến 5 năm, vốn vay dùng để đầu tư vào tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có qui mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. + Cho vay dài hạn: thời hạn vay trên 5 năm, nhằm mục đích cấp vốn cho xây dựng cơ bản, đầu tư vào các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, mở rộng sản xuất với qui mô lớn. b. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn: - Tín dụng đầu tư: nhằm tăng sản lượng, thu nhập trong nền kinh tế và tìm kiếm mức độ sinh lời của đồng vốn, bao gồm các hình thức sau: + Cho vay bất động sản: nguồn vốn vay sẽ được sử dụng để mua sắm và xây dựng các bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại, dịch vụ ... + Cho vay công nghiệp và thương mại: nhằm bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này. + Cho vay nông nghiệp: nhằm phục vụ cho sản xuất nông nghiệp như hỗ trợ chi phí sản xuất, xây dựng công trình thuỷ lợi ... - Tín dụng tiêu dùng: là loại cho vay để trang trải các chi phí thông thường, đáp ứng các nhu cầu về đời sống và sinh hoạt của cá nhân, gia đình trong xã hội. Ví dụ như cấp tín dụng để mua xe máy, mua nhà ... c. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của người đi vay: - Tín dụng có đảm bảo bằng tài sản: là loại tín dụng mà để có được khoản tín dụng này, người đi vay vay bắt buộc phải có một tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. - Tín dụng không có đảm bảo bằng tài sản: là hình thức tín dụng mà ngân hàng cho vay chỉ căn cứ vào uy tín của bản thân người đi vay mà không cần bất cứ tài sản bảo đảm nào. d. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng: - Tín dụng trực tiếp: đây là loại tín dụng mà ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người vay, đồng thời người vay cũng là người trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. - Tín dụng gián tiếp: thông qua các loại giấy tờ như khế ước hoặc chứng từ nợ (thương phiếu), ngân hàng cấp tín dụng cho người phát hành (là người thanh toán nợ) bằng cách mua lại (chiết khấu) các giấy tờ này từ người sở hữu chúng (người nhận vốn từ ngân hàng). e. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng: - Cho vay bằng tiền: đây là hình thức tín dụng phổ biến, vốn tín dụng được cấp dưới hình thái giá trị tiền tệ. - Cho vay bằng tài sản: vốn tín dụng được cấp bằng tài sản dưới hình thức tài trợ thuê mua của ngân hàng hoặc các công ty thuê mua (công ty con của ngân hàng). 4. Các nguyên tắc của Tín dụng Ngân hàng. Để đảm bảo cho hoạt động tín dụng của mình đạt hiệu quả cao nhất và đem lại lợi ích cho các bên thì đòi hỏi ngân hàng và các khách hàng của ngân hàng phải tuân thủ những nguyên tắc sau: a. Nguyên tắc vay vốn phải có mục đích, có kế hoạch, bảo đảm sử dụng đúng với mục đích xin vay và có hiệu quả kinh tế. Bên đi vay phải trình bày với ngân hàng về mục đích sử dụng vốn vay, kế hoạch sử dụng vốn vay... để ngân hàng quyết định cho vay. Ngân hàng chỉ cho vay đối với những tổ chức, cá nhân làm ăn có hiệu quả, sử dụng vốn vay đúng mục đích và ngân hàng kiểm soát được việc vay vốn. Nguyên tắc này giúp ngân hàng và cả người đi vay tiến hành hoạt động của mình được bình thường, tránh việc sử dụng vốn vay sai mục đích, không hiệu quả, thất thoát và gây lãng phí. b. Nguyên tắc cho vay hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn. Hoàn trả gốc và lãi đầy đủ, đúng hạn là một nguyên tắc hàng đầu trong hoạt động tín dụng. Vì vậy buộc ngân hàng cũng như người đi vay phải sử dụng vốn vay đúng mục đích và hoạt động có hiệu quả. c. Vốn vay phải được bảo đảm. Khi vay vốn ngân hàng thì người đi vay phải bảo đảm trả nợ cho ngân hàng bằng cách thế chấp tài sản hoặc có bảo lãnh của người thứ ba. Tuân thủ theo nguyên tắc này giúp ngân hàng thu hồi nợ, mặt khác giúp cho ngân hàng thu hồi lại vốn khi khách hàng không tuân thủ hợp đồng tín dụng. III. TÍN DỤNG TIÊU DÙNG. 1. Khái niệm về Tín dụng Tiêu dùng. Tín dụng tiêu dùng là hình thức tổ chức tín dụng cho các cá nhân vay vốn để mua sắm tư liệu sinh hoạt hoặc đáp ứng nhu cầu khác phục vụ đời sống. Các khoản cho vay tiêu dùng giúp cho người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ cơ hội có thể hưởng một mức sống cao hơn. 2. Đặc điểm của Tín dụng Tiêu dùng. a. Đây là hình thức cấp tín dụng để tài trợ cho mục đích tiêu dùng của từng cá nhân nên qui mô vốn của từng món vay thường là nhỏ so với những món vay với mục đích kinh doanh hoặc đầu tư của các tổ chức kinh tế. Điều này dẫn đến lượng khách hàng của hình thức tín dụng tiêu dùng là rất lớn. Chính vì nó thoả mãn nhu cầu của mỗi cá nhân trong xã hội mà mỗi người lại có những mục đích tiêu dùng khác nhau, khả năng tài chính khác nhau, nhu cầu vay vì thế cũng khác nhau. Nắm rõ đặc điểm này, các tổ chức tín dụng cho vay phải sắp xếp, bố trí lịch làm việc hợp lý để giải quyết được lượng khách hàng rất lớn đến để vay, trả nợ hàng tháng. b. Là hình thức tín dụng chứa đựng nhiều rủi ro nhưng đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng. Như ta đã biết, vay tiêu dùng phụ thuộc rất nhiều vào khả năng trả nợ của từng cá nhân, nó không phải là rủi ro do chủ quan từ phía người đi vay mà còn chịu ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp của các yếu tố khách quan như rủi ro về mất việc làm, bệnh tật, tai nạn, chết, các sự cố xảy ra trong gia đình... nhưng chính là vì số lượng khách hàng rất là nhiều nên những rủi ro này được phân tán, không tập trung vào một đầu mối nên giảm được những tổn thất lớn cho ngân hàng. Bên cạnh đó nó lại đem về cho ngân hàng một nguồn thu đáng kể từ lợi nhuận cho vay. Vì lãi suất do các ngân hàng sử dụng trong vay tiêu dùng ở mức lãi suất cố dịnh, trong đó đã tính đến việc loại trừ các yếu tố về rủi ro nên lãi suất vay tiêu dùng thường có xu hướng cao hơn lãi suất của các loại hình cho vay khác. Vì vậy đã giảm nhẹ được thiệt hại cho ngân hàng trong những trường hợp xảy ra rủi ro dẫn đến các tổn thất tín dụng, còn trong trường hợp không xảy ra rủi ro thì ngân hàng lại thu được một món lợi từ sự chênh lệch này. c. Đặc điểm tiếp theo là nhu cầu vay tiêu dùng phụ thuộc vào chu kỳ kinh tế, đây là món vay rât nhạy cảm với tình trạng “sức khoẻ” của nền kinh tế. Khi nền kinh tế mở rộng, tăng trưởng tốt và ổn định thì nhu cầu vay tiêu dùng tăng lên, vì mọi người cảm thấy lạc quan về tương lai nên sẵn sàng chi tiêu cho cuộc sống của mình. Và ngược lại, khi nền kinh tế lâm vào suy thoái, tâm lý chung của các cá nhân là không tin tưởng về cuộc sống tương lai, lo sợ tình trạng thất nghiệp xảy ra, nên họ sẽ tiết kiệm trong việc chi tiêu của mình và hạn chế tối đa trong việc vay mượn ngân hàng. d. Đặc điểm quan trọng cuối cùng, người vay tiêu dùng hầu như không quan tâm đến lãi suất vay vốn mà họ chỉ quan tâm đến số tiền phải trả trong mỗi kỳ, mặc dù lãi suất là yếu tố biểu hiện chi phí phải bỏ ra cho món vay đó. Vì đây là những món vay tiêu dùng, không vì mục đích kinh doanh nên người vay thường ít quan tâm đến chi phí phải trả này, hơn thế nữa, đối tượng vay ở đây lại là những lao động bình thường, họ ít am hiểu về các vấn đề của ngân hàng như lãi suất, ... điều quan tâm của họ đơn giản là món vay của họ có thoả mãn được nhu cầu của họ không và số tiền họ phải trả mỗi kỳ là bao nhiêu. 3. Phân loại Tín dụng Tiêu dùng. a. Căn cứ vào thời hạn tín dụng: - Tín dụng tiêu dùng ngắn hạn: là khoản vay với thời hạn dưới 12 tháng. Loại cho vay này áp dụng lãi suất ngắn hạn. - Tín dụng tiêu dùng trung hạn: thời hạn vay từ 1 năm đến 3 năm - Tín dụng tiêu dùng dài hạn: thời hạn vay từ 3 năm đến 10 năm. b. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: - Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu mua sắm, xây dựng hoặc cải tạo nhà ở của các cá nhân và hộ gia đình. - Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những chi phí mua sắm các chuyển động sản phục vụ đời sống như ô tô, xe máy, vật dụng gia đình... - Các khoản cho vay nhằm tài trợ cho những mục đích khác như chi phí học hành, giải trí và du lịch... c. Căn cứ vào phương thức cho vay: - Cho vay trả góp: là khoảng cho vay mà người vay vốn phải trả nợ vay (cả tiền gốc và lãi) cho tổ chức tín dụng làm nhiều kỳ liên tiếp như đã thoả thuận (thường là tháng hay quý). - Cho vay trả một lần: là khoảng cho vay mà người vay vốn chỉ thanh toán một lần với tổ chức tín dụng (cả tiền gốc và lãi) vào lúc đáo hạn hợp đồng theo thoả thuận của hai bên. Thông thường đây là những khoản vay có qui mô vốn vsy nhỏ đi kèm với thời hạn ngắn và sử dụng cho những mục đích như chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí, mua sắm những dụng cụ trong gia đình, các chi phí sữa chữa... d. Căn cứ vào góc độ nghiệp vụ: - Tín dụng tiêu dùng trực tiếp: là việc ngân hàng thực hiện phát vay trực tiếp cho người đi vay một số tiền mặt nhất định nhằm mục đích tiêu dùng. Và định kỳ người vay phải trả một số tiền theo quy định cho ngân hàng. - Tín dụng tiêu dùng gián tiếp: được thực hiện bằng cách các nhà sản xuất hay nhà cung ứng bán hàng hoá cho khách hàng và ngân hàng sẽ thanh toán thay người mua hàng. Đây là hình thức phối hợp giữa ngân hàng và các tổ chức bán lẻ hàng hoá. Sau đó, định kỳ ngân hàng sẽ thực hiện việc thu nợ từ người vay. 4. Sự cần thiết của Tín dụng Tiêu dùng. Việc cho vay tiêu dùng của ngân hàng có tác động, ảnh hưởng rất lớn đối với bản thân ngân hàng, cũng như đối với người tiêu dùng và nền kinh tế. - Đối với ngân hàng: cho vay tiêu dùng góp phần đa dạng hoá hoạt động tín dụng, phân tán rủi ro và tăng thêm thu nhập. Ngoài ra, thông qua cho vay tiêu dùng các ngân hàng có điều kiện thiết lập nhiều mối quan hệ mật thiết với các cá nhân cũng như các doanh nghiệp, tạo thuận lợi mở rộng thị phần phát triển dịch vụ ngân hàng và khả năng huy động vốn, tiền gửi từ dân cư. - Đối với người tiêu dùng: Nhờ vay tiêu dùng mà họ được hưởng các tiện ích trước khi tích luỹ đủ tiền, nhờ đó góp phần nâng cao mức sống, tạo niềm hưng phấn, tích cực lao động vì tương lai tốt đẹp và đặc biệt quan trọng hơn nó rất cần thiết cho những trường hợp khi cá nhân có các chi tiêu có tính cấp bách, như nhu cầu chi tiêu cho giáo dục và y tế. - Đối với nền kinh tế: Nếu cho vay tiêu dùng được dùng để tài trợ cho các chi tiêu hàng hoá và dịch vụ trong nước thì nó có tác dụng rất tốt cho việc kích cầu, tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, kích thích sản xuất phát triển. Song, nếu các khoản cho vay tiêu dùng không được dùng như vậy thì chẳng những không kích được cầu mà nhiều khi làm giảm khả năng tiết kiệm trong nước. PHẦN II: PHÂN TÍCH HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG A. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG TẠI NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG NĂM 2002. I. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NGÂN HÀNG Á CHÂU - ĐÀ NẴNG. 1. Giới thiệu về ngân hàng Á Châu - Việt Nam. Pháp lệnh ngân hàng ra đời năm1993 đã đưa hoạt động ngân hàng vào giai đoạn ổn định và phát triển. Hệ thống ngân hàng thương mại được hình thành và hoạt động rất có hiệu qua, góp phần đáp ứng đầy đủ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế đang tăng trưởng và phát triển. Trong thời gian này ngân hàng Á Châu ra đời theo quyết định số 6032/NH - CP cấp ngày 14/4/1993 của NHNN. Từ đó ngân hàng được khai trương và đi vào hoạt động vào ngày 04/6/1993, có tên tiếng Anh là Asia Commercial bank (ACB) có trụ sở chính tại 442 Nguyễn Thị Minh Khai, Quận 3,TPHCM và được gọi là Hội sở. Thời gian hoạt động là 30 năm. Năm 1996 ACB có 7 chi nhánh và 3 phòng giao dịch, hiện nay ngân hàng có 10 chi nhánh, 9 phòng giao dịch, một trung tâm thẻ và một công ty chứng khoán. Ngoài ra ACB còn có hệ thống giao dịch địa ốc gồm 6 chi nhánh và 3 phòng giao dịch. Vốn điều lệ ban đầu của ngân hàng ACB là 20 tỷ đồng thuộc sở hữu của 27 cổ đông. Trong 5 năm đầu hoạt động, ngân hàng đã có hai đợt tăng vốn điều lệ. Năm 1994 tăng lên 70 tỷ đồng, năm 1997 tăng lên 273 tỷ đồng (trong đó 25% là vốn của cổ đông nước ngoài). Hiện nay vốn điều lệ của ngân hàng là 353,711 tỷ đồng, là ngân hàng thương mại cổ phần có số vốn điều lệ cao nhất. Hiện nay, ngân hàng thiết lập được 1200 đại lý thanh toán thẻ tín dụng và chuyển tiền nhanh Wetern Union trong phạm vi cả nước, đồng thờiquan hệ với hơn 170 ngân hàng nước ngoài tạo ra mạng lưới thanh toán nhanh chóng và thuận lợi. 2. Sự ra đời và phát triển ngân hàng Á Châu - Đà Nẵng. Vào năm 1996, kinh tế Đà Nẵng có những bước tiến đáng kể, tốc độ tăng GDP bình quân tăng 14,4% so với năm 1995, thu nhập bình quân đầu người đạt 355 USD/ người/ năm. Ngoài vị trí địa lý thuận lợi, Đà Nẵng còn có nhiều tiềm năng về kinh tế xã hội để thu
Tài liệu liên quan