Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu hướng tất yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia với mong muốn cải thiện và tăng trưởng kinh tế đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó vì ngay khi chuyển hướng sang nền kinh tế đổi mới, chúng ta đã chọn con đường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tinh thần đa phương hoá, đa dạng hoá. Trên cơ sở đó, chúng ta cũng tự đặt ra cho mình con đường hội nhập kinh tế thế giới.
69 trang |
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1294 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích hoạt động tín dụng và các biện pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành - Đồng Tháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết hình thành đề tài:
Toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đang là một xu hướng tất yếu của chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhiều quốc gia với mong muốn cải thiện và tăng trưởng kinh tế đất nước. Việt Nam cũng không nằm ngoài quỹ đạo đó vì ngay khi chuyển hướng sang nền kinh tế đổi mới, chúng ta đã chọn con đường mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với tinh thần đa phương hoá, đa dạng hoá. Trên cơ sở đó, chúng ta cũng tự đặt ra cho mình con đường hội nhập kinh tế thế giới. Vì vai trò là mạch máu của nền kinh tế, ngành ngân hàng nước ta cũng không nằm ngoài quá trình đó, nhằm trang bị cho mình năng lực để đủ sức cạnh tranh với các đối thủ sẽ gia nhập vào nền kinh tế nước ta càng đông đảo (hiện nay có khoảng gần 70 chi nhánh ngân hàng nước ngoài đã có mặt tại Việt Nam, chủ yếu là của Singapo, Trung Quốc). Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Nhà nước chủ yếu vẫn là huy động vốn và cho vay, các sản phẩm dịch vụ được đưa ra và được thi trường chấp nhận vẫn còn manh mún, thiếu hấp dẫn và tiện lợi, chưa năng động vẫn còn tồn tại trong các ngân hàng thương mại.
Thực tế những năm gần đây, thị trường dịch vụ ngân hàng, đặc biệt là dịch vụ thẻ, thanh toán, chuyển tiền đã phát triển nhanh chóng, tốc độ tăng vượt bậc so với dự đoán của nhiều người. Vì vậy, việc xây dựng chiến lược phát triển dịch vụ ngân hàng cần phải quan tâm nhiều hơn nữa đến việc mở rộng các hình thức tín dụng.
Hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế thị trường là hoạt động kinh doanh với mục đích là lợi nhuận, ổn định nền kinh tế - xã hội... Muốn thu được lợi nhuận cao thì vấn đề then chốt là quản lý tốt các khoản mục tài sản có, nhất là khoản mục cho vay và đầu tư, cũng như các hoạt động trung gian khác. Tuy nhiên, muốn tăng lợi nhuận thì ngân hàng cũng cần phải tăng thu nhập bằng cách mở rộng tín dụng, tăng cường đầu tư và đa dạng hoá các hoạt động dịch vụ ngân hàng.
Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành là một trong khoảng 1.800 chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp Việt Nam đang hoạt động khắp trên mọi miền đất nước, đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền địa phương và các ban ngành đoàn thể, đặc biệt là với hội nông dân đã nhanh chóng tuyên truyền, tạo điều kiện giúp đỡ, hỗ trợ về vốn cho nhiều hộ nông dân thoát nghèo, vươn lên khá giàu, gắn kết việc xác định mục tiêu sản xuất kinh doanh với việc xây dựng và phát triển cộng đồng dân cư trong việc phát triển nông nghiệp – nông thôn và đô thị mới một cách sáng tạo, hiệu quả.
Với thực trạng như trên, ngành ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam nói chung cũng như ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành nói riêng phải đối mặt với những thách thức to lớn, đó là sự cạnh tranh quyết liệt trong hoạt động kinh doanh tiền tệ. Với huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp hiện nay, sự có mặt của nhiều ngân hàng thương mại khác trên địa bàn như: Ngân hàng công thương, Ngân hàng phát triển nhà ĐBSCL, Ngân hàng Phương Nam… Đòi hỏi ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành phải có định hướng phát triển hoạt động kinh doanh cho riêng mình nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh.
Chúng ta không thể không khẳng định là nhờ vốn tín dụng ngân hàng mà ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành đã đánh thức tiềm năng kinh tế, khơi dậy động lực phát triển kinh tế hộ nông dân, góp phần thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu cây trồng vật nuôi…Như vậy, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng nói chung và của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành nói riêng là hoạt động chủ yếu nhất, vì vậy chúng ta cần tận dụng được ưu điểm này để mở rộng nó theo chiều hướng tốt nhất cho cả người cho vay lẫn người đi vay. Vì vậy, việc “Phân tích hoạt động tín dụng và các biện pháp mở rộng tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành - Đồng Tháp” là đề tài mà em đã chọn để viết luận văn tốt nghiệp, nhằm tìm hiểu và đóng góp một phần nhỏ ý kiến cá nhân của mình trong hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành.
2. Mục tiêu nghiên cứu:
Luận văn này chủ yếu là tập trung nghiên cứu và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành trong những năm qua để tổng kết lại và rút ra những gì đã đạt được, những vấn đề còn tồn đọng lại, chưa được giải quyết thoả đáng, phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng, mà cụ thể là của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Châu Thành trong hoạt động tín dụng, để trên cơ sở đó, đưa ra một số biện pháp nhằm mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng.
3. Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn này được hoàn thành dựa trên cơ sở những kiến thức đã học ở trường và từ thực tế trong thời gian thực tập tại ngân hàng, và đã sử dụng các phương pháp phân tích chủ yếu sau:
- Thu thập số liệu từ các báo cáo và những tài liệu có liên quan của ngân hàng, và các thông tin từ báo, đài, mạng internet.
- Nghiên cứu dựa vào thảo luận và trao đổi ý kiến với các anh chị, cô, chú trong cơ quan thực tập và với các bạn sinh viên cùng thực tập.
- Sử dụng phương pháp phân tích thống kê và so sánh sự biến động số liệu qua các năm.
- Dùng các phần mềm tin học ứng dụng: word, exel để trình bày và tính toán trong nghiên cứu và phân tích.
4. Giới hạn đề tài:
Do lĩnh vực hoạt động của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khá đa dạng và phong phú, đồng thời do thời gian và kiến thức của em đã tiếp thu được còn hạn chế, vì thế em không thể phân tích sâu sắc tất cả các hoạt động của ngân hàng. Nên phạm vi đề tài chỉ tập trung vào việc phân tích tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn chi nhánh huyện Châu Thành qua ba năm gần đây nhất, và đưa ra các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại ngân hàng.
PHẦN NỘI DUNG CHÍNH
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
I. Lý thuyết về tín dụng và hệ thống tín dụng:
1. Khái niệm tín dụng:
Tín dụng ra đời cùng với sự xuất hiện tiền tệ. Khi một chủ thể kinh tế cần một lượng hàng hoá cho nhu cầu tiêu dùng hoặc sản xuất trong khi chưa có tiền hoặc số tiền không đủ để đáp ứng cho nhu cầu thì có thể sử dụng hình thức vay mượn để đáp ứng cho nhu cầu đó. Có hai cách vay mượn: vay chính loại hàng hoá đang có nhu cầu hoặc vay tiền để mua loại hàng hoá đó. Quan hệ vay mượn như vậy gọi là quan hệ tín dụng.
Tín dụng là quan hệ vay mượn vốn lẫn nhau dựa trên sự tin tưởng, số vốn đó sẽ được hoàn lại vào một ngày xác định trong tương lai. Có thể định nghĩa quan hệ tín dụng một cách đầy đủ như sau: Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu sang người sử dụng để sau một thời gian nhất định thu hồi về một lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.
1.1. Những đặc trưng của quan hệ tín dụng:
- Thứ nhất là quan hệ chuyển nhượng mang tính chất tạm thời.
- Thứ hai là tín dụng có tính hoàn trả.
- Thứ ba là quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở tin tưởng giữa người đi vay và người cho vay.
1.2. Cơ sở khách quan của quan hệ tín dụng:
Cơ sở khách quan của sự ra đời và phát triển quan hệ tín dụng là mâu thuẫn vốn có của quá trình tuần hoàn vốn tiền tệ trong xã hội, đó là: Cùng một lúc có chủ thể kinh tế tạm thời dư thừa một khoản vốn tiền tệ trong khi các chủ thể kinh tế khác lại có nhu cầu cần bổ sung vốn. Nếu tình trạng này không được giải quyết thì quá trình sản xuất có thể bị ngưng trệ ở chủ thể này trong khi vốn đang nằm im ở các chủ thể khác. Kết quả là nguồn lực của xã hội không được sử dụng một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục.
Tình trạng thừa thiếu vốn so với nhu cầu xảy ra thường xuyên trong quá trình hoạt động các chủ thể kinh tế trong xã hội xuất phát từ sự không ăn khớp giữa thu nhập và chi tiêu về thời gian cũng như khối lượng.
- Sự không trùng khớp giữa thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình.
Các nguồn thu nhập của hộ gia đình bao gồm: tiền lương định kỳ, các khoản biếu tặng, thừa kế, lãi đầu tư… Nhu cầu chi tiêu bao gồm: chi tiêu thường xuyên cho nhu cầu sinh hoạt, chi không thường xuyên do những nhu cấu đột xuất. Thông thường, thời gian và khối lượng nguồn thu nhập không trùng hợp với nhu cầu chi tiêu dẫn đến hiện tượng thừa tiền tạm thời vào thời gian này và tạm thời thiếu tiền vào thời gian khác. Hiện tượng khách quan này đòi hỏi các chủ thể này phải thực hiện hành vi vay mượn để giải quyết có hiệu quả nhất sự thiếu trùng khớp tạm thời giữa thu nhập và chi tiêu. Xét trên phạm vi toàn xã hội, hộ gia đình luôn là chủ thể cung ứng vốn tạm thời nhàn rỗi cho các chủ thể khác thông qua bộ phận tiết kiệm.
- Sự không trùng khớp giữa thu nhập và chi tiêu trong quá trình kinh doanh của các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Một chu kì kinh doanh có thể được chia thành ba giai đoạn: giai đoạn dự trữ, sản xuất và tiêu thụ với đặc điểm khác nhau về thu nhập và chi tiêu làm cho một doanh nghiệp có thể thừa vốn ở giai đoạn này nhưng lại trở thành chủ thể thiếu vốn ở giai đoạn khác. Trong giai đoạn dự trữ, Doanh nghiệp có nhu cầu chi tiêu mua sắm rất lớn nhưng lại chưa có thu nhập. Đây là giai đoạn doanh nghiệp phải đi vay để bổ sung nhu cầu vốn cho các khoản chi mua nguyên vật liệu mua sắm máy móc thiết bị, thuê công nhân. Nhu cầu đi vay giảm xuống khi doanh nghiệp bước vào quá trình sản xuất. Trong giai đoạn này, nhu cầu chi tiêu chỉ nhằm mục đích bảo dưỡng máy móc, quản lí qui trình sản xuất. Giai đoạn tiêu thụ sản phẩm là giai đoạn có thu nhập lớn hơn chi tiêu và doanh nghiệp thường đóng vai trò cho vay trong giai đoạn này. Vốn nhàn rỗi ở các doanh nghiệp thể hiện dưới dạng quỹ khấu hao chưa dùng đến, hoặc do chênh lệch về số lượng và thời gian tiêu thụ sản phẩm và thời gian mua nguyên liệu, do những khoản phải trả nhưng chưa đến kỳ trả, và các khoản phải nộp nhưng chưa đến kỳ nộp. Đặc điểm vốn nhàn rỗi của doanh nghiệp là rất ngắn hạn, về mặt dài hạn doanh nghiệp luôn luôn là chủ thể có nhu cầu bổ sung vốn.
- Sự không trùng khớp giữa thu và chi ngân sách nhà nước.
Nguồn thu ngân sách Nhà nước chủ yếu được hình thành từ thuế, các nghĩa vụ đóng góp khác hoặc từ nguồn thu bán tài sản của Nhà nước thường mang tính chất định kì theo tháng, quý. Trong khi đó các nhu cầu chi tiêu của ngân sách lại diễn ra thường xuyên cho các mục đích: chi quản lí hành chính, chi phúc lợi, chi đầu tư cho các công trình trọng điểm. Do đó, Nhà nước cũng có nhu cầu vay vốn khi thiếu hụt và là nguồn cung ứng vốn khi ngân sách dư thừa tạm thời, trường hợp phổ biến là thu ngân sách không đáp ứng được nhu cầu chi tiêu và ngân sách rơi vào tình trạng bội chi đòi hỏi phải có nguồn vốn tiết kiệm đáp ứng.
Các khoản vốn nhàn rỗi tạm thời cũng như những nhu cầu vốn phát sinh rất đa dạng về thời gian, số lượng, yêu cầu tính lỏng, mức rủi ro. Sự phát triển các hình thức tín dụng phong phú cho phép thoả mãn yêu cầu chuyển nhượng vốn phức tạp này. Bằng cách đó, tín dụng thực chất là chiếc cầu nối liền nhu cầu tiết kiệm với nhu cầu đầu tư của xã hội.
1.3. Sự phát triển của tín dụng:
- Từ tín dụng thương mại đến tín dụng ngân hàng
- Từ tín dụng nặng lãi đến tín dụng thị trường có cạnh tranh hoàn hảo
- Từ tín dụng ngân hàng đến thị trường tài chính
- Từ tín dụng nội địa đến tín dụng quốc tế
2. Các hình thức tín dụng:
2.1. Căn cứ vào thời hạn tín dụng:
- Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới 12 tháng và thường được sử dụng để cho vay thiếu hụt lưu động tạm thời của các doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt của cá nhân.
- Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn trên 60 tháng và được sử dụng để cung cấp vốn cho các doanh nghiệp vào các vấn đề như: xây dựng cơ bản, đầu tư xây dựng các xí nghiệp mới, các công trình thuộc cơ sở hạ tầng, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.
- Tín dụng trung hạn: là loại tín dụng có thời hạn giữa hai kỳ hạn trên, loại tín dụng này được cung cấp để mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh.
2.2. Căn cứ vào đối tượng tín dụng:
- Tín dụng vốn lưu động: là loại tín dụng được dùng hình thành vốn lưu động của các tổ chức kinh tế như cho dự trữ hàng hoá đối với các doanh nghiệp thương nghiệp, cho vay để mua phân bón, giống, thuốc trừ sâu đối với các hộ sản xuất nông nghiệp. Tín dụng vốn lưu động thường dùng để cho vay bù đắp mức vốn lưu động thiếu hụt tạm thời, loại tín dụng này thường được chia ra làm các loại sau: cho vay dự trữ hàng hoá, cho vay để thanh toán các khoản nợ hình thức chiết khấu thương phiếu.
- Tín dụng vốn cố định: là loại tín dụng được dùng hình thành tài sản cố định, loại tín dụng này thường dùng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến và đổi mới kỹ thuật, mở rộng sản xuất, xây dựng các xí nghiệp và công trình mới, thời hạn cho vay đối với loại tín dụng này là trung hạn và dài hạn.
2.3. Căn cứ vào mục đích sử dụng:
- Tín dụng sản xuất và lưu thông hàng hoá: là hình thức tín dụng dành cho các doanh nghiệp và chủ thể kinh doanh khác để tiến hành sản xuất hàng hoá và lưu thông hàng hoá.
- Tín dụng tiêu dùng: Là hình thức tín dụng dành cho cá nhân để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng.
2.4. Căn cứ vào chủ thể trong quan hệ tín dụng:
- Tín dụng thương mại: là quan hệ tín dụng giữa các doanh nghiệp, được biểu hiện dưới hình thức mua bán chịu hàng hoá, trong đó người cho vay là người bán chịu hàng hoá vì đã chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng lượng giá trị hàng hoá bán chịu cho người mua.
- Tín dụng ngân hàng: là quan hệ tín dụng giữa ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác với các nhà doanh nghiệp và cá nhân, trong đó ngân hàng là người giữ vai trò vừa là người đi vay vừa là người cho vay.
- Tín dụng nhà nước: là quan hệ tín dụng được thực hiện dưới hình thức tiền tệ hoặc hiện vật giữa một bên là nhà nước và một bên là các chủ thể kinh tế khác trong xã hội, trong đó Nhà nước biểu hiện là người đi vay.
- Tín dụng doanh nghiệp: là quan hệ tín dụng trực tiếp giữa các doanh nghiệp và công chúng. Quan hệ vay mượn này được thể hiện dưới hai hình thức hoàn toàn khác nhau: quan hệ tín dụng tiêu dùng và quan hệ tín dụng giữa doanh nghiệp và công chúng với tư cách là người tiết kiệm.
II. Vai trò và chức năng - tác dụng của tín dụng:
1. Vai trò của tín dụng:
1.1. Tín dụng góp phần thúc đẩy quá trình tái sản xuất xã hội:
- Thứ nhất: vai trò quan trọng nhất của tín dụng là cung ứng vốn một cách kịp thời cho các nhu cầu sản xuất và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế trong xã hội.
- Thứ hai: làm thoả mãn nhu cầu đa dạng về vốn của nền kinh tế và làm cho sự tiếp cận các nguồn vốn tín dụng trở nên dễ dàng, tiết kiệm chi phí giao dịch và giảm bớt các chi phí nguồn vốn cho các chủ thể kinh doanh.
- Thứ ba: Tạo sự chủ động cho các doanh nghiệp trong việc thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh khi nó không phải phụ thuộc quá nhiều vào nguồn vốn tự có của bản thân, nhằm tìm kiếm cơ hội đầu tư mới và nâng cao năng lực sản xuất của xã hội.
- Thư tư: làm cho người đi vay thực sự quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo mối quan hệ lâu dài với các tổ chức cung ứng tín dụng.
1.2. Tín dụng là kênh chuyển tải tác động của nhà nước đến các mục tiêu vĩ mô:
Thông qua việc thay đổi và điều chỉnh các điều kiện tín dụng, nhà nước có thể thay đổi quy mô tín dụng hoặc chuyển hướng vận động của nguồn vốn tín dụng, ảnh hưởng đến tổng cầu của nền kinh tế, từ đó ảnh hưởng đến tổng cung và các điều kiện sản xuất khác. Điểm cân bằng cuối cùng giữa tổng cung và tổng cầu dưới tác động của chính sách tín dụng sẽ cho phép đạt được các mục tiêu vĩ mô cần thiết.
1.3. Tín dụng là công cụ thực hiện các chính sách xã hội:
Các chính sách xã hội về mặt bản chất được đáp ứng bằng nguồn tài trợ không hoàn lại từ Ngân sách Nhà nước. Song, phương thức tài trợ không hoàn lại thường bị hạn chế về quy mô và thiếu hiệu quả. Để khắc phục hạn chế này, phương thức tài trợ không hoàn lại có xu hướng bị thay thế bởi phương thức tài trợ có hoàn lại của tín dụng nhằm duy trì nguồn cung cấp tài chính và có điều kiện mở rộng quy mô tín dụng chính sách. Chẳng hạn việc tài trợ vốn cho người nghèo với lãi suất thấp. Thông qua phương thức tài trợ này, các mục tiêu chính sách được đáp ứng một cách chủ động và hiệu quả hơn. Khi các đối tượng chính sách buộc phải quan tâm đến hiệu quả sử dụng vốn để đảm bảo hoàn trả đúng thời hạn thì kỹ năng lao động của họ cũng sẽ được cải thiện từng bước. Đây là sự đảm bảo chắc chắn cho sự ổn định tài chính của các đối tượng chính sách và từng bước làm cho họ có thể tồn tại độc lập với nguồn vốn tài trợ. Đó chính là mục đích cho việc sử dụng phương thức tài trợ các mục tiêu chính sách bằng con đường tài trợ.
2. Chức năng – tác dụng của tín dụng:
2.1. Chức năng phân phối lại vốn tiền tệ trong phạm vi toàn xã hội:
Chức năng phân phối lại vốn tiền tệ là tín dụng thực hiện việc di chuyển các khoản vốn tạm thời nhàn rỗi đến những nơi phát sinh nhu cầu về vốn. Và như vậy vốn được giao cho người sử dụng có hiệu quả nhất. Bằng cách đó, tín dụng góp phần vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả kinh doanh của xã hội.
2.2. Chức năng thanh khoản:
Chức năng thanh khoản của tín dụng là chức năng cổ xưa nhất của tín dụng. Nó xuất phát từ chỗ các nhà kinh doanh muốn có một khoản tiền để trả cho một ai đó, nhưng họ không có số tiền đó, nên họ đến một ngân hàng nào đó để xin cấp một khoản tín dụng. Khoản tín dụng này được chuyển vào tài khoản của người thụ hưởng để trả nợ của người xin vay.
Khi món nợ tín dụng đáo hạn, người xin vay phải nộp vào ngân hàng cho vay số tiền cần thiết để trả nợ và lãi cho ngân hàng và quan hệ tín dụng được chấm dứt.
2.3. Chức năng tạo tiền:
Tín dụng không những tạo ra thanh khoản, mà nó còn làm cho số lượng phương tiện lưu thông và thanh toán trong nền kinh tế tăng lên. Khi một ngân hàng cấp một khoản tín dụng thì điều đó cũng đồng nghĩa với việc nó tạo ra một khoản tiền cung ứng thêm trong nền kinh tế.
Để ngăn chặn bớt khả năng tạo tiền thông qua việc cấp tín dung, các ngân hàng trung ương đều có quy định dự trữ bắt buộc là 10% cho khoản tiền gửi mà các tổ chức tín dụng phải chấp hành. Còn 90% số dư tiền gởi nhận được thì các tổ chức tín dụng được cấp tín dụng.
Ngân hàng trung ương chịu trách nhiệm điều tiết khối lượng tiền cung ứng cho nền kinh tế thông qua việc sử dụng các công cụ có thể tác động gián tiếp đến khối tín dụng mà các ngân hàng thương mại cung cấp cho nền kinh tế như: dự trữ bắt buộc, chính sách tái chiết khấu, dự trữ bắt buộc hoặc tỷ lệ dư nợ tín dụng trên số dư tiền gởi của các ngân hàng thương mại.
Tóm lại:
- Tín dụng là quan hệ vay mượn dựa trên nguyên tắc có hoàn trả. Những đặc trưng của quan hệ tín dụng là: chuyển nhượng quyền sử dụng vốn, tin tưởng và có hoàn trả.
- Quan hệ tín dụng ra đời và tồn tại xuất phát từ đòi hỏi khách quan của quá trình tuần hoàn vốn để giải quyết hiện tượng thừa, thiếu vốn diễn ra thường xuyên giữa các chủ thể kinh tế trong xã hội.
- Các quan hệ tín dụng được tổ chức thành hệ thống và có mối quan hệ hỗ trợ nhau nhằm đảm bảo hiệu quả của sự dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Các loại hình tín dụng trong hệ thống bao gồm: tín dụng thượng mại, tín dụng ngân hàng, tín dụng Nhà nước và tín dụng doanh nghiệp.
- Thông qua chức năng phân phối lại vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi trong phạm vi toàn xã hội, tín dụng được sử dụng như là kênh chuyển tải tác động của Nhà nước đối với các mục tiêu vĩ mô và là công cụ có hiệu quả để thực hiện các mục tiêu chính sách trong từng thời kì.
III. Các chỉ tiêu dùng để phân tích và đánh giá hoạt động tín dụng của ngân hàng:
1. Doanh số cho vay:
Hoạt động cho vay là hoạt động chính yếu và quan trọng nhất của bất cứ một ngân hàng thương mại nào. Sự chuyển hoá từ vốn tiền sang vốn tín dụng để bổ sung cho nhu cầu sản xuất kinh doanh trong nền kinh tế không chỉ có ý nghĩa đối với nền kinh tế mà cả đối với bản thân ngân hàng. Bởi vì nhờ cho vay mà tạo ra nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng để từ đó bồi hoàn lại tiền gửi của khách hàng, bù đắp các chi phí kinh doanh và tạo ra lợi nhuậ