Đề tài Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu

Thuế nhập khẩu là một đạo luật thuế vô cùng quan trọng của bất kỳ quốc gia nào và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta hiện nay có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Sau đây bài làm của em sẽ đi tìm hiểu có yếu tố này từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện, tạo điều kiện cho thuế nhập khẩu được thực thi trên thực tế một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất.

doc17 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 2098 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu và đề xuất ý kiến pháp lý nhằm thực thi tốt pháp luật thuế nhập khẩu MỤC LỤC DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................16 A) ĐẶT VẤN ĐỀ Thuế nhập khẩu là một đạo luật thuế vô cùng quan trọng của bất kỳ quốc gia nào và Việt Nam không phải là một ngoại lệ. Thuế nhập khẩu đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, bảo hộ nền sản xuất trong nước và chống lại xu hướng cạnh tranh không cân sức giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa ngoại nhập. Tuy nhiên trên thực tế ở nước ta hiện nay có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Sau đây bài làm của em sẽ đi tìm hiểu có yếu tố này từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn thiện, tạo điều kiện cho thuế nhập khẩu được thực thi trên thực tế một cách tốt nhất và đạt hiệu quả cao nhất. Trong bài làm của em chắc chắn còn nhiều thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! B) GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I) Khái niệm thuế nhập khẩu và pháp luật thuế nhập khẩu 1) Khái niệm thuế nhập khẩu Có nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm thuế nhập khẩu, tùy thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Xét về phương diện kinh tế, thuế nhập khẩu được quan niệm là khoản đóng góp bằng tiền của tổ chức, cá nhân vào ngân sách nhà nước theo quy định của pháp luật, khi họ có hành vi nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài vào trong nước. Với cách tiếp cận này, thuế nhập khẩu được quan niệm như một quan hệ phân phối các nguồn lực tài chính, phát sinh giữa chủ thế là tổ chức, cá nhân nộp thuế với người thu thuế là Nhà nước. Mặt khác thuế nhập khẩu còn được hiểu như là đòn bẩy kinh tế hay biện pháp kinh tế để Nhà nước điều tiết trực tiếp đối với quá trình sản xuất, tiêu dùng trong phạm vi mỗi quốc gia và chi phối một cách gián tiếp đối với hoạt động kinh tế trên phạm vi khu vực và toàn cầu. Xét về phương diện pháp lí, thuế nhập khẩu được hiểu là quan hệ pháp luật phát sinh giữa nhà nước (người thu thuế) với tổ chức, cá nhân (người nộp thuế) về việc tạo lập và thực hiện các quyền, nghĩa vụ pháp lý cho các bên trong quá trình hành thu thuế nhập khẩu. Quan hệ pháp luật này phát sinh từ cơ sở pháp lý là đạo luật thuế xuất khaaurm thuế nhập khẩu do Quốc hội ban hành. 2) Khái niệm pháp luật về thuế nhập khẩu Pháp luật thuế nhập khẩu là danh từ pháp lý dùng để chỉ tập hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký, kê khai, tính thuế, nộp thuế, quyết toán thuế, hoàn thuế, miễn giảm thuế và xử lí các vi phạm, tranh chấp về thuế nhập khẩu, phát sinh giữa Nhà nước với người nộp thuế. Xét từ phương diện hình thức, pháp luật vể thuế nhập khẩu bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật như văn bản luật, nghị quyết của Quốc hội; nghị định và nghị quyết của chính phủ; quyết định và chỉ thị của Thủ tướng; quyết định, thông tư và chỉ thị của các bộ… Hiện nay Việt Nam đang tích cực hội nhập quốc tế, do vậy ngoài các quy định của pháp luật trong nước thì pháp luật thuế nhập khẩu còn bao hàm cả các quy định trong pháp luật quốc tế có liên quan trực tiếp đến vấn đề thuế nhập khẩu, ví dụ như: Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ; hiệp định WTO hiện hành… Xét về phương diện nội dung, pháp luật về thuế nhập khẩu lại bao hàm các vấn đề chủ yếu như: phạm vi áp dụng (được thể hiện thông qua các quy định về chủ thể nộp thuế, đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế); căn cứ tính thuế; trình tự, thủ tục tiến hành thu thuế; chế độ miễn giảm thuế; hoàn thuế, xử lý vi phạm và giải quyết tranh chấp… II) Thực trạng áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 1) Những kết quả đạt được trong quá trình áp dụng pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam Sau khi luật thuế nhập khẩu ra đời cùng với việc Việt Nam chính thức gia nhập WTO pháp luật thuế nhập khẩu đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận: Luật thuế nhập khẩu ra đời tạo nên hành lang pháp lí vững chắc cho việc thực hiện các chính sách về thuế quan góp phần thúc đẩy hoạt động nhập khẩu hàng hóa. Khi chính sách về thuế nhập khẩu ngày càng được mở rộng, mức độ mở cửa thị trường ngày càng cao đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tiến hành cải tiến khoa học kĩ thuật, nâng cao năng suất cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu. Có thể nói pháp luật thuế nhập khẩu hiện nay đã phản ánh được các chủ trương mở rộng kinh tế quốc tế, mở rộng ngoại giao “hợp tác cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau”. Với những quy định xóa bỏ hàng rào thuế quan, xác định giá tính thuế phù hợp với pháp luật quốc tế đã làm cho hoạt động nhập khẩu hàng hóa diễn ra một cách dễ dàng hơn. Tác dụng này được chứng minh trong thực tế hiện nay chúng ta có mối quan hệ về kinh tế với hầu hết các quốc gia. Pháp luật nhập khẩu đã tạo môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài, từ đó thúc đẩy quan hệ ngoại giao của nhà nước. Pháp luật thuế đã thể hiện được vai trò là công cụ điều tiết, bảo hộ nền kinh tế trong nước. Từ năm 2008 đến nay nước ta luôn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu nên lạm phát tăng cao, giá cả leo thang, cuộc sống của người dân ngày càng khó khăn. Thông qua pháp luật thuế nhập khẩu mà nhà nước liên tục điều chỉnh thuế nhập khẩu về các mặt hành thiết yếu như Thông tư số 07/2011/TT-BTC ngày 14/1/2010, mức thuế suất nhập khẩu đối với mặt hàng nhập khẩu giảm từ 6% xuống 0%, dầu hỏa (Kerosene) giảm từ 6% xuống 2%; dầu diesel từ 2% xuống còn 0%. Với sự điều chỉnh này đã phần nào giảm bớt gánh nặng cho người tiêu dùng. Với việc thực thi tốt luật thuế nhập khẩu đã góp phần tạo nguồn thu ổn định cho nhân sách nhà nước. Trong những năm gần đây ngành hải quan luôn nỗ lực hết mình để hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước được Đảng và Nhà nước giao phó. Trong nguồn thu hàng năm của ngành hải quan thì thu từ thuế nhập khẩu luôn chiếm một tỷ lệ cao. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tính từ 1/1/2011 đến ngày 31/3/2011 thu ngân sách nhà nước của ngành hải quan ước đạt 44.000 tỷ đồng, tăng khoảng 12.6% so với cùng kì năm 2010.   Trên phương diện hiện đại hóa hoạt động, Tổng cục Hải quan đã chỉ đạo các đơn vị Hải quan địa phương tích cực triển khai kế hoạch mở rộng Hải quan điện tử . Đây là một công cụ hữu hiệu, tạo nên bước phát triển vượt bậc của ngành Hải quan trong thời gian qua. Quy trình thông quan đã được tự động hóa một phần, doanh nghiệp tạo thông tin khai báo trên hệ thống máy tính của mình, gửi thông tin cho Chi cục Hải quan điện tử và nhận thông tin phản hồi từ hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan. Hệ thống xử lý dữ liệu hải quan điện tử tự động tiếp nhận thông tin khai báo, tự động kiểm tra tính hợp chuẩn, hợp lệ của thông tin khai báo dựa trên một số thông tin chuẩn hóa được cải đặt trong hệ thống và tự động phản hồi kết quả xử lý của cơ quan Hải quan cho doanh nghiệp. Theo đánh giá của Tổng cục Hải quan, Luật Thuế xuất, nhập khẩu 2005 đã góp phần đáng kể, đẩy mạnh sự minh bạch trong hoạt động hải quan, theo hướng hiện đại phù hợp thông lệ quốc tế. Các văn bản quy phạm pháp luật về Hải quan khi soạn thảo  được lấy ý kiến cộng đồng doanh nghiệp. Khi ban hành được phổ biến, niêm yết công khai tại các điểm làm thủ tục hải quan, để doanh nghiệp nắm vững và giám sát và quyền khiếu nại, thậm chí có thể tố cáo những biểu hiện không minh bạch của công chức hải quan.  Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu cũng quy định nội dung về khiếu nại và giải quyết khiếu nại. Người khiếu nại về thuế có quyền lựa chọn khiếu nại theo con đường hành chính hoặc khởi kiện tại tòa án để bảo đảm sự minh bạch và công bằng, đặc biệt trong khiếu nại về xác định trị giá tính thuế hàng nhập khẩu.   Phương pháp quản lý hải quan truyền thống được chuyển sang phương pháp quản lý hải quan hiện đại dựa vào kỹ thuật quản lý rủi ro, rút ngắn thời gian thông quan. Kỹ thuật quản lý rủi ro bước đầu đã được ngành Hải quan thực hiện trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hoá xuất nhập khẩu thương mại, trong quá trình thông quan và sau thông quan. Hiện nay ngành Hải quan đã xây dựng bộ tiêu chí rủi ro gồm 75 tiêu chí, trong đó 56 tiêu chí được cập nhật thường xuyên, gồm các tiêu chí quan trọng như: ưu tiên, phân loại doanh nghiệp, hàng hóa, xuất xứ, hình thức thanh toán, hình thức xuất nhập khẩu... Như vậy, có thể khẳng định, từ khi được ban hành năm 2005, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu nói chung và pháp luật về thuế nhập khẩu nói riêng đã đạt được những thành tựu quan trọng. 2) Một số điểm còn bất cập tồn tại trong quá trình thực hiện pháp luật thuế nhập khẩu   Trong bối cảnh hội nhập kinh tế - quốc tế như hiện nay, đặc biệt là sau khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO vào tháng 1/2007, pháp luật về thuế nhập khẩu đã có nhiều điểm không còn phù hợp, gây khó khăn trong việc thực thi trên thực tế. Ví dụ như pháp luật còn nhiều bất cập, kẽ hở, thủ tục còn rườn rà, chưa thống nhất và đồng bộ theo cam kết quốc tế; cơ sở vật chất kĩ thuật còn nghèo nàn khiến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu càng khó khăn…Với những điều kiện béo bở như trên, việc trốn thuế đã trở nên ngày càng phổ biến. Theo thống kê của ngành hải quan, tính trong năm 2009, có gần 1.000 doanh nghiệp trốn thuế, số tiền nợ đọng thuế lên tới hơn 3.000 tỉ đồng. Sau khi phân loại, khoảng 2.500 tỉ đồng được xếp vào dạng nợ khó đòi... Để khắc phục tình trạng trốn thuế cần phải tìm ra căn nguyên của nó sau đó mới có thể đưa ra các giải pháp khắc phục. Sau đây, bài làm của em sẽ đi tìm hiểu cụ thể về các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay. III) Những yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu ở Việt Nam hiện nay 1) Pháp luật chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập, kẽ hở. + Thứ nhất: Có nhiều quy định còn chưa thống nhất, nhiều quy định của luật còn gây khó hiểu như quy định về thuế suất thông thường là không quá 70% thuế suất ưu đãi (điểm c khoản 2 điều 10 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005). Theo cách tư duy ngôn ngữ của người Việt thì quy định này dễ gây hiểu sang hướng thuế suất thông thường thấp hơn thuế suất ưu đãi, tức là thuế suất thông thường tối đã bằng 70% thuế suất ưu đãi chứ không phải là 170% theo cách hiểu của nhà làm luật. Theo quy định này Bộ tài chính chỉ có thể áp dụng mức thuế suất trong khoảng từ 100% đến 170% so với thuế suất ưu đãi của loại hàng hóa tương ứng. Nhưng theo quy định tại điều 92 thông tư 194/2010/TT-BTC ban hành ngày 06/12/2010 thì: “Thuế suất thông thường được áp dụng thống nhất bằng 150% mức thuế suất ưu đãi của từng mặt hàng tương ứng quy định tại Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi”. Như vậy việc áp dụng quy định này là chưa linh hoạt, chưa thực sự hợp lí với những loại hàng hóa nhập khẩu khác nhau. Đồng thời, với những quy định mâu thuẫn nhau như vậy sẽ gây khó khăn trong việc thực thi pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Các cá nhân có thẩm quyền sẽ lúng túng khi phải lựa chọn áp dụng Luật hay Nghị định. Theo khoa học pháp lý thì Luật có hiệu lực pháp lý cao hơn Nghị định do vậy sẽ ưu tiên áp dụng Luật, tuy nhiên trên thực tế Nghị định lại là văn bản hướng dẫn Luật, do vậy sẽ có nhiều quy định sát thực với thực tế hơn nên trên thực tế lại ưu tiên áp dụng luật. Điều này sẽ tạo ra sự không thống nhất trong toàn bộ hệ thống, do vậy việc quy định mâu thuẫn như vậy ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả thực thi của pháp luật thuế nhập khẩu trên thực tế. Những quy định của pháp luật thuế còn chồng chéo, gây khó khăn cho việc thực hiện và thực tế quản lí. Như quy định tại điều 15 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu năm 2005 đã đề ra những thời hạn nộp thuế rõ ràng trong khi khoản 1 điều 28 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 lại quy định về kiểm tra, đăng kí hồ sơ hải quan lấy tiêu chí ý thức chấp hành tốt luật này là chính. Khi thực hiện việc thu thuế sẽ gây ra những chồng chéo, phức tạp nhất định cho cả chủ thể nộp thuế và cơ quan thu thuế. + Thứ hai: Hệ thống văn bản pháp luật chưa đầy đủ, giá trị pháp lý của các văn bản pháp luật cũng chưa tương xứng với các nội dung điều chỉnh. Trong tình hình hội nhập kinh tế - quốc tế hiện nay, phạm vi của các hoạt động thương mại là rất lớn, có nhiều loại hàng hóa nhập khẩu vào nước ta. Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đã có những quy định về các biện pháp về thuế bổ sung bổ sung như thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp, thuế chống phân biệt đối xử trong nhập khẩu hàng hóa. Bảo hộ nền sản xuất trong nước là một nội dung quan trọng của pháp luật thuế nhập khẩu nhưng trên thực tế hiện nay Ủy ban thường vụ quốc hội đã ban hành Pháp lệnh về thuế tự vệ năm 2002, Pháp lệnh về thuế chống bán phá giá và Pháp lệnh về thuế trợ cấp, Pháp lệnh về đối xử tối huệ quốc, đối xử quốc gia trong thương mại quốc tế. Chính phủ đã ban hành các Nghị định hướng dẫn thi hành nhưng có một số quy định chưa phù hợp với các hiệp định của WTO nên trên thực tế thuế chống bán phá giá, thuế đối khánh, thuế chống phân biệt đối xử, thuế tự vệ chỉ mới tồn tại trong Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, chưa thể đưa vào áp dụng trong thực tiễn. Khi Việt Nam đã gia nhập WTO như hiện nay, nếu những quy định trên không được sửa đổi, bổ sung thì sẽ là một điều bất lợi lớn cho quá trình bảo hộ một cách hợp lí nền sản xuất trong nước. + Thứ ba: hiện nay pháp luật chưa có cơ chế nào để kiểm soát việc mang hàng hóa từ nước ngoài về nước của các phi công, tiếp viên hàng không, thủy thủ…Do vậy, họ ngang nhiên mang hàng “xách tay” về nước, các mặt hàng này chủ yếu là máy vi tính, điện thoại, mỹ phẩm, sữa, rượu…Các hàng hóa này khi được xách tay về nước đã trốn được thuế nhập khẩu, do vậy gây thất thu không nhỏ cho ngân sách nhà nước. + Thứ tư: Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu 2005 có quy định tại điều 15 như sau: doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất nhập khẩu được hưởng ân hạn thuế trong 30 ngày hoặc 275 ngày (tùy theo loại hình xuất nhập khẩu cụ thể) kể từ ngày đăng ký hải quan. Lợi dụng chính sách này của Nhà nước, nhiều công ty “ma” đã được thành lập nên, sau đó nhập ồ ạt hàng hóa về nước, sau khi tiêu thụ hết thì bỏ trốn làm thất thu hàng nghìn tỷ đồng tiền thuế của Nhà nước. Đây là một bài toán khó có lời giải cho các nhà làm luật: liệu nên bỏ hay giữ lại chính sách ân hạn thuế này? Chính sách này đã giúp doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về vốn, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu, phát triển sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên nhiều doanh nghiệp ma đã lợi dụng chính sách này để trốn thuế, gây thất thu cho ngân sách nhà nước. Đây cũng là một điểm còn chưa hoàn thiện, cần được khắc phục để pháp luật về thuế nhập khẩu phát huy hiệu quả cao nhất trên thực tế. + Thứ năm: Biểu thuế nhập khẩu hiện nay còn quá nhiều mức, cụ thể là 18 mức. Quy định này có ưu điểm là bảo hộ đến từng doanh nghiệp, từng nhóm doanh nghiệp sản xuất nhưng lại làm cho biểu thuế phức tạp, gây khó khăn cho quản lý thuế nhập khẩu là cho biểu thuế nhập khẩu mất tính trung lập. Biểu thuế được xây dựng trên cơ sở danh mục điều hòa HS tạo điều kiện thuận lợi cho thực hiện phân loại hàng hóa. Tuy nhiên do để áp dụng phù hợp với chủ trương bảo hộ sản xuất của một số ngành nên vẫn còn có chi tiết một số mặt hàng chưa phù hợp với cách phân loại của danh mục, chúng ta chưa áp dụng toàn phần hệ thống. Ngoài ra còn có một số vấn đề như phần dịch thuật chưa chuẩn, một số mặt hàng có thể áp dụng nhiều mã số thuế gây tranh chấp giữa các đối tượng nộp thuế và cơ quan thu thuế, sẽ là kẽ hở cho gian lận, trốn thuế. Với những bất cập như trên, việc thực thi pháp luật về thuế nhập khẩu trên thực tế còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Chính bản thân pháp luật vẫn chưa phù hợp với thực tế nên đã ảnh hưởng đến việc thực thi trên thực tế, chưa đem lại hiệu quả như mong muốn. Do vậy những bất cập trên cần nhanh chóng được khắc phục. 2) Thủ tục hải quan còn rườm rà, phức tạp, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế cũng như gây khó khăn cho các đơn vị nhập khẩu Những quy định về khung pháp lý liên quan đến quy trình, thủ tục hải quan do các Bộ, ngành và Tổng cục Hải quan ban hành còn chồng chéo, mâu thuẫn, gây khó khăn cho việc thực thu quy trình thủ tục tại cửa khẩu. Theo thống kê, tỷ lệ các văn bản do Tổng cục Hải quan ban hành chỉ chiếm 20% tổng số các văn bản pháp quy mà cơ quan hải quan tại cửa khẩu phải thực hiện. Bên cạnh đó, bộ hồ sơ hải quan hiện nay còn nặng nề, nhiều nội dung trùng lặp gây khó khăn cho cả doanh nghiệp và cán bộ Hải quan. Bộ hồ sơ theo quy định hiện nay của hải quan Việt Nam nhiều hơn 4 giấy tờ so với Công ước Kyôtô, gồm: chứng thư giám thị, bản kê khai chi tiết hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa, tờ khai trị giá. Hay như quy trình tại khoản 1 điều 15 Luật Hải quan sửa đổi, bổ sung năm 2005 thì kiểm tra Hải quan được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc chấp hành pháp luật của chủ hàng, mức độ rủi ro về phạm vi pháp luật hải quan để bảo đảm quản lí nhà nước về hải quan và không gây khó khăn cho hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu. Quy định này cho thấy một hạn chế đó là việc kiểm tra hải quan phụ thuộc lớn vào ý chí chủ quan của cơ quan hải quan. 3) Ý thức chấp hành pháp luật của chủ thể nộp thuế chưa tốt, thiếu trung thực. Thuế là khoản thu nộp mang tính chất bắt buộc mà các tổ chức, cá nhân phải nộp cho nhà nước khi có đủ những điều kiện nhất định và không hoàn lại trực tiếp.Theo tâm lí chung, các chủ thể nộp thuế rất hiếm khi tự nguyện nộp thuế mà họ tìm mọi cách để trốn thuế, giảm số thuế phải nộp. Các chủ thể nộp thuế nhập khẩu cũng vậy, họ dựa vào các quy định của pháp luật đã tìm ra vô vàn các thủ đoạn để có thể trốn thuế. Sau đây là một số thủ đoạn trốn thuế, gian lận thuế khi áp dụng các quy định cụ thể của pháp luật. a) Lợi dụng các quy định của pháp luật về giá tính thuế nhập khẩu Một trong những vấn đề làm đau đầu các nhân viên hải quan tại cá cửa khẩu chính là việc xác định chính xác giá tính thuế của hàng hóa nhập khẩu. Theo thống kê của ngành hải quan thì số các vụ trốn thuế nhập khẩu, số vụ do gian lận về giá tính thuế chiếm tỉ lệ cao nhất. Với quy định hiện hành, việc kê khai thuế chủ yếu dựa vào thái độ trung thực của người nhập khẩu và giá tính thuế nhưng không được tính theo trị giá giao dịch thực tế của hàng hóa. Quy định là vậy nhưng việc áp dụng lại muôn hình vạn trạng và có rất nhiều cách gian lận về giá. Ở nội dung này, em chỉ đề cập đến một số thủ đoạn gian lận giá có tính chất phổ biến và điển hình trong quá trình áp dụng về giá tính thuế nhập khẩu. + Thủ đoạn thứ nhất là khai báo giá không trung thực: Với cách này, bên nhập khẩu sẽ thông đồng với nhà sản xuất để khai báo trị giá hàng hóa nhập khẩu thấp hơn so với trị giá hàng hóa trong thực tế. Đa số nhà xuất khẩu khi đã có quan hệ giao dịch với nhà nhập khẩu thì họ đều bảo vệ khách hàng của mình vì điều này có lợi cho nhà xuất khẩu tiêu thụ được sản phẩm. Do đó giao dịch dễ dàng được thực hiện theo hai hay nhiều hợp đồng để đối phó với cơ quan hải quan. Điển hình trong trường hợp này là vụ khai báo sai trị giá hàng hóa là điện thoại di động của công ty Đông Nam. Giám đốc của công ty này là Nguyễn Gia Thiều đã móc nối với công ty Đông Nam Hồng Kông mua trên 40.000 điện thoại di động, khai giá thấp hơn so với giá thực tế thanh toán từ 75USD đến 375USD/chiếc trốn thuế nhập khẩu trên 100 tỷ đồng. + Thủ đoạn thứ hai là khai thấp về chất lượng hàng hóa: Doanh nghiệp sẽ khai báo hàng hóa của họ là hàng thứ phẩm, hàng tồn kho, hàng vỡ vụ nhiều…do vậy sẽ được giảm thuế suất so với hàng hóa cùng loại thông thường. + Thủ đoạn thứ ba là khai báo hàng không thanh toán, hàng hỗ trợ tiếp thị quảng cáo: Theo công văn hướng dẫn của ngành hải quan, nếu doanh nghiệp nhập hàng hóa có kèm hàng hóa khuyến mại thì sẽ được miễn thuế đối với hàng hóa đi kèm. Lợi dụng điều này, nhiều công ty đã nhập số lượng hàng hóa khuyến mại gấp nhiều lần hàng hóa nhập khẩu chính. Ví dụ: công ty An Nam nhập khẩu 104 chai nước làm mềm da có khuyến mãi 96 chai. Toàn bộ lô hàng sau mỗi mục đều có số lượng hàng siêu F.O.C (hàng mua một tặng nhiều hơn một). Công ty này đã bị Phòng trị giá tính thuế bác bỏ trị giá giao dịch. + Thủ đoạn thứ tư là đánh đồng tên hàng n
Tài liệu liên quan