Đề tài Phân tích quan hệ lượng, chất, nhân quả và thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá

Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, môi trường. Do có vai trò quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia.

doc15 trang | Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích quan hệ lượng, chất, nhân quả và thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục - Phần mở đầu - Phần nội dung I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài. 1. Nguyên tắc phương pháp luận của qui luật lượng- chất. 2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- kết quả. Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá. Những giải pháp và kiến nghị. - Phần kết luận Lời mở đầu Kinh tế là ngành không thể thiếu được của mọi quốc gia trên thế giới. Chính vì thế, nó chiếm một vai trò quan trọng trong hệ thống nhà nước của mỗi quốc gia. Không chỉ có vậy, lĩnh vực kinh tế còn ảnh hưởng đến mọi mặt của đời sống xã hội như: chính trị, văn hoá, môi trường... Do có vai trò quan trọng như vậy nên mỗi một thay đổi dù lớn hay nhỏ của ngành kinh tế đều ảnh hưởng đến sự phát triển chung của một quốc gia. Ngày nay, xu thế toàn cầu hoá đang là một đề tài thu hút nhiều sự chú ý và gần đây hiệp định thương mại Việt - Mỹ đã được thông qua tạo thêm nhiều cơ hội cho sự phát triển kinh tế ở nước ta nhưng đồng thời đây cũng là một thách thức lớn đối với nền kinh tế còn đang trong giai đoạn phát triển như nước ta ,vì hiện nay có thể nói công nghệ và kỹ thuật của ta còn đi chậm hơn so với thế giới và chúng ta buộc phải có những đổi mới trong cung cách sản xuất, quản lý , đầu tư đúng hướng ... Bài tiểu luận này đã giúp em học hỏi được rất nhiều trong việc rèn luyện cách viết, cách diễn giải một vấn đề và trau dồi khả năng tư duy. Song do đây là bài tiểu luận đầu tiên cho nên không thể tránh khỏi những sai sót về nội dung cũng như hình thức. Kính mong các thầy cô giáo sửa chữa và góp ý để tiểu luận có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn ! Phần nội dung I- Cơ sở lý luận triết học dùng làm tiền đề lý luận cho đề tài 1 - Q uy luật lượng- chất Muốn hiểu thấu đáo qui luật lượng- chất thì trước hết phải tìm hiểu xem thế nào là lượng, thế nào là chất. Trong giáo trình triết học Mác- Lênin, khái niệm về chất và lượng được dịnh nghiã như sau:” chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính qui định khách quan vốn có của sự vật và hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho nó là nó chứ không phải cái khác”. Còn”lượng là một phạm trù triết học để chỉ tính qui định vốn có của sự vật biểu thị số lượng, qui mô,trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật cũng như của các thuộc tính của nó”. Bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có chất và lượng. Trong quá trình vận động và phát triển, chất và lượng của sự vật cũng biến đổi. Sự thay đổi của lượng và của chất không diễn ra độc lập với nhau. Trái lại, chúng có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nhưng không phải bất kì sự thay đổi nào của lượng cũng ngay lập tức làm thay đổi căn bản chất của sự vật. Lượng của sự vật có thể thay đổi trong một giới hạn nhất định mà không làm thay đổi căn bản chất của sự vật đó. Vượt qua giới hạn đó sẽ làm cho vật không còn là nó, chất cũ mất đi, chất mới ra đời. Khuôn khổ mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi về chất của sự vật được gọi là độ. “Độ là một phạm trù triết học dùng để chỉ sự thống nhất giữa lượng và chất, nó là khoảng giới hạn, mà trong đó, sự thay đổi về lượng chưa làm thay đổi căn bản về chất của sự vật .” Những điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng sẽ làm thay đổi chất của sự vật được gọi là điểm nút. Sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút sẽ dẫn đến sự ra đời chất mới. Sự thống nhất giữa lượng và chất mới tạo thành một độ mới với điểm nút mới. Vì vậy, có thể hình dung sự phát triển dưới dạng một đường nút của những quan hệ về độ. Sự thay đổi về chất do những thay đổi về lượng trước đó gây ra gọi là bước nhảy. Nói cách khác, bước nhảy là một phạm trù triết học dùng để chỉ giai đoạn chuyển hoá về chất của sự vật do những thay đổi về chất trước đó gây ra. Sự thay đổi về chất là kết quả của sự thay đổi về lượng khi đạt tới điểm nút. Sau khi ra đời, chất mới có thể tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Chất mới có thể làm thay đổi quy mô tồn tại của sự vật, làm thay đổi nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật đó. Bởi vì chất và lượng là hai mạt đối lập vốn có trong lòng sự vật hiện tượng. Chất thì tương đối ổn định còn lượng thì thường xuyên biến đổi. Sự thay đổi của lượng đến một lúc nào đó thì đối lập với chất cũ, bị chất cũ kìm hãm, nó đòi hỏi phải phá bỏ độ cũ mở ra một độ mới để mở đường cho lượng thay đổi. Khi chất cũ bị phá bỏ, chất mới được thiết lập lại tạo ra sự thống nhất giữa chất và lượng. Quy luật lượng chất được phát biểu như sau: “Bất kì sự vật nào cũng là sự thống nhất giữa chất và lượng, sự thay đổi dần dần về lượng vượt quá giới hạn của độ sẽ dẫn tới thay đổi căn bản về chất của sự vật thông qua bước nhảy; chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng. Xuất phát từ những điều trên, trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi phải quan tâm đến quá trình tích luỹ về lượng bởi vì không có quá trình này thì không có sự thay đổi căn bản về chất. Sự vật cũng không thể mất đi, cái mới tiến bộ hơn không thể ra đời thay thế. Khi chất mới ra đời thì phải biết xác định quy mô tốc độ phát triển mới về lượng cho phù hợp, không được thoả mãn dừng lại. Phải chống lại quan điểm tả khuynh và hữu khuynh. Tả khuynh là quan điểm coi thường tích luỹ về lượng. Còn hữu khuynh là khi lượng thay đổi đã chín muồi cần phải có sự thay đổi về chất lại không dám thực hiện bước thay đôỉ về chất. Cả hai quan điểm đó đều là quan điểm sai lầm. 2. Nguyên tắc phương pháp luận của mối quan hệ nguyên nhân- Kết quả. Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả. Do đó, nguyên nhân bao giờ cũng có trước kết quả. Còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau khi nguyên nhân đã xuất hiện Song không phải mọi sự việc nối tiếp trong thời gian của các hiện tượng đều là biều hiện của mối quan hệ nhân quả. Trong hiện thực mối liên hệ nhân- quả biểu hiện rất phức tạp. Một kết quả thông thường không phải do một nguyên nhân và một nguyên nhân có thể sản sinh ra nhiều kết quả. Khi các nguyên nhân tác động cùng chiều, cùng hướng, cùng một lúc lên sự vật thì chúng sẽ gây lên ảnh hưởng cùng chiều tới sự hình thành kết quả và ngược lại. Trong sợi dây chuyền vô tận của sự vận động vật chất, không có hiện tượng nào được coi là nguyên nhân đầu tiên và cũng không có kết quả nào được xem là kết quả cuối cùng. Trong mối quan hệ này, sự vật nào đó được coi là nguyên nhân thì trong sự việc khác, nó lại được coi là kết quả và ngược lại. Nguyên nhân sản sinh ra kết quả. Nhưng sau khi xuất hiện, kết quả không giữ vai trò thụ động đối với nguyên nhân. Trái lại, nó tác động lại nguyên nhân theo hai chiều hướng hoặc tích cực hoặc tiêu cực. Mối liên hệ nhân – quả có tính khách quan. Không có sự vật hiện tượng nào tồn tại mà không có nguyên nhân. Do đó, nhiệm vụ của nhận thức khoa học là phải khám phá ra nguyên nhân. Bởi vì có biết nguyên nhân, chúng ta mới có thể định hướng cho sự phát triển tiếp sau. Một sự vật hiện tượng có thể do nhiều nguyên nhân sinh ra. Mỗi nguyên nhân có vị trí khác nhau trong việc hình thành kết quả. Vì vậy, ta cần phải phân loại các nguyên nhân đồng thời phải nắm được những nguyên nhân phát triển cùng chiều để tạo ra sức mạnh tổng hợp và hạn chế những nguyên nhân ngược chiều. Nguyên nhân sinh ra kết quả nhưng sau khi kết quả xuất hiện thì nó lại tác động trở lại nguyên nhân sinh ra nó. Vì vậy, phải biết khai thác tận dụng các kết quả đã đạt được để nâng cao nhận thức để thúc đẩy sự vật phát triển. II- Vận dụng nguyên lý triết học để phân tích, làm rõ thực trạng của nền kinh tế Việt Nam trước xu thế toàn cầu hoá. Trên thế giới có rất nhiều tài liệu viết về khái niệm hội nhập kinh tế Quốc tế. Giáo sư về kinh tế học quốc tế thuộc đại học Tổng hợp Giôn Hốp- kin, Oa- sinh- tơn D.C, Giêm Ri- đen đã định nghĩa: “Hội nhập là tự do thương mại, không phải chỉ đơn giản là bản thân thương mại”. Về mặt lý luận, các vấn đề kinh tế không chỉ mang các đặc trưng của kinh tế đơn thuần, mà luôn gắn với một hệ thống của chính trị là nền tảng của tư tưởng của nó. Về mặt thực tiễn, rõ ràng ở quốc gia nào cũng vậy , người ta chỉ chấp nhận hội nhập kinh tế quốc tế một khi lợi ích của quốc gia đó được bảo đảm- Các lợi ích này không chỉ đơn thuần là lợi ích kinh tế. Nó luôn được xác định gồm cả lợi ích chính trị của mỗi quốc gia. Cho nên, bất cứ hiệp định song phương giữa hai quốc gia nào cũng luôn có điều khoản loại trừ các yếu tố gây hại đến an ninh quốc gia mỗi nước. Với cách tiếp cận trên, có thể hiểu hội nhập kinh tế quốc tế, của nước ta hiện nay không chỉ là quá trình gia nhập các tổ chức kinh tế quốc tế mà còn được thể hiện trong bản thân hệ thống chính các thương mại, chính sách phát triển kinh tế đã và đang được Đảng, Nhà nước định hướng. Những phát kiến về địa lý, những cuộc chiến tranh xâm chiếm thuộc địa, sự phát triển đại công nghiệp, sự phát triển sản xuất nhờ áp dụng các thành tựu khoa học và công nghệ, sự mở rộng thị trường quốc tế, mở rộng giao lưu quốc tế đã phá vỡ tính biệt lập, khép kín trong phạm vi quốc gia, mở rộng không gian hoạt động của các quốc gia. Đây chính là tiền đề cho quá trình tích luỹ về lượng để chuẩn bị cho sự thay đổi về chất tới một giới hạn nào đó(độ) thì dẫn đến một bước nhảy về kinh tế là xu thế toàn cầu hoá ra đời. Có nhiều nguyên nhân tác động dẫn tới sự hình thành và phát triển xu thế toàn cầu hoá kinh tế, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu là: -Xu thế toàn cầu hoá kinh tế trước hết bắt nguồn từ sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, từ tính chất xã hội hoá của lực lượng sản xuất trên phạm vi quốc gia và quốc tế. -Xu thế toàn cầu hoá kinh tế chịu sự tác động trực tiếp rất mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại. Sự phát triển của các công nghệ cao( công nghệ sinh học, công nghệ viễn thông...) đã làm thay đổi về chất lực lượng sản xuất của loài người, đã đưa loài người từ văn minh công nghiệp lên văn minh tin học, đã tạo thành kinh tế tri thức, kĩ thuật số, hình thành mạng máy tính toàn cầu( Internet), phá vỡ hàng rào ngăn cách về không gian và thời gian giữa các quốc gia trên thế giới và thúc đẩy các nước quan hệ, hợp tác với nhau. - Sự phát triển và bành trướng của các công ty tư bản độc quyền xuyên quốc gia,lực lượng chi phối toàn cầu hoá. Chính những nguyên nhân trên đã đặt các quốc gia, phát triển cũng như đang phát triển, đứng trước thách thức về tụt hậu. Do đó các quốc gia đều đặt ưu tiên cho phát triển kinh tế. Trong đó, yêu cầu về mở rộng thị trường, tìm kiếm đối tác ngày nay đã trở thành một nhiệm vụ chủ yếu. Quá trình hội nhập kinh tế của Việt Nam được bắt đầu từ cuối những năm 80 khi Đảng và Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa và đổi mới nền kinh tế. Đại Hội VII của Đảng (1991) đã thông qua định hướng nền kinh tế đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ quốc tế “Nghị quyết đại hội VIII của Đảng (1996) đã quyết định : “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới” Nghị quyết hội nghị Trung Ương lần thứ 4 khoá VIII (12-1997) chỉ rõ nguyên tắc hội nhập là : “ trên cơ sở phát huy nội lực, thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách thu hút các nguồn lực từ bên ngoài”, “tiến hành khẩn trương, vững chắc việc đàm phán hiệp định Thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO”, có “ kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Để thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế các quy định đối với mỗi quốc gia, là tự do hoá thương mại và đầu tư một cách công khai, rõ ràng theo 4 nguyên tắc cơ bản sau: Công bằng Tự do hoá thương mại Làm ăn hay thương lượng với nhau phải trên có sở có đi có lại. Công khai mọi chính sách Thương Mại và đầu tư. Với các nguyên tắc trên, nước “đi sau” như nước ta sẽ có nhiều thuận lợi, nhất là trong việc học hỏi các kinh ngiệm của các nước “đi trước”, nhưng cũng sẽ phải chịu rất nhiều khó khăn thách thức mà quan trọng hàng đầu là việc bảo hộ nền sản xuất trong nước và các doanh nghiệp Việt Nam nhất là các doanh nghiệp quốc doanh mới “chân ướt, chân ráo” bước vào nền kinh tế thị trường. Với tầm nhìn chiến lược xác định rõ tình hình và xu thế phát triển của thế giới, trên cơ sở yêu cấu bức xúc của phát triển kinh tế đất nước, Đại hội đã khẳng định “Xây dựng một nền kinh tế mở”, “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế và Thế giới”, nghị quyết 4 của Ban chấp hành TW khoá III cũng đã nêu rõ:”tích cực, chủ động thâm nhập và mở rộng thị trường quốc tế”, “gia nhập APEC và WTO, có kế hoạch cụ thể để chủ động thực hiện các cam kết trong khuôn khổ AFTA”. Rõ ràng, hội nhập kinh tế quốc tế là quan điểm, là định hướng phải được nhất quán tuân thủ. Qua nghiên cứu thực tiễn các hoạt động hội nhập kinh tế của các nước, nhất là các nước đang phát triển, có thể thấy rằng hội nhập kinh tế quốc tế luôn không phải chỉ toàn được mà không có thua thiệt. Vấn đề toàn cầu hoá như một:”con dao hai lưỡi”. Một mặt nó tạo cơ hội phát triển kinh tế- kĩ thuật, tạo khả năng giao lưu văn hoá, trí tuệ, chuyển giao công nghệ hiện đại, phát triển văn minh vật chất. Mặt khác, nó làm trầm trọng thêm bất công xã hội, đào sâu hố ngăn cách giàu nghèo, làm xói mòn bản sắc văn hoá dân tộc, tấn công vào chủ quyền quốc gia. Về phương diện nguyên tắc, phải xác định một chiến lược hợp lý, sao cho có thể kiếm được lợi một cách tối đa và hạn chế đến mức thấp nhất có thể được những thua thiệt. Và điều quan trọng là cái được phải nhiều hơn cái mất. Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa tranh thủ vừa cạnh tranh, vừa tận dụng mọi cơ hội vừa phải đối phó với những thách thức to lớn. Đối với nước ta hiện nay, thách thức lớn nhất là năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh còn yếu, rất dễ bị thua thiệt trên thương trường; là sự thiếu hụt năng lực thu thập và phân tích thông tin để dự báo chiều hướng phát triển của nền kinh tế thế giới và các đối tác cạnh tranh, từ đó kém khả năng mở rộng và phát triển thị trường của mình. Ngay cả đội ngũ cán bộ làm công tác hội nhập kinh tế quốc tế của ta hiện nay cũng vừa học, vừa làm. Chúng ta tham gia cuộc đua tranh kinh tế khi trình độ kinh tế và công nghệ của ta còn thấp. Bảo vệ nền kinh tế cũng như bảo vệ các doanh nghiệp của ta, nhất là các doanh nghiệp quốc doanh là vấn đề phải được đặt lên hàng đầu. Một lộ trình hội nhập nhanh quá khả năng chịu đựng của nền kinh tế với mức độ cao quá khả năng của các doanh nghiệp sẽ dẫn đến những hậu quả khó lường đối với nền kinh tế, đôi khi cả chính trị của đất nước. Song điều đó cũng không có nghĩa là càng kéo dài lộ trình hội nhập kinh tế với mức độ càng thấp càng tốt. Bởi vì kéo dài lộ trình sẽ làm cho sức ì càng nặng, kém đầu tư cải tiến quản lý công nghệ, dẫn tới tình trạng kém hiệu quả, yếu sức cạnh tranh và nền kinh tế ngày càng tụt hậu so với nền kinh tế thế giới. Toàn cầu hoá kinh tế có tác dụng trực tiếp đến chính trị, có những hệ quả về mặt chính trị. Song ở đây không nên hiểu luận điểm kinh tế quyết định chính trị một cách đơn giản và máy móc. Thông qua con đường hợp tác, đầu tư, tự do hoá thương mại, viện trợ, cho vay theo hướng khuyến khích tư nhân hoá, tự do hoá tư sản. Các thế lực tư bản chủ nghĩa đứng đầu là Mĩ muốn tạo ra những cơ sở kinh tế tư bản chủ nghĩa. Từ đó dẫn đến hình thành những lực lượng chính trị đối lập ngay trong lòng xã hội để thực hiện tự diễn biến hòng thay đổi chế độ xã hội chủ nghĩa( đối với các nước xã hội chủ nghĩa) hoặc thay đổi chính phủ theo hướng thân phương Tây( đối với các nước đang phát triển) gây sức ép về kinh tế và chính trị đối với các nước. Tuy vậy, chủ nghĩa đế quốc vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ của các nước đang phát triển, các nước xã hội chủ nghĩa nhằm chống lại âm mưu áp đặt về chính trị. Vừa qua, Hiệp định thương mại Việt- Mĩ đã được kí kết, một hiệp định rất có lợi đối với sự phát triển kinh tế ở Việt Nam, nhưng trước đó Mĩ định dùng áp lực này nhằm thông qua “đạo luật nhân quyền”, một sự can thiệp thô bạo vào nền chính trị của nước ta. Cũng như lĩnh vực chính trị, lĩnh vực văn hoá cũng chịu tác động bởi quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu quốc tế, tăng thêm mối liên hệ và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, sự xích lại gần nhau giữa các quốc gia. Do đó, nó cũng tạo điều kiện cho việc mở rộng giao lưu về văn hoá, khoa học giữa các quốc gia, dân tộc tiếp thu có chọn lọc những thành tựu của văn hoá nhân loại, bổ sung cho nhau tạo điều kiện hiện đại hoá văn hoá. Tuy nhiên, mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế trong điều kiện do thế lực tư bản chi phối lại tạo nguy cơ làm sói mòn bản sắc dân tộc, mâu thuẫn với việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Trên thế giới, chủ nghiã đế quốc nhất là đế quốc Mỹ dựa trên sức mạnh kinh tế của mình đang muốn toàn cầu hoá văn hoá, thậm chí là Mỹ hoá. Người ta tuyên truyền về lối sống Mỹ, văn hoá Mỹ, còn các kênh truyền thông Mỹ thì phủ khắp hành tinh, phim ảnh Hô-li-út của Mỹ được chiếu khắp các nước, thậm chí đồ ăn thức uống Mỹ( Mac Donald, Coca Cola...) lan tràn khắp nơi. Đến nỗi Pháp cũng lo bị Mỹ hoá. Mỹ muốn áp đặt giá trị, lợi ích văn hoá, lối sống của mình cho toàn cầu. Chính vì thế, nước ta phải hết sức chú trọng đến vấn đề bảo tồn văn hoá trong xu thế toàn cầu hoá, tránh bị “hoà tan” trong khi “hoà nhập”. Không chỉ có vậy, toàn cầu hoá còn ảnh hưởng đến vấn đề môi trường. Từ năm 1973 đến nay, tuy số liệu điều tra chưa đầy đủ nhưng chắc chắn diện tích rừng bị giảm không phải là con số ít. Chẳng hạn như ở Lâm Đồng, mỗi măn tính trung bình có 10.000 ha rừng bị tàn phá. Trong vòng 20 năm trở lại đây có 25% diện tích rừng bị biến mất. Từ năm 1990 đến 1995, toàn cuốc có 5 triệu ha rừng bị huỷ diệt (bình quân mỗi năm mất 1 triệu ha rừng) . Vấn đề ô nhiễm môi trưòng , khói bụi và rác thải ... Tuy còn nhiều khó khăn và tồn tại nhưng sau hơn 2 thập niên tham gia vào quá trình toàn cầu hoá nền kinh tế nước ta đã thu được những thành tựu đáng kể. Hàng năm nền kinh tế đều có tăng trưởng: tổng sản phẩm xã hội (GDP) tăng bình quân hàng năm là 8,2% , giảm tỉ lệ lạm phát từ 14,7% năm 1986 xuống 12,7% năm 1995 và khoảng 5% năm 1996. Kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (1991-1995) đạt 17 tỷ đô la và 1996 đạt trên 7 tỷ đô la. Mở rộng được quan hệ hợp tác với nước ngoài, thu hút vốn đầu tư và kĩ thuật của nhiều nước để phát triển kinh tế trong nước đến cuối năm 1996 có trên 700 công ty lớn, nhỏ đầu tư vào nước ta với 22 tỷ đô la nằm trong 1800 dự án phát triển kinh tế thuộc nhiều thành phần khác nhau như: công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, ngân hàng tài chính. Chúng ta đã thiết lập quan hệ buôn ngoại thương với 120 nước trên thế giới, xoá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế tạo ra thế và lực mới để cạnh tranh trên thị trường thế giới. Môi trường kinh tế vĩ mô ngày càng ổn định và cán cân thương mại ngày càng được cải thiện rõ rệt làm cho nền kinh tế phát triển và năng động hơn. III-Những kiến nghị và giải pháp. Để khắc phục những tồn tại của kinh tế Việt Nam nhằm mục tiêu đưa nền kinh tế phát triển và bền vững trước xu thế toàn cầu hoá em có những kiến nghị sau: Xây dựng thể chế pháp lí cho quan hệ giữa nước ta và các nước hình thành một hệ thống đồng bộ các thoả thuận, cũng như các hiệp định làm nền tảng cho quan hệ hợp tác quốc tế. Cụ thể là: tham gia và hỗ trợ việc chuẩn bị, đàm phán kí kết các hiệp định, thoả thuận cấp chính phủ giữa nước ta với các nước, cũng như thực hiện tốt việc theo dõi, đôn đốc thực hiện các thoả thuận, hiệp định đã được kí kết, cả phía ta và phía bạn. Góp phần xây dựng hệ thống pháp luật kinh tế của ta cho phù hợp với luật pháp và tập quán quốc tế, trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành và phát triển các luật lệ, quy định quốc tế, nhằm bảo vệ tốt nhất lợi ích của đất nước và công dân ta trong quan hệ quốc tê. Pháp huy vai trò tích cực trong các uỷ ban hỗn hợp và các quy chế song phương về hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và các nước; kịp thời phát hiện, kiến nghị và phối hợp giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước và các tổ chức quốc tế; bảo vệ chủ quyền kinh tế và lợi ích kinh tế của Việt Nam trên trường quốc tế. Triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách kinh tế, đặc biệt là về kinh tế đối ng
Tài liệu liên quan