Ngày nay chúng ta đang đựơc chứng kiến hàng ngày sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, việc Việt Nam gia nhập WTO, tham gia vào các tổ chức, các hội nghị đã tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước những điều kiện thuận lợi để thâm nhập thị trường quốc tế rộng lớn và đầy tiềm năng; đã tạo ra cơ hội để người tiêu dùng trong nước được tiếp cận và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất của các nước.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang khẩn trương nắm bắt những cơ hội, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư cho những dự án mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ để có thể cạnh tranh trong môi trường mới. Để có thể thực hiện tốt những việc trên thì vấn đề tìm nguồn tài trợ luôn được đặt ra như là vấn đề cấp thiết hàng đầu với tất cả các chủ thể kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, các khoản cấp tín dụng của Ngân hàng luôn được xem là một nguồn tài trợ tốt ngày càng góp phần quan trọng trong việc tạo vốn cho các chủ thể kinh tế hoạt động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong công việc kinh doanh luôn có thể xảy ra thiệt hại xuất phát từ cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, do đó những rủi ro tiềm ẩn mà Ngân hàng có thể sẽ đương đầu khi cấp tín dụng là rất lớn. Vì lẽ đó, tôi đã quyết định chọn đề tài “PHÂN TÍCH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK – CHI NHÁNH AN GIANG”.
41 trang |
Chia sẻ: oanhnt | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phân tích rủi ro tín dụng tại Sacombank – chi nhánh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CHƯƠNG 1: MỞ ĐẦU
Cơ sở hình thành
Ngày nay chúng ta đang đựơc chứng kiến hàng ngày sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Việt Nam, việc Việt Nam gia nhập WTO, tham gia vào các tổ chức, các hội nghị… đã tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước những điều kiện thuận lợi để thâm nhập thị trường quốc tế rộng lớn và đầy tiềm năng; đã tạo ra cơ hội để người tiêu dùng trong nước được tiếp cận và sử dụng những hàng hóa, dịch vụ tốt nhất của các nước.
Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam đang khẩn trương nắm bắt những cơ hội, không ngừng mở rộng quy mô sản xuất, đầu tư cho những dự án mới, cải tiến kỹ thuật công nghệ để có thể cạnh tranh trong môi trường mới. Để có thể thực hiện tốt những việc trên thì vấn đề tìm nguồn tài trợ luôn được đặt ra như là vấn đề cấp thiết hàng đầu với tất cả các chủ thể kinh tế. Để giải quyết vấn đề này, các khoản cấp tín dụng của Ngân hàng luôn được xem là một nguồn tài trợ tốt ngày càng góp phần quan trọng trong việc tạo vốn cho các chủ thể kinh tế hoạt động, thúc đẩy kinh tế phát triển. Tuy nhiên, trong công việc kinh doanh luôn có thể xảy ra thiệt hại xuất phát từ cả những nguyên nhân chủ quan và khách quan, do đó những rủi ro tiềm ẩn mà Ngân hàng có thể sẽ đương đầu khi cấp tín dụng là rất lớn. Vì lẽ đó, tôi đã quyết định chọn đề tài “PHÂN TÍCH RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK – CHI NHÁNH AN GIANG”.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu chủ yếu của nghiên cứu là tìm hiểu những rủi ro mà Sacombank gặp phải trong hoạt động cấp tín dụng, qua đó đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, giúp cho hoạt động cấp tín dụng của Ngân hàng ngày càng có chất lượng.
Phạm vi nghiên cứu
Sacombank đã thành lập văn phòng đại diện và đi vào hoạt động tại An Giang từ năm 1998, nhưng đến ngày 03/08/2005 mới chính thức trở thành một Chi nhánh cấp 1. Do đó việc tìm hiểu rủi ro tín dụng trong đề tài này chỉ tập trung trong thời gian từ lúc Chi nhánh bắt đầu đi vào hoạt động năm 2005 đến cuối năm 2006.
Phương pháp nghiên cứu
Số liệu thứ cấp: tập hợp số liệu từ các báo cáo, tài liệu công bố của Ngân hàng.
Phân loại – so sánh số liệu, chỉ tiêu trong hoạt động tín dụng, đánh giá nguyên nhân, thực trạng của rủi ro tín dụng tại Ngân hàng.
Quan sát hoạt động tín dụng tại Ngân hàng, tham khảo ý kiến cán bộ tín dụng.
Đề xuất ý kiến.
CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN
2.1 Khái quát về tín dụng
2.1.1 Khái niệm về tín dụng
Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Vậy cho vay hay cấp tín dụng là loại nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại trong đó Ngân hàng sẽ cấp cho người đi vay một số vốn để SXKD, đầu tư hay tiêu dùng. Khi đến hạn người đi vay phải hoàn trả vốn gốc và tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát được người đi vay, kiểm soát được quá trình sử dụng vốn. Người đi vay có ý thức quan tâm đến việc trả nợ cho nên bắt buộc họ phải quan tâm đến việc sử dụng vốn làm sao cho có hiệu quả để hoàn trả nợ.
2.1.2 Các nguyên tắc tín dụng
` Hoạt động của tín dụng Ngân hàng tuân thủ theo các nguyên tắc sau:
Nguyên tắc 1: Tiền vay được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng.
Theo nguyên tắc này, tiền vay phải được sử dụng đúng cho các nhu cầu đã được bên vay trình bày với Ngân hàng và được Ngân hàng cho vay chấp nhận. Đó là các khoản chi phí, những đối tượng phù hợp với nội dung sản xuất kinh doanh của bên vay. Ngân hàng có quyền từ chối và hủy bỏ mọi yêu cầu vay vốn không được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận. Việc sử dụng vốn vay sai mục đích thể hiện sự thất tín của bên vay và hứa hẹn những rủi ro cho tiền vay. Do đó, tuân thủ nguyên tắc này, khi cho vay Ngân hàng có quyền yêu cầu bên vay phải sử dụng tiền vay đúng mục đích đã cam kết và thường xuyên giám sát hành động của bên vay về phương diện này.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của bên vay gắn liền với hiệu quả cho vay Ngân hàng, có thể nói rằng hiệu quả kinh tế của hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng vay vốn là cơ sở cho sự an toàn của khoản vay, thiếu yêu cầu này không thể nói đến sự tồn tại và phát triển các quan hệ vay vốn. Do đó, hiệu quả kinh tế của tiền vay được đưa ra như một sự đảm bảo, một sự cam kết của bên vay vốn, trước hết là tạo ra nhiều khối lượng sản phẩm dịch vụ, đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, đồng thời tạo ra nhiều tích lũy để thực hiện tái sản xuất mở rộng. Việc thỏa thuận và sự cụ thể hóa nguyên tắc này như một trong những điều kiện cho vay được sử dụng làm cơ sở để Ngân hàng thiết lập quan hệ tín dụng và giám sát hoạt động của các khách hàng vay vốn trong quá trình hoạt động có sử dụng vốn vay Ngân hàng.
Nguyên tắc 2: Tiền vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi đúng hạn đã thỏa thuận trên hợp đồng tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, nguyên tắc này bắt nguồn từ bản chất của tín dụng là giao dịch cung cầu về vốn, tín dụng chỉ giao dịch quyền sử dụng vốn trong thời gian nhất định. Trong khoản thời gian cam kết giao dịch, Ngân hàng và bên vay thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng rằng Ngân hàng sẽ chuyển giao quyền sử dụng một lượng giá trị nhất định cho bên vay. Khi kết thúc kỳ hạn, bên vay phải hoàn trả quyền này cho Ngân hàng (trả nợ gốc) với khoản chi phí (lợi tức và phí) nhất định. Như vậy, trong khoản thời gian được cam kết thì bên vay có toàn quyền quyết định cách thức sử dụng khoản vay miễn là không sai lệch mục đích thỏa thuận ban đầu và đạt được hiệu quả kinh tế. Khi hết thời hạn cam kết, bên vay phải hoàn lại cho Ngân hàng một lượng giá trị và lúc này quyền sử dụng được chuyển về phía Ngân hàng.
Về phương diện hạch toán, nguyên tắc này là nguyên tắc về tính bảo tồn của tín dụng. Tiền vay phải được bảo đảm không bị giảm giá, tiền vay phải đảm bảo thu hồi được đầy đủ và có sinh lời. Tuân thủ nguyên tắc này là cơ sở đảm bảo cho sự phát triển kinh tế, xã hội được ổn định, các mối quan hệ của Ngân hàng được phát triển theo xu thế an toàn và năng động. Nguyên tắc này ràng buộc các Ngân hàng sẽ không thể an toàn một khi cho vay đối với các khách hàng làm ăn yếu kém, bởi nguồn vốn cho vay của Ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động, đó là một bộ phận tài sản của các chủ sở hữu mà Ngân hàng tạm thời quản lý và sử dụng, Ngân hàng có nghĩa vụ đáp ứng các yêu cầu rút tiền của khách hàng khi họ cần. Khi các khoản tín dụng không được hoàn trả đúng hạn thì nhất định sẽ ảnh hưởng đến khả năng hoàn trả của Ngân hàng, gây khó khăn cho các khách hàng khác.
2.1.3 Chức năng của tín dụng
Tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ.
Mặt tập trung của tín dụng thể hiện Ngân hàng là nơi tập trung các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội. Sau đó Ngân hàng sẽ sử dụng nguồn vốn vay này để thực hiện cấp tín dụng cho những khách hàng có nhu cầu, đây chính là chức năng phân phối lại vốn tiền tệ. Chính nhờ chức năng này mà những nguồn tiền nhàn rỗi trong xã hội được tận dụng một cách hợp lý cho những nhu cầu sản xuất và tiêu dùng.
Tiết kiệm được lượng tiền mặt và chi phí lưu thông cho xã hội.
Trước hết tín dụng góp phần tạo điều kiện cho sự ra đời các công cụ lưu thông tiền tệ như thương phiếu, kỳ phiếu Ngân hàng, các loại séc, thẻ thanh toán… đã thay thế được một lượng tiền mặt đang lưu hành, qua đó có thể tiết giảm một số chi phí như in và đúc tiền, vận chuyển, bảo quản… Mặt khác, hoạt động tín dụng cùng với hệ thống thanh toán qua Ngân hàng ngày càng được mở rộng đã tạo điều kiện cho các quan hệ kinh tế được thúc đẩy, mở ra khả năng lớn cho việc giao dịch thông qua tài khoản dưới các hình thức chuyển khoản, thanh toán bù trừ…
Phản ánh và kiểm soát đối với các hoạt động kinh tế.
Chính nhờ thông qua công tác huy động và cho vay của Ngân hàng đã phần nào phản ánh tình hình một số mặt như khối lượng tiền nhàn rỗi trong xã hội, nhu cầu vốn của các cá nhân và tổ chức kinh tế… đây là hệ quả rút ra từ chính hoạt động của Ngân hàng. Bên cạnh, việc Ngân hàng yêu cầu minh bạch tình hình tài chính và giám sát hoạt động của khách hàng vay vốn giúp cho Ngân hàng có thể phát hiện những bất thường trong tình hình tài chính, tăng cường kiểm soát bằng tiền đối với các chủ thể kinh tế có sử dụng vốn vay.
2.1.4 Vai trò của tín dụng
Tín dụng góp phần thúc đẩy sản xuất lưu thông hàng hóa phát triển.
Trong quá trình sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi các doanh nghiệp phải đồng thời tồn tại ở cả 3 giai đoạn: dự trữ, sản xuất và lưu thông, nên hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời luôn xảy ra tại các doanh nghiệp. Tín dụng đã góp phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh không bị gián đoạn.
Với mục tiêu mở rộng sản xuất đối với từng doanh nghiệp thì yêu cầu về vốn là một trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra, bởi lẽ để đẩy mạnh tiến độ phát triển sản xuất không thể chỉ trông chờ vào vốn tự có của doanh nghiệp, mà phải biết tận dụng các nguồn vốn khác trong xã hội. Từ đó tín dụng mới là nơi tập trung bộ phận lớn vốn nhàn rỗi và là nơi đáp ứng nhu cầu bổ sung vốn cho đầu tư phát triển. Như vậy, tín dụng vừa giúp cho các doanh nghiệp rút ngắn được thời gian tích luỹ vốn cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả.
Với vai trò tập trung và tận dụng những nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, tín dụng đã trực tiếp giảm khối lượng tiền mặt tồn động trong lưu thông. Do đó, trong điều kiện nền kinh tế bị lạm phát, tín dụng được xem như là một trong những biện pháp hữu hiệu góp phần làm giảm lạm phát trong nền kinh tế.
Mặt khác, tín dụng còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đây là một trong những nhân tố tích cực giảm việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế, là bộ phận lưu thông tiền tệ mà Nhà nước rất khó quản lý và dễ bị tác động của qui luật lưu thông tiền tệ.
Trong những thập niên gần đây ở hầu hết các quốc gia có nền kinh tế phát triển, trong các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà Nước nhằm thực hiện mục tiêu chính sách tiền tệ trong thời kỳ thì lãi suất tín dụng đã trở thành một trong những công cụ điều tiết nhạy bén với nhu cầu của nền kinh tế.
Tín dụng góp phần ổn định đời sống, tạo công ăn việc làm và ổn định trật tự xã hội.
Vai trò này của tín dụng có thể nói là hệ quả tất yếu của hai vai trò trên. Nền kinh tế phát triển trong một môi trường ổn định về tiền tệ là điều kiện nâng cao dần đời sống của các thành viên trong xã hội, là điều kiện thực hiện tốt hơn các chính sách xã hội, từ đó rút ngắn chênh lệch giữa các tầng lớp xã hội.
Hoạt động tín dụng không chỉ đáp ứng cho nhu cầu của các doanh nghiệp mà còn phục vụ cho mọi tầng lớp dân cư. Trong nền kinh tế, bên cạnh các Ngân hàng còn có các hệ thống các tổ chức tín dụng sẵn sàng đáp ứng nhu cầu vay vốn hợp lý của cá nhân cho phát triển kinh tế gia đình, mua sắm, sinh hoạt…
2.1.5 Đối tượng cho vay của Ngân hàng
Đối tượng cho vay của Ngân hàng là phần thiếu hụt trong tổng giá trị cấu thành tài sản cố định, tài sản lưu động và các khoản chi phí cho quá trình sản xuất kinh doanh của khách hàng trong một thời gian nhất định.
Ngân hàng cho vay các đối tượng sau:
- Giá trị vật tư, hàng hóa máy móc thiết bị và các khoản chi phí để khách hàng thực hiện các dự án sản xuất, kinh doanh dịch vụ, đời sống, đầu tư và phát triển.
- Số tiền vay trả cho các tổ chức tín dụng trong thời gian thi công chưa bàn giao và đưa tài sản cố định vào sử dụng đối với cho vay trung hạn và dài hạn để đầu tư tài sản cố định mà khoản lãi được tính trong giá trị tài sản cố định đó.
Ngân hàng không cho vay các đối tượng sau:
- Số tiền thuế phải nộp (trừ số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu).
- Số tiền để trả nợ gốc và lãi vay cho tổ chức tín dụng khác.
- Số tiền vay trả cho chính tổ chức tín dụng cho vay vốn.
2.1.6 Điều kiện cho vay
Điều kiện cho vay là những yêu cầu của ngân hàng đối với các bên để làm căn cứ xem xét quyết định thiết lập quan hệ tín dụng. Nội dung của điều kiện cho vay cũng làm cơ sở cho việc xử lý các tình huống phát sinh trong quá trình sử dụng tiền vay.
Theo quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, tổ chức tín dụng xem xét và quyết định cho vay khi khách hàng có đủ các điều kiện sau:
Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật:
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân Việt Nam:
+ Pháp nhân phải có năng lực pháp luật dân sự;
+ Cá nhân và chủ doanh nghiệp tư nhân phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Đại diện của hộ gia đình phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Đại diện của tổ hợp tác phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
+ Thành viên hợp danh của công ty hợp danh phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự;
- Đối với khách hàng vay là pháp nhân và cá nhân nước ngoài phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự theo quy định pháp luật của nước mà pháp nhân đó có quốc tịch hoặc cá nhân đó là công dân, nếu pháp luật nước ngoài được Bộ Luật Dân Sự của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, các văn bản pháp luật khác của Việt Nam quy định hoặc được Điều ước quốc tế mà Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia quy định.
Mục đích sử dụng vốn vay hợp pháp.
Có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Có dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ khả thi và có hiệu quả; hoặc có dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống khả thi và phù hợp với quy định của pháp luật.
Thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay theo quy định của Chính phủ và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.
Các điều kiện cho vay có thể được từng Ngân hàng cụ thể hóa tuỳ thuộc vào đặc điểm hoạt động của từng khách hàng, đặc điểm của từng khoản vay, tuỳ thuộc vào môi trường kinh doanh…
2.1.7 Các phương thức cho vay
Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng vay việc áp dụng các phương thức cho vay:
Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng.
Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một khoảng thời gian nhất định.
Cho vay theo dự án đầu tư: Tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời sống.
Cho vay hợp vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng, trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác.
Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay.
Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà tổ chức tín dụng thoả thuận bằng văn bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
2.2 Khái niệm về rủi ro tín dụng
2.2.1 Rủi ro tín dụng
Là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cho vay của ngân hàng biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng.
Rủi ro tín dụng còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn.
2.2.2 Biểu hiện, nguyên nhân và ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Biểu hiện
Biểu hiện của rủi ro tín dụng rất đa dạng. Tuy nhiên trên thực tế nó thường được biểu hiện qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn, là việc xuất hiện những biến cố không bình thường trong quan hệ tín dụng từ đó tác động xấu đến hoạt động của Ngân hàng, có thể làm cho Ngân hàng thiệt hại hay mất khả năng thanh toán cho khách hàng.
Nguyên nhân
Rủi ro tín dụng có thể không chỉ do nguyên nhân chủ quan từ phía Ngân hàng cho vay mà còn do nguyên nhân khách quan từ chính khách hàng vay vốn hay ảnh hưởng của môi trường kinh tế:
Trong hoạt động kinh doanh có rất nhiều yếu tố từ môi trường tác động xấu đến tình hình hoạt động của doanh nghiệp, như khi xảy ra các thiên tai, bão lụt, dịch bệnh… sẽ gây ảnh hưởng tâm lý người tiêu dùng, hạn chế sức mua của thị trường, làm cho tình hình kinh doanh không đạt như dự tính. Hay khi nền kinh tế bị suy thoái, việc xuất nhập khẩu, tiêu thụ hàng hóa bị hạn chế, giá cả sụt giảm… khiến việc kinh doanh của khách hàng không thuận lợi, do đó việc thu nợ của Ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn.
Đôi lúc hoạt động tín dụng của Ngân hàng vẫn có thể gặp phải rủi ro mà nguyên nhân xuất phát từ chính quá trình sử dụng vốn của khách hàng vay. Nếu trong quá trình kinh doanh, khách hàng gặp phải những biến động trong gia đình hay xấu hơn nữa là thiếu ý thức trả nợ thì tất nhiên việc thu nợ của Ngân hàng có thể phải gặp khó khăn. Còn đối với những khách hàng không sử dụng vốn đúng cam kết, cụ thể là không thực hiện đúng phương án sản xuất kinh doanh đã đề ra và những khách hàng có phương án sản xuất kinh doanh không mang lại hiệu quả thì chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến nguồn thu dùng để trả nợ, Ngân hàng sẽ khó có thể thu hồi đối với các khoản nợ này.
Cuối cùng nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro tín dụng còn là những nguyên nhân từ chính bản thân Ngân hàng, đó là việc cán bộ tín dụng tự bản thân chưa nắm vững, chấp hành quy chế cho vay; trong quá trình thẩm định hồ sơ còn chủ quan, hời hợt, lập tờ trình cho vay không trung thực; thiếu sự quan tâm theo dõi, thu nợ khách hàng, công tác quản lý tín dụng chưa chặt chẽ gây sai sót trong quyết định cho vay… Trong đó, dễ dẫn đến rủi ro tín dụng cho Ngân hàng nhất là khi thực hiện thẩm định hồ sơ vay, nếu cán bộ tín dụng còn thiếu kinh nghiệm hoặc thẩm định không theo đúng trình tự và quy định sẽ có thể bị khách hàng lừa đảo, qua mặt; đôi khi còn xảy ra trường hợp cán bộ tín dụng cố ý thẩm định sai sự thật gây thiệt hại cho chính bản thân Ngân hàng.
Ảnh hưởng của rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng ở mứa cao chứng tỏ hoạt động cấp tín dụng không mang lại hiệu quả:
Nếu nghiệp vụ cấp tín dụng phát sinh rủi ro cũng tức là phát sinh nợ quá hạn trong tổng dư nợ tại Ngân hàng, mà tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ càng cao thì thể hiện chất lượng tín dụng càng thấp. Mặt khác khi nợ quá hạn gia tăng thì theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN, Ngân hàng sẽ p