Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù họp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh , quy luật cung cầu. Và đặc biệt nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN,
Chia sẻ: vietpd | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Phân tích tài chính doanh nghiệp và các giải pháp trong công tác quản lý kinh doanh tại Nhà máy Len Hà Đông, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời nói đầu
Đất nước ta đang trong quá trình phát triển theo mô hình kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa, do vậy phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp cũng phải được thay đổi cho phù họp với xu hướng phát triển đó. Hơn nữa nền kinh tế thị trường chịu sự tác động của quy luật giá trị, quy luật cạnh tranh , quy luật cung cầu. Và đặc biệt nước ta đã và sẽ hội nhập chủ động hiệu quả vào khu vực AFTA/ASEAN, mức độ mở cửa hàng hoá dịch vụ tài chính đầu tư sẽ đạt và ngang bằng với các nước trong khối ASEAN từng bước tạo điều kiện nặng về kinh tế, về pháp lý để hội nhập sâu hơn về kinh tế khu vực và thế giới. Do đó vấn đề phân tích và quản lý tài chính doanh nghiệp là một khâu trọng tâm của quản lý doanh nghiệp.
Việc thường xuyên tiến hánh phân tích tình hình tài chính sẽ giúp cho các doanh nghiệp và các cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ thực trạng hoạt động tài chính, kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp cũng như xác định được một cách đầy đủ, đúng đắn nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố thông tin có thể đánh giá tiềm năng , hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng như rủi ro và triển vọng trong tương lai của doanh nghiệp để lãnh đạo doanh nghiệp đưa ra những giải pháp hữu hiệu, những quyết định chính xác nhằm nâng cao chất lượng công tác quản lý kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Các bước tài chính là tài liệu chủ yếu để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp vì nó phản ánh một cách tổng hợp nhất về tình hình công nợ, nguồn vốn, tài sản các chỉ tiêu về tình hình tài chính cũng như kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Tuy nhiên những thông tin mà báo cáo tài chính cung cấp là chưa đầy đủ vì nó không giải thích được cho người quan tâm biết được rõ về thực trạng hoạt động tài chính những rủi ro, triển vọng và xu hướng phát triển của doanh nghiệp. Phân tích tình hình tài chính sẽ bổ khuyết cho sự thiếu hụt này.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc phân tích tình hình tài chính đối với sự phát triển của doanh nghiệp kết hợp với kiến thức lý luận được tiếp thu ở nhà trường và tài liệu tham khảo thực tế cùng với sự giúp đỡ hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo TS. Nguyễn ái Đoàn cùng toàn thể các cô chú trong phòng tài chính- kế toán Nhà máy Len Hà Đông, em đã chọn đề tài “Phân tích tài chính doanh nghiệp và các giải pháp trong công tác quản lý kinh doanh tại Nhà máy Len Hà Đông”
Kết cấu của chuyên đề ngoài phần mở đầu và kết luận gồm 4 phần chính sau:
Phần I: Cơ sở lý luận về tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp
Phần II: Giới thiệu khái quá chung về doanh nghiệp
Phần III: Phân tích tình hình tài chính ở Nhà máy Len
Phần IV: Một số kiến nghị và biện pháp cải thiện tình hình tài chính ở Nhà máy Len
Phần I
cơ sở lý luận về tài chính và phân tích tài chính doanh nghiệp
1.1. Khái niệm, bản chất, chức năng tài chính doanh nghiệp và môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
1.1.1 Khái niệm.
Tài chính là các hoạt động kinh tế diễn ra trong doanh nghiệp và được biểu hiện dười dạng tiền tệ, gắn với hoạt động kinh doanh, bắt đầu từ việc lập nhu cầu về vốn đến huy động và phân bổ nguồn vốn, sau đó sử dụng và đánh giá hiệu quả.
1.1.2 Bản chất tài chính doanh nghiệp.
Hình thức biểu hiện của phạm trù tài chính nói chung, tài chính doanh nghiệp nói riêng là tiền tệ và quỹ tiền tệ. Còn bản chất của nó được ẩn dấu bên trong là những biểu hiện kinh tế phức tạp dưói hình thái giá trị gắn liền với việc tạo lập và xây dựng các quỹ tiền tệ trong sản xuất kinh doanh. Có ba mối quan hệ sau đây:
- Thứ nhất: Những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với Nhà nước. Tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước( nộp ngân sách Nhà nước). Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho doanh nghiệp Nhà nước và có thể góp vốn với Công ty liên doanh hoặc góp cổ phần hoặc cho vay. Doanh nghiệp phải bảo toàn và sử dụng vốn có hiệu quả, thực hiện đầy đủ các chế độ tài chính của Nhà nước quan hệ này được giới hạn trong khuôn khổ luật định.
- Thứ hai: Những quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với thị trường. Từ sự đa dạng hoá hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra các yếu tố của thị trưòng: thị trường hàng hoá, thị trường lao động, thị trường tài chính ( thị trườngvốn).
Các mối quan hệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phát sinh thường xuyên trong các thị trường này gồm: quan hệ giữa doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác, giữa doanh nghiệp với nhà đầu tư , giữa doanh nghiệp với bạn hàng và khách hàng thông qua việc hình thành và sử dụng quỹ tiền tệ trong sản xuất kinh doanh, bao gồm các quan hệ thanh toán tiền mua bán vật tư, hàng hoá, chi trả tiền công, cổ tức… giữ doanh nghiệp với ngân hàng, các tổ chức tín dụng phát sinh trong quá trình doanh nghiệp vay và hoàn trả vốn, trả lại cho ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
- Thứ ba: Những quan hệ kinh tế trong nội bộ doanghiệp. Đó là mối quan hệ kinh tế giữa doanh nghiệp với các phòng ban, phân xưởng, tổ đội sản xuất và cán bộ nhân viên trong quá trình tạm ứng, thanh toán tài sản, vốn, phân phối thu nhập…
1.1.3 Chức năng của tài chính doanh nghiệp
Mỗi một thành viên, một đơn vị nền kinh tế đều phải mang một số chức năng nhất định. Xuất phát từ yêu cầu của nền kinh tế hay của đơn vị đó, khi muốn hoạt động có hiệu quả thì phải thực hiện tốt , đầy đủ và thực hiện một cách sáng tạo những chức năng nhiệm vụ của mình. Một là đối với doanh nghiệp là một thực thể của nền kinh tế, được tổ chức một cách chặt chẽ, khoa học thì việc thực hiện chức năng, chủ yếu là chức năng tài chính, là một yêu cầu, một đòi hỏi bắt buộc không chỉ từ bên ngoài mà cả trong nội bộ của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp mang chức năng trọng yếu, chức năng phân phối và chức năng giám đốc. Tuy hai chức năng này riêng biệt nhưng chúng luôn luôn có mối quan hệ biện chứng, chúng tác động lẫn nhau trong một phạm vi nào đó, giúp đỡ cho nhau. Qua tìm hiểu hai chức năng này ta càng có thể thấy rõ điều đó hơn.
* Chức năng phân phối
Phân phối là một thuộc tính phản ánh bản chất của của tài chính doanh nghiệp, nó vốn có trong phạm trù tài chính doanh nghiệp. Tuy nhiên khi nói đến chức năng đó trong công việc tài chính doanh nghiệp. Nói đến chức năng phân phối là nói đến biểu hiện khả năng khách quan của doanh nghiệp, nói đến chủ đề phân phối các nguồn tài chính, đến đối tượng phân phối của tài chính doanh nghiệp, đến kết quả của quá trình phân phối đó. Còn khi đề cập tới việc thực hiện chức năng phải nói đến con người vận dụng chức năng đó thực hiện như thế nào.
Trong phạm vi chức năng phân phối, hoạt động của tài chính bao gồm 3 nhóm lớn:
- Phân phối các nguồn lực tài chính để hình thành vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Đây là một nhiệm vụ rất quan trọng của chức năng phân phối bởi nó quiyết định đến kết quả, tiến trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp do một doanh nghiệp muốn hoạt động cần phải có vốn . Đối với doanh nghiệp Nhà nước, ngoài nguồn tài chính được ngân sách cấp khi thành lập hoặc bổ sung hàng năm thì doanh nghiệp có một nguồn tài chính khác. Đó là nguồn vốn tự bổ sung của doanh nghiệp sau một quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh có lãi hoặc do nhận đóng góp tham gia liên doanh của các của các đơn vị khác để đáp ứng cho nhu cầu vốn kinh doanh trong kỳ của doanh nghiệp.
Đối với các Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn, Công ty tư ,nhân thì ngoài vốn tự đóng góp và vốn tự bổ sung thì Công ty đó không có nguồn vốn nào khác nữa. Muốn tăng thêm vốn thì các Công ty này chỉ còn cách kêu gọi các cổ đông góp thêm hoặc đi vay ngân hàng..
- Hoạt động phân phối hợp lý và sử dụng hiệu quả nguồn vốn đã huy động được hình thành các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp, các tài chính của doanh nghiệp như tài sản cố định tài sản lưu động…, hoặc để đầu tư… ở khâu này yếu tố hiệu quả sử dụng vốn được đặt lên hàng đầu. Việc bố trí tỷ trọng hợp lý giữ tài sản cố định và tài sản lưu động của doanh nghiệp phải phụ thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp, việc bổ sung các quỹ tiền tệ còn phải phụ thuộc vào nhu cầu và tình hình tổ chức của doanh nghiệp thời gian tới .. Do vậy với chức năng phân phối nguồn vốn của mình, tài chính doanh nghiệp phải xác định cơ cấu vốn hợp lý. Tuy nhiên có được cơ cấu vốn hợp lý không phải đơn giản, một phần do lượng vốn của doanh nghiệp biến động thường xuyên được bổ xung thêm vào do làm ăn có lãi hoặc bị giảm bớt nếu làm ăn thua lỗ, một phần khác là do hoàn cảnh và điều kiện kinh doanh cũng thường xuyên biến đổi. Mặc dù vậy mỗi nghành kinh doanh đều đưa ra một tiêu chuẩn chung nhất
- Hoạt động phân phối kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sau mỗi kỳ kinh doanh, doanh nghiệp đều thực hiện công việc phân phối hoặc phân phối lại kết quả hoạt động kinh doanh ( nếu doanh nghiệp đã tiến hành phân phối trước theo kết quả dự tính). Kết quả kinh doanh của doanh nghiệp thể hiện thông qua doanh nghiệp, qua lợi nhuận khi trừ chi phí và được phân bổ theo quy định của Nhà nước. Đầu tiên là các khoản nộp cho ngân sách, các khoản góp vào quỹ, lãi chia cho cổ đông(nếu là Công ty cổ phần).
Tóm lại, chức năng chủ yếu của tài chính doanh nghiệp, nó xoay quanh nhiệm vụ cơ bản là làm cơ sở cho công tác và tổ chức hoạch định tài chính của nhà quản trị tài chính của Công ty đó.
* Chức năng giám đốc
Nếu chức năng phân phối đưa ra biện pháp để tổ chức hoạch định tài chính thì chức năng giám đốc lại chính là biện pháp để kiểm tra giám sát tính mục đích, tính hiệu quả của chức năng phân phối. Nó là một định nghĩa như là một khả năng khách quan sử dụng tài chính doanh nghiệp như một công cụ kiểm tra, giám đốc hiệu quả quá trình phân phối các nguồn tài chính để hình thành sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
Vậy theo định nghĩa trên chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp là một chức năng khách quan mà nhờ vào đó việc kiểm tra bằng đồng tiền được thực hiện đối với quá trình phân phối sản phẩm xã hội và thu nhập thành các quỹ tiền và sử dụng chúng theo mục đích đã định. Hàng ngày hoặc hàng kỳ quyết toán, doanh nghiệp phải theo dõi sát sao hệ thống tiền tệ của mình , hay nói cách khác công cụ của chức năng giám đốc là tiền tệ. Nhà tài chính doanh nghiệp sử dụng công cụ đó để thực hiện chức năng giám đốc thông qua các chỉ tiêu kinh tế tài chính của mọi hoạt động của doanh nghiệp mình. Qua việc kiểm tra giám đốc đó thì phải tìm ra các ưu nhược điểm của quá trình phân phối và sử dụng các doanh nghiệp để nghiên cứu đưa ra biện pháp tốt nhất thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển.
Một điểm cuối đáng ghi nhận trong nội dung chức năng giám đốc của tài chính doanh nghiệp bơỉ vì đây chính là công việc giám đốc thông qua các chỉ tiêu giá trị. Tài chính là một phạm trù giá trị sử dụng đồng tiền làm thước đo nên muốn giám đốc được bằng đồng tiền thì phải thực hiện được quy luật giá trị các nội dung của giám đốc tài chính như : giám đốc nguồn vốn, quá trình chu chuyển vốn và hiệu quả sử dụng vốn , giám đốc quá trình hình thành và sử dụng tiền tệ, quá trình thực hiện các chế độ, chính sách của Nhà nước về kinh tế tiền tệ…
Vậy, qua tìm hiểu về ,hai chức năng phân phối và giám đốc tài chính doanh nghiệp ta càng thấy rã mối liên quan mật thiết giữa chúng , thấy được sự nâng đỡ, phụ thuộc lẫn nhau giữa giám đốc vầ phân phối . để thực hiện tốt chức năng phân phối thì chức năng giám đốc cũng được chú ý, đề cao và ngược lại. Phân phối chỉ hợp lý nếu giám đốc có hiệu quả và giám đốc chỉ được nâng cao nếu phân phối được thực hiện tốt.
1.1.4. Vai trò tài chính của doanh nghiệp.
Các chức năng tài chính doanh nghiệp được thể hiện trong thực tế qua các hoạt động của con người. Do vậy việc thực hiện phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố mà trước hết là cơ chế quản lý vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Tiếp theo đó là chế độ hoạch toán kế toán và quản lý tài chính Nhà nước, yếu tố thị trường tài chính và trình độ quản lý tài chính của doanh nghiệp .
Trong nền kinh tế thị trường, tài chính doanh nghiệp giữ nhiệm vụ trọng yếu. Tuy nhiên ta có thể thấy tài chính doanh nghiệp có bốn vai trò lớn:
+ Đảm bảo vốn nâng cao hiệu quả nền kinh tế của doanh nghiệp qua việc thực hiện hai chức năng nêu trên. Nó là điều kiện để cho hoạt động sản xuất kinh doanh được thực hiện thuận lợi theo mục đích đã định hoặc thông qua tổ chức khai thác nguồn vốn và sử dụng vốn .
+ Vai trò là đòn bẩy kinh tế: nhờ có các công cụ tài chính như đầu tư, lãi suất, cổ tức,lãi tức, giá bán, tiền lương, tiền thưởng mà tài chính doanh nghiệp trở thành biện pháp kích thích đầu tư, nâng cao năng xuất lao động của doanh nghiệp, kích thích tiêu dùng, kích thích quá trình sản xuất kinh doanh và điều tiết sản xuất kinh doanh.
+ Vai trò kích thích tiết kiệm và kinh doanh có hiệu quả kinh tế cao. Nhờ có tài chính tiền tệ hoá tất cả các quan hệ kinh tế của doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu bằng tiền trên các sổ sách kế toán mà ta có thể phân tích, giám sát kiểm tra được quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, thực hiện được chế độ tiết kiệm, giảm chi phí, thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh.
+ Vai trò cuối cùng : Tài chính doanh nghiệp là công cụ quan trọng để kiểm tra và giám sát mọi hoạt động kinh tế của doanh nghiệp.
1.2. Khái niệm, ý nghĩa, mục tiêu phân tích tài chính.
1.2.1 Khái niệm về phân tích tài chính.
Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp trong qua khứ, hiện tại và đưa ra những giải pháp tích hợp trong tương lai, doanh nghiệp cần nắm được những điểm yếu của mình để đưa ra các quyết định phù hợp, thông qua phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp. Phân tích tình hình hình tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu và so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành với quá khứ
* Môi trường hoạt động của doanh nghiệp cấu thành 4 mảng lớn được thể hiện như sau:
- Nhà nước bằng pháp luật và các thể chế , tạo các điều kiện cần thiết cho doanh nghiệp hoạt động.
- Thị trường sản phẩm, dịch vụ trao đổi các nguồn lược vật chất với doanghiệp(mua và bán)
- Thị trường lao động trao đổi nguồn nhân lực cho doanh nghiệp.
- Thị trường tài chính trao đổi nguồn lực tài chính với doanh nghiệp( tài trợ và sử dụng).
1.2.2. ý nghĩa của việc phân tích tình hình tài chính
Việc phân tích tình hình tài chính sẽ giúp các nhà quản lý doanh nghiệp và cơ quan chủ quản cấp trên thấy rõ tình hình hình tài chính của doanh nghiệp. Bởi vì mục tiêu của quản lý tài chính là cực đại hoá giá tri doanh nghiệp. Vấn dề xác định đầy đủ và đúng đắn những nguyên nhân cũng như mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố đến tình hình tài chính là vấn đề quan trọng hàng đầu trong quản lý tài chính bởi từ đó ta có thể tìm ra những biện pháp ổn định và nâng cao chất lượng công tác quản lý và hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Phân tích tình hình tài chính không chỉ cần thiết với bản thân doanh nghiệp mà nó còn cung cấp thông tin cho các đối tượng bên ngoài có liên qua trực tiếp và giám tiếp đến doanh nghiệp như các nhà đầu tư, các nhà bảo hiểm, các cổ đông, kể cả cơ quan chính phủ và ngưòi lao động.. để họ có đủ thông tin cần thiết làm cơ sở cho việc ra quyết định hợp tác với doanh nghiệp
1.2.3.Mục đích phân tích tài chính
Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước, doanh nghiệp thuộc loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước pháp luật kinh doanh.
Nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp . Tuỳ theo mục đích của mình, mỗi đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác nhau, song nhìn chung họ đều quan tâm đến khả năng thanh toán và mức lợi nhuận tối đa… Do vậy, phân tích tài chính của doanh nghiệp phải đạt được các mục tiêu sau đây:
Đối ngưòi quản lý hoặc chủ doanh nghiệp.
+ Đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và việc thực hiện các giải pháp tài chính của doanh nghiệp, từ đó đưa ra các biện pháp quản lý thích hợp hơn.
+ Làm rõ thực trạng tài sản mà họ đang sở hữu hay quản lý: tình hình và hướng biến động( tăng/ giảm) các loại tài sản đó
+ Xác định những tiềm năng cần khai thác, những nội lực chưa được phát huy của doanh nghiệp.
+ Xác định các điểm cần khắc phục, cải tiến
+ Căn cứ vào kết quả phân tích để đưa ra các giải pháp khả thi, hữu hiệu
- Các đối tượng ngoài doanh nghiệp
* Các đối tượng ngoài doanh nghiệp , những người quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp như:
Những nhà đầu tư, những nhà mua chứng khoán của doanh nghiệp
Những ngân hàng và tổ chức tín dụng đang và sẽ cho doanh nghiệp vay tiền
Những đối tác có quan hệ kinh tế với doanh nghiệp trong các mối quan hệ như mua , bán hợp tác liên doanh…
Những đối tượng này quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp dưới các góc độ :
+ Khả năng thanh toán các khoản nợ của doanh nghiệp
+ Khả năng sinh lời và hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại thời điểm hiện tại và tương lai …
Để từ đó quyết định các vấn đề:
+ Có đầu tư mua chứng khoán của doanh nghiệp hay không
+ Có đặt quan hệ tín dụng hoặc tiếp tục cho doanh nghiệp vay vốn hay không
+ Có thiết lập hoặc tiếp tục duy trì các quan hệ với doanh nghiệp hay không…
Để có thể đáp ứng các yêu cầu về thông tin nói trên , những vấn đề chủ yếu cần được giải quyết trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp là:
+ Những điểm mạnh và yếu của doanh nghiệp
+ Những thuận lợi và khó khăn của doanh nghiệp
+ Khả năng sinh lời và mức độ rủi ro về tài chính
1.3. Phương pháp phân tích tài chính.
Các công cụ chủ yếu để phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
+ Trên bảng cân đối kế toán với tổng tài sản, tổng nguồn vốn để đánh giá từng khoản mục so với quy mô chung.
+ Phân tích theo chiều ngang, phản ánh sự biến động khác của từng chỉ tiêu làm nổi bật các xu thế và tạo nên mối quan hệ của các chỉ tiêu phản ánh trên cùng 1 dòng của báo cáo so sánh.
+ Phương pháp so sánh:
So sánh là phương pháp được sử dụng phổ biến nhất trong phân tích để đánh giá kết quả, xác định vị trí và xu hướng biến động của các chỉ tiêu phân tích. Vì vậy để tiến hành so sánh giải quyết những vấn đề cơ bản như xác định số gốc để so sánh, xác định điều kiện so sánh xác định mục tiêu so sánh.
+ Điều kiện so sánh.
Chỉ tiêu kinh tế được hình thành cùng một khoảng thời gian như nhau:
- Chỉ tiêu kinh tế phải thống nhất về mặt nội dung và phương pháp tính toán.
- Chỉ tiêu kinh tế phải cùng đơn vị đo lường.
- Cùng quy mô hoạt động với điều kiện kinh doanh tương tự nhau
+ Tiêu chuẩn so sánh: Là các chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (kỳ gốc).
+ Các phương pháp so sánh thường sử dụng.
- So sánh tương đối: Phản ánh kết cấu mối quan hệ tốc độ phát triển và mức độ phổ biến của các chỉ tiêu kinh tế.
- So sánh số tuyệt đối: Cho biết khối lượng, quy mô doanh nghiệp đạt được từ các chỉ tiêu kinh tế giữa kỳ phân tích và kỳ gốc.
- So sánh số bình quân: Cho biết khả năng biến động của một bộ phận chỉ tiêu hoặc nhóm chỉ tiêu.
+ Phương pháp chi tiết hoá chỉ tiêu phân tích.
Để phân tích một cách sâu sắc các đối tượng nghiên cứu, không thể chỉ dựa vào các chỉ tiêu tổng hợp, mà cần phải đánh giá theo các chỉ tiêu cấu thành của chỉ tiêu phân tích. Thông thường trong phân tích việc chi tiết chỉ tiêu phân tích được tiến hành theo các hướng sau:
- Chi tiết theo bộ phận cấu thành chỉ tiêu:
Một kết quả kinh doanh biểu hiện trên các chỉ tiêu theo các bộ phận cùng với sự biểu hiện về lượng của bộ phận đó sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đánh giá chính xác kết quả.
- Chi tiết theo thời gian , chi tiết theo thời gian giúp các giải pháp có hiệu quả cho công tác sản xuất kinh doanh tuỳ theo đặc tính của quá trình sản xuất kinh doanh, tuỳ theo nội dung kinh tế của các chỉ tiêu phân tích, tuỳ mục đích phân tích khác nhau có thể lựa chọn khoảng thời gian cần chi tiết khác nhau và chỉ tiêu chi tiết khác nhau.
- Chi tiết theo địa điểm:
Chi tiết chỉ tiêu phân tích theo địa điểm là xác định các chỉ tiêu phân tích theo các địa điểm thực hiện các chỉ tiêu đó
1.3.1. Thông tin sử dụng trong phân tích báo cáo tài chính
Phân tích tài chính sử